Ông Dương Văn Minh lên làm tổng thống thay ông Trần Văn Hương có thật sự là tin mừng cho miền Nam thời chiến tranh bấy giờ?Miền Nam ngập trong cảnh loạn lạc,mất mát sau sự chủ quan và chỉ huy chiến tranh thất bại của ông Nguyễn Văn Thiệu......
Ông Thiệu từ chức ngày 21-4 -1975, khoảng bốn năm ngày sau báo chí Sài Gòn đăng tin Thiệu, Khiêm ra đi tại phi trường Tân Sơn Nhất trước sự căm phẫn của mọi người.
Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay ông Thiệu được bốn năm ngày bèn ngỏ lời với đồng bào về hiện tình đất nước trên đài phát thanh Sài Gòn, bằng giọng sướt mướt, thở than, đau khổ, ông vừa nói vừa khóc.
“Tôi xin nói thiệt với đồng bào, tình hình hiện nay zô cùng bi đát… Ðồng bào cũng đã biết vùng Một vùng Hai miền Trung đã hoàn toàn tan rã, vùng Ba, vùng Bốn cũng nay cũng đã bị nhiều sứt mẻ. Rồi nay mai đây những trận đánh sấm sét sẽ đổ xuống và rồi Thủ đô Sài Gòn này sẽ thành cái núi xương sông máu. Tôi đã nghĩ đến cái cảnh núi xương sống máu ấy và đã bàn với anh Dương văn Minh, tôi có nói với ảnh như zầy “Bây giờ tôi bàn giao chính quyền cho anh, nhưng bàn giao để anh tìm cái giải pháp hoà bình cho đất nước chứ bàn giao cho anh để anh đầu hàng thì bàn giao làm gì. . hở trời!!. .
Giọng ông già run run , thảm não, ông khóc thiệt tình khi nghĩ đến cái viễn tượng núi xương sông máu của Sài Gòn, những tiếng khóc não nùng của ông đã gieo kinh hoàng vào lòng mọi người. Bàn dân thiên hạ ai nấy hồn lạc phách siêu, họ không khỏi giật mình khiếp đảm khi thấy mọi bí mật quốc gia đã được nói huỵch toẹt trên làn sóng điện. Ðối với người Sài Gòn nay chỉ có thể xác là còn sống, tâm hồn coi như đã chết.
Tin ông Dương Văn Minh sẽ được cử lên làm Tổng Thống thay thế ông Trần Văn Hương không còn là những lời đồn đãi nữa, chính ông Hương đã nói thẳng ra trên đài phát thanh.
Chiều ngày 28-4-1975, đài phát thanh Sài Gòn tường trình buổi lễ bàn giao chức vụ Tổng thống giữa hai ông Trần Văn Hương và Dương văn Minh tại dinh Ðộc Lập, người xướng ngôn viên bằng một giọng bi quan não nùng nói.
– Thưa quí vị, chúng tôi đang theo dõi để tường thuật cùng quí vị buổi lễ bàn giao lịch sử ngày hôm nay. Thưa quí vị, bầu trời hôm nay rất là u ám, y như hoàn cảnh đất nước của chúng ta hiện nay. Trong lúc này đang có những tiếng sấm sét nổ rền trên không, bầu trời hôm nay thật là ảm đạm, thưa quí vị tình hình đất nước chúng ta cũng vô cùng ảm đạm.
Một lúc sau lễ bàn giao diễn ra trong bầu không khí buồn tẻ gượng gạo, ông Dương Văn Minh bằng giọng chậm chãi gọi ông Trần Văn Hương bằng thầy. Ðối với phía Cộng Hoà Miền Nam ông kêu gọi tinh thần hoà giải dân tộc, và bằng giọng ôn tồn, từ tốn ông khuyên nhủ nhân dân .
“Xin đồng bào đừng vội bỏ nước ra đi mà hãy ở lại với quê cha đất tổ của mình”
Báo chí xuất bản chiều nay đăng hình ông Dương Văn Minh mặc áo vét, thắt ca vát, tươi cười với hàng chữ lớn “ Ðại Tướng Dương Văn Minh Cứu Quốc…. ông Dương Văn Minh luôn tỏ ra là người của dân tộc”. Những trang báo cố gắng trấn an, lên giây cót tinh thần người dân Thủ đô vào giờ phút chót, nhưng một lúc sau nhiều tiếng nổ kinh thiên động địa từ phí phi trường Tân Sơn Nhất rung chuyển cả thành phố Sài Gòn, mấy chiếc phản lực cơ A-37 đang chúi xuống ném bom phi trường Tân Sơn Nhất, tại Phú Nhuận người ta nhìn thấy cả hình những trái bom y như những hạt đậu đang rơi xuống.
Chừng hai mươi phút sau, một chiếc quay về phía dinh Ðộc Lập vừa bay vừa nhào lộn để tránh đạn, phía dinh có tiếng súng bắn lên dữ dội. Ngoài phố những người hiếu kỳ đứng coi bỗng dưng hết hồn bỏ chạy tán loạn. Mấy chiếc khác lừng lững bay về phía tây bắc trong khi cao xạ ở bến Bạch Ðằng bắn nổ lên nổ lụp bụp bên dưới máy bay.
Phía đài phát thanh có nhiều tiếng súng và những tiếng nổ như lựu đạn. Khi ấy ông Dương Văn Minh lên tiếng trên radio cho biết năm phi cơ lạ ném bom phi trường Tân Sơn Nhất. Ðúng bẩy giờ đài BBC đọc bản tin tóm tắt về tình hình Việt Nam, người xướng ngôn viên nhấn mạnh từng câu từng chữ.
“- Hôm nay tại Sài Gòn ông Dương Văn Minh được cử lên giữ chức vụ quyền Tổng thống thay thế ông Trần Văn Hương để chuẩn bị cho một cuộc đầu hàng.
-Năm phi cơ lạ ném bom phi trường Tân Sơn Nhất.
-Nhiều loạt súng nổ tại Sài Gòn không biết thuộc phe nào.
Qua phần bình luận và nhận định người xướng ngôn cho biết lễ bàn giao chức vụ Tổng thống tại Dinh Ðộc lập chứng tỏ cho thấy sự tan rã của chính quyền Sài Gòn , người dân Sài Gòn nay đang từ chỗ lo sợ đến chỗ hốt hoảng.
Cũng vào khoảng thời gian này mười năm về trước người Mỹ bắt đầu đổ quân vào Việt Nam. Tháng tư 1969, Wesmoreland tại Hoa Kỳ cho biết nếu Mỹ không đổ quân vào miền Nam Việt Nam 1965 thì sẽ mất trong 6 tháng. Quân số Mỹ tại Việt Nam tăng nhanh từ 184,000 người năm 1965 lên 385,000 năm 1966, rồi 485,000 năm 1967 và cao điểm là 536,000 năm 1968. Bắc Việt cùng lúc gia tăng xâm nhập. tiếp tục gia tăng nhân lực từ 180 ngàn năm 1964 lên tới 261 ngàn trong năm 1967. Kế hoạch “đánh cầm chừng, đánh cho nó sơ” để hăm doạ BV phải vào bàn hội nghị của McNamara-Johnson đã không đạt mục đích mà trái lại còn thúc đẩy phong trào phản chiến lên cao, nhất là sau Tết Mậu thân 1968.
Năm 1969 Nixon lên làm tổng thống thừa hưởng gia tài đổ nát do Johnson và McNamara để lại khi mà phong trào phản chiến đang dâng lên như nước vỡ bờ. Mặc dù hứa hẹn trong khi tranh cử sẽ rút quân về nước trong danh dự nhưng Nixon vẫn nỗ lực tìm mọi cách bảo vệ Việt Nam chống lại sự gia tăng cường độ chiến tranh xâm lược của BV. Khác với Johnson trước đây vào những năm đầu cuộc chiến 1964, 1965… được quốc hội ủng hộ, Nixon ngày càng bị Quốc hội bó tay vì cuộc chiến tại đất nhà War at Home lên cao dữ dội. Quốc hội Mỹ phải theo dân để lấy phiếu, nhất là hồi ấy Dân chủ nắm đa số, họ mị dân, tất cả những điều bất thuận lợi đó ngày càng đè nặng lên chính phủ Nixon. Mặc dù giúp Việt Nam đánh qua các căn cứ hậu cần BV tại Mên, Lào nhưng bị chống đối dữ dội, cuộc chiến tại đất nhà quyết liệt nên không đat được kết quả mong muốn tại mặt trận Hạ Lào.
Năm 1972 Nixon giúp VNCH đẩy lui cuộc xâm lăng ồ ạt của BV trong trận mùa hè đỏ lửa để lấy ưu thế trên bàn hội nghị và ký kết Hiệp định Paris ngày 27-1-1973 , rút quân và đem 587 tù binh về nước.
Sau Hiệp định Paris, quân viện cho VNCH bị cắt giảm dần như sau:
-Sau khi Mỹ rút, viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hoà:
-Tài khoá 1973 : hai tỷ mốt (2,1 tỷ)
-Tài khoá 1974 : một tỷ tư (1,4 tỷ)
-Tài khoá 1975 : bẩy trăm triệu (0,7 tỷ).
Năm 1975, giá dầu lên tiền mất giá, đạn tăng giá 27% nên tiền viện trợ chẳng mua được bao nhiêu. Theo ông Cao Văn Viên từ tháng 7-1974 cho tới tháng 4-1975 hoả lực quân đội VNCH giảm 73%, tháng 2 năm 1975 số đạn tồn kho các loại súng lớn, nhỏ chỉ còn đủ xử dụng 30 ngày. Trong khi viện trợ quân sự của Cộng Sản quốc tế cho Bắc việt giai đoạn 1973-1975 (649,246 tấn vũ khí) vẫn không thay đổi mấy so với giai đoạn 1969-1972 (684,666 tấn vũ khí).
Lực lượng chính qui BV giai đoạn 1975 (20 sư đoàn) gấp hai lần hồi 1972 (10 sư đoàn), vũ khí đạn dược năm 1975 cũng gấp hai lần 1975 do BV tiết lộ trên báo Sài Gòn Giải Phóng năm 1976. Viện trợ quân sự của CS quốc tế cho BV năm 1975 và 1972 ngang nhau nhưng năm 1975 họ mang vào Nam được nhiều hơn vì đường xâm nhập từ 1973 coi như bỏ ngỏ.
Mặc dù tình thế khó khăn bi đát nhưng ông Thiệu vẫn lạc quan tin tưởng vào lời hứa của Tổng thống Nixon, trong buổi họp quân sự cao cấp ngày 6-12-1974 (đúng một tuần trước khi BV tấn công Phước Long) tại dinh Ðộc Lập ông cho biết CSBV chưa đủ khả năng đánh vào các thành phố lớn, chỉ có thể phá hoại cuôc bầu cử tổng thống, ông đã cho sửa hiến pháp để ra ứng cử thêm một lần nữa.
Ngày 10-3-1975, 3 sư đoàn CSBV tấn công chiềm Ban Mê Thuột. Ngày 11-3-1975 ông Thiệu họp tham mưu cao cấp tại Dinh Ðộc Lập quyết định tái phối trí lực lượng bỏ các vùng cao nguyên để giữ các vùng đông dân cư. Ngày 13-3-75 Quốc Hội Mỹ bác bỏ 300 triệu quân viện bổ túc. Hôm sau ngày 14-3-1975 ông ra lệnh rút bỏ Pleiku, Kontum về Qui nhơn đã dẫn đến thảm bại, theo ông Cao Văn Viên trong The Final Collapse.
“Ít nhất 75% khả năng tác chiến của quân đoàn II bao gồm sư đoàn 23 bộ binh cũng như các lực lượng Biệt động quân, thiết giáp, pháo binh, công binh và truyền tin đã bị hủy hoại chỉ trong vòng có mười ngày”
(Nguyễn Ðức Phương dịch , Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 738 )
Ngày 18-4 Quốc Hội Mỹ bác bỏ 722 triệu quân viện khẩn cấp do Tổng thống Ford đưa ra. Giới chức ngoại giao quốc tế vận động BV thương thuyết nhưng họ chỉ đòi nói chuyện với Dương Văn Minh, yêu cầu ông Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức. Ngày 21-4 ông Thiệu từ chức, phó Tổng thống Trần văn Hương lên thay. Ngày 24-4 ông Thiệu và Thủ tướng Khiêm bỏ nước ra đi.
Ngày 30-4 Trung đoàn 24 BV (SÐ 10) giao tranh ác liệt với quân Dù tại Ngã Tư Bẩy Hiền và Lăng Cha Cả, Cộng quân bị thiệt hại nặng tới 50% quân số. BV tấn công trại Hoàng Hoa Thám, BTL không quân. BV xâm nhập Ngã Tư Bẩy Hiền, trong vòng 15 phút có 6 chiến xa bị Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù bắn hạ, họ bị chận đánh tơi bời phải rút khỏi ngã tư Bẩy Hiền.
Theo Tướng Hoàng Lạc, ông Dương Văn Minh lại cử người tới Tân Sơn Nhất để thương thuyết với CS (trong phái đoàn quân sự) xem có vớt vát được tí nào không nhưng họ vẫn một mực đòi phải buông súng đầu hàng nếu không sẽ pháo kích tan nát thành phố. Sài Gòn bây giờ đang nằm trong tầm pháo của quân thù. Phòng tuyến đã dần dần sụp đổ dưới các đợt tấn công, pháo kích của BV, họ đã vào sát thành phố khó hy vọng gì cứu vãn được tình thế.Tướng Khôi duyệt đoàn quân lần cuối, các đơn vị VNCH rời Biên Hoà trong trật tự, trang phục chỉnh tề, tác phong nghiêm chỉnh, không hề nao núng, giống y như những lần hành quân trước đây khi còn Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí chỉ huy xông trận trên chiến trường Campuchia. Sau đó ông lên trực thăng quan sát thấy tình hình yên tĩnh, các cánh quân ta tiến đều đặn về hướng về Sài Gòn, những ổ kháng cự của địch bên trục tiến quân bị đè bẹp ngay, khi ấy là 9 giờ sáng ngày 30-4. Tướng Khôi bay về hướng Gò vấp, từ trên cao nhìn xuống thấy những đoàn quân xa chở đầy lính, những xe tăng, xe kéo pháo của CSBV như những con rắn dài trên xa lộ Biên Hoà và trên Quốc lộ 13 bò vào Sài Gòn. Tướng Khôi đáp trực thăng xuống trại Phù Ðổng để liên lạc với BTTM, các cánh quân thiết giáp của ông vừa đến cầu Bình Triệu gần khu nhà thờ Fatima. Khi nghe máy thu thanh phát ra lời kêu gọi ngưng chiến đấu của Tổng thống, ông để cho các đơn vị tự động buông vũ khí và chấm dứt quyền chỉ huy của mình .
Lúc 10 giờ rưỡi Tổng thống Dương Văn Minh trên radio lệnh cho sĩ quan các cấp hãy liên lạc với các đơn vị Cộng Hoà Miền Nam nơi gần nhất để giao nạp vũ khí, thực hiện ngưng bắn tại chỗ trong khi ông và chính phủ đang chờ các nhà lãnh đạo Cộng Hoà Miền Nam tới để bàn giao quyền hành tránh đổ máu vô ích. Chuẩn Tướng Nguyễn hữu Hạnh phó Tổng tham mưu trưởng cũng kêu gọi các cấp sĩ quan liên lạc các đơn vị CHMN nơi gần nhất để giao nạp vũ khí. Một giờ sau xe tăng BV vào dinh Ðộc Lập, họ buộc ông Dương Văn Minh phải lên đài phát thanh Sài Gòn tuyên bố đầu hàng.
Các tài liệu Mỹ (Vietnam, A History; The World Almanac Of The Vietnam War) đều nói Bùi Tín là người đại diện CSBV vào tiếp thu dinh Ðộc Lập. Nay phía CS đưa ra rất nhiều nguồn tin khác nhau về cuộc tiếp thu này, có người nói Bùi Văn Tùng chính uỷ thiết giáp là người đã tiếp thu, có người nói Cao Ðăng Chiếm, có người nói Ðại tá Nam Long… Ðối với chúng ta những nguồn tin ấy chẳng có gì đáng bàn.
Theo lời kể của Trung uý Lê Ngọc Danh, tuỳ viên của Tướng Nam thì ông là người nhân ái, sùng đạo Phật không muốn đổ máu thêm.
“Là một tư lệnh Quân đoàn, đã nắm trong tay nhiều đơn vị trung thành, tướng Nguyễn Khoa Nam có thể ra lệnh tiếp tục chiến đấu, nhưng là vị tướng có lòng nhân ái, không muốn binh sĩ và đồng bào đổ máu vô ích, ông không cho phá cầu, ông không muốn có người chết thêm”
Trích trong “Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam”, Bút ký của Trung úy Lê Ngọc Danh.Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh phó tự sát chiều tối 30-4, hôm sau 1-5 Tướng Nam cũng tự sát lúc 7 giờ rưỡi sáng, Chuẩn tướng Trần Văn Hai Tư lệnh Sư đoàn 7 cũng tuẫn tiết.
Ngày 30-4-1975 kết thúc cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ khởi đầu từ nửa đêm 19-12-1946 khi Võ Nguyên Giáp ra lệnh tấn công quân Pháp tại Hà Nội. Trước đây tại các nước phương Tây cũng như tại Mỹ, những cuộc biểu tình rầm rộ chống chiến tranh, kết án chính sách xâm lược của Mỹ, đòi hoà bình cho Việt Nam… nhưng không thấy ai đòi CSVN rút quân về Bắc thực hiện đình chiến. Nay CSBV xé bỏ Hiệp Ðịnh Paris mới ký chưa ráo mực, xua đại binh công khai xâm lược miền Nam trước mắt quốc tế, trước mắt những nước đã ký kết và công nhận Hiệp định Paris. Nay thì cả thế giới cứ trơ mắt ếch ra mà nhìn chẳng thấy ai nói đến công bằng hợp tình hợp lý, như thế thì công bằng ở chỗ nào?Cũng về giai thoại ông Dương Văn Minh yêu cầu Mỹ rời Việt Nam trong vòng 24 giờ, cựu Ðại Tá Phạm Bá Hoa có kể lại trong bài Giờ Thứ 25: theo đó cựu Ðại Tá Nguyễn Linh Chiêu, bạn cũ của ông Dương Văn Minh đã kể lại ngày 15-11-1991 tại nhà riêng của ông Chiêu ở Orange County, ông cho biết đã có dịp tiếp xúc với ông Dương Văn Minh tại Paris đầu năm 1991.
“Toàn bộ câu chuyện ngắn đó có đoạn cựu Ðại tá Chiêu hỏi cựu Tổng Thống Dương Văn Minh .
-Tại sao anh mới nhận chức Tổng Thống mà anh ra lệnh đuổi Mỹ về nước?
– ‘Moa’ không đuổi Mỹ. Bản văn đuổi Mỹ là do Ðại Sứ Martin (Hoa Kỳ) đưa cho ‘Moa’ và yêu cầu ‘Moa’ phổ biến.
Phần cuối câu chuyện chỉ có thế nhưng nó cho thấy Hoa Kỳ đã an bài chiến tranh chống Cộng của Việt Nam Cộng Hoà chúng ta đến tận cùng chi tiết. Vì vậy mà chúng ta không ngạc nhiên khi bản văn “đuổi Mỹ” vừa phát đi trên làn sóng đài phát thanh Sài Gòn thì từng đoàn trực thăng Hoa Kỳ thuộc Hạm Ðội 7 của họ từ ngoài khơi Thái Bình Dương ào ào vào sài Gòn, cứ như các trực thăng đó túc trực ứng chiến trên đường bay của của Hàng Không Mẫu Hạm vậy”
Trích trong Ðôi Giòng Ghi Nhớ, Hồi ký của cựu Ðại Tá Phạm Bá Hoa.
Nay dần dần nhiều bí mật quốc gia đã được tiết lộ, nhờ đó chúng ta mới thấy tất cả chỉ là một tấn tuồng hề lịch sử, thật hết nước nói.
Ngoài ra, sau ngày 30-4-1975, ông Nguyễn Văn Thành cựu Tổng thư ký phủ Phó Tổng thống tiết lộ : Khoảng hạ tuần tháng 4-1975, Ông Trần Văn Hương gặp ông Thiệu ở dinh Ðộc Lập về nói cho ông Thành biết là ông Ðại sứ Mỹ nhờ Ðại Sứ Anh nói với ông Thiệu hãy bàn giao chức Tổng thống cho ông Hương để ông Hương bàn giao cho ông Dương Văn Minh. Ông Hương rất bực tức nhưng không từ chối được.
Theo giáo sư Nguyễn Tiến Hưng người Mỹ tin là Hà Nội mới đầu có ý thương thuyết sau lại thôi.
Ðánh hơi thấy Mỹ bỏ Ðông Dương, Bắc Việt bèn thay đổi đường lối đấu tranh từ chính trị sang quân sự bạo lực. Ðại Hội 21 của Bộ Chính Trị tại Hà Nội trong tháng 10 quyết định đấu tranh quân sự, trước hết tiến đánh các đồn bót lẻ tẻ, phát triển tuyến đường xa lộ Ðông Trường Sơn.Do sai lầm trong kế hoạch tái phối trí lực lượng của ông Thiệu, Quân khu I và Quân khu II đã lọt vào tay CSBV nhanh chóng cuối tháng 3-1975, miền Nam mất khoảng hơn 40% vũ khí đạn dược , mất 40% các đơn vị tinh nhuệ, thiện chiến, thiệt hại khoảng trên 700 khẩu pháo, trên 800 thiết giáp.. các kho đạn, tiếp liệu tại miền Trung mất hết, một phần lớn lọt vào tay BV… Với tình hình này trong tháng 4-1975 miền Nam không còn một tia hy vọng tồn tại ngoại trừ sự yểm trợ của B-52.
Khoảng 2-4 cho toi 26-4-1975, BV đưa nốt 3 sư đoàn tổng trừ bị (thuộc quân đoàn 1) vào Nam nâng tổng số lên gần 20 sư đoàn bao vây Sài Gòn chặt chẽ . (Toàn bộ lực lượng BV gồm 5 quân đoàn 1, 2, 3, 4, và 232 tổng cộng 15 sư đoàn bộ binh, 6 trung đoàn đặc công, trên mười trung đoàn độc lập) trong khi phòng tuyến bảo vệ VNCH chỉ có khoảng chưa tới 6 sư đoàn. Trước sự chênh lệch quá nhiều cả về vũ khí đạn dược và quân số như vậy tại sao BV lại phải thương thuyết với Dương Văn Minh? Theo ông Trần Văn Ðôn trong hồi ký Việt Nam Nhân Chứng , Ðại Sứ Martin cho biết Hà Nội chỉ muốn nói chuyện riêng với ông Dương Văn Minh mà thôi.
Khoảng 22 tháng 4, Cộng quân pháo kích 4 hoả tiễn 120 ly nổ long trời vào Khánh Hội gây nhiều đám cháy lớn, đài BBC cho biết họ cảnh cáo chính phủ Sài Gòn phải bàn giao cho một chính quyền do họ chỉ định. BV cương quyết đòi ông Nguyễn Văn Thiệu và Trần Văn Hương phải từ chức bàn giao cho Dương Văn Minh để đánh lạc hướng, họ không muốn chính quyền Sài Gòn trong tay những người có lập trường chống Cộng cứng rắn như ông Thiệu ông Hương, họ sẽ phải tổn thất nhiều mới chiếm được một thành phố Sài Gòn tan nát. Với chính phủ ôn hoà Dương Văn Minh, cường độ chiến tranh sẽ nhẹ hơn, họ sẽ dễ dàng chiến thắng, chúng ta đã thấy từ 26-4-75, trước khi Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống, Cộng quân đã bắt đầu mở chiến dịch Hồ chí Minh , họ không đếm xỉa gì tới thương thuyết.
Người Mỹ cũng vờ vĩnh giàn xếp tìm giải pháp thoả hiệp để ru ngủ dân Sài Gòn ngõ hầu ra đi êm thắm, họ càng nói người ta càng thấy rõ bộ mặt giả nhân giả nghĩa.
Nay người ta nhìn nhận phản chiến hay cuộc chiến tại đất nhà War at Home là nguyên do chính đưa tới cắt giảm viện trợ bỏ Ðông Dương vì nó đã thúc đẩy Quốc hội trói tay chính phủ, mọi người đều biết lập pháp Hoa Kỳ thời nào cũng phải dựa vào lá phiếu của người dân. Người Mỹ chỉ trích Nixon đã kéo dài chiến tranh thêm 4 năm nữa (1969-1972) làm thiệt mạng thêm hơn 20,000 quân Mỹ, thiệt hại vô ích. Nhiều người Việt quốc gia đổ trách nhiệm cho Nixon, Kissinger làm sụp đổ miền Nam. Sự thực không phải như vậy, mặc dù lên làm Tổng thống đầu năm 1969 Nixon hứa chấm dứt chiến tranh trong danh dự, đưa quân về nước, ông vẫn cố níu kéo miền Nam nhưng cuộc chiến War at Home lên quá cao khiến ông đành bó tay chịu thua không làm gì được. Ðoàn Thêm ghi nhận trong “1969, Việc Từng Ngày” như sau
“Ngày 15-11-1969 chừng 300 ngàn người biểu tình phản chiến tại Hoa Thịnh Ðốn và nhiều thành phố khác”
Giờ Thứ 25.
Ông Phạm Bá Hoa tỏ vẻ tiếc vì quân khu IV vẫn còn nguyên vẹn 3 sư đoàn chính qui (SÐ7, SÐ9, SÐ21) và gần 200 ngàn Ðịa phương quân, Nghĩa quân… mà phải đầu hàng. Mặc dù có thể rút về Vùng 4 cầm cự thêm được một, hai tuần lễ, nhưng ông Dương Văn Minh đã quá chán nản tuyệt vọng tuyên bố đầu hàng để tránh đổ máu vô ích, ông không muốn có người chết thêm. Cũng có thể ông làm theo ý muốn của người Mỹ, họ muốn Miền Nam thua nhanh gọn để ra đi êm thắm không còn ưu tư khắc khoải.
Trả lời một cuộc phỏng vấn ở Hải Ngoại, Dương Văn Minh nói “Tôi không cứu được nước nhưng tôi phải cưú dân”.
Có người kết án ông đầu hàng giặc, có người khen ông đã cứu được Sài Gòn khỏi cơn binh đao, khói lửa…nhưng dù ông Dương Văn Minh hay một nhà lãnh đạo nào khác cũng chỉ làm được đến thế thôi. Mặc dù không phải chính trị gia lỗi lạc, nhưng ông cũng đã có lòng ở lại với đất nước đang trong cơn nguy khốn để hy vọng tìm được một lối thoát cầu may.
Sau ngày miền Nam sụp đổ, được CS phục hồi quyền công dân, ông Dương Văn Minh đã phát biểu nhiều câu có lợi cho quân chiếm đóng, ông đã tự hại ông, đã tự chôn vùi danh dự của mình. Khi sơn hà nguy biến ông đã có can đảm đứng ra gánh vác việc quốc gia đại sự, sao lại không giữ khí phách đến cùng để lưu danh muôn thuở.vào Giờ thứ 25 của miền Nam, trong khi rất nhiều vị Tướng Lãnh từ một sao cho tới bốn sao đã lên kế hoạch “Tẩu vi thượng sách”, vẫn có những vị anh hùng khác với lòng quả cảm và tinh thần trách nhiệm cao đã chiến đấu anh dũng, gan dạ cho đến giờ phút cuối cùng của cuộc chiến như các Tướng Trần Quang Khôi, Lê Minh Ðảo, Lý Tòng Bá, Lê Nguyên Vĩ… Mặc dù không thấy một tia ánh sáng cuối đường hầm, họ vẫn can đảm phục vụ đất nước cho tới giờ phút chót, nhưng tiếc thay số người trọng danh dự như thế xem ra quá ít, mặc dù quá ít nhưng nó cũng đã giữ được danh dự cho Quân đội miền Nam.
Sự thực dù có nhiều khuyết điểm, hành pháp Hoa Kỳ, các nhà lãnh đạo miền Nam Việt Nam, các vị Tướng lãnh… từ 1955 cho tới 1975 đã làm hết sức mình để giữ vững miền Nam nhưng phong trào phản chiến tại Mỹ đã làm đảo lộn tất cả mọi kế hoạch chính trị quân sự Việt – Mỹ đưa tới sụp đổ tan tành.
Cuộc chiến tại đất nhà War at Home là điều mà chính người Mỹ cũng không thể ngờ nó có thể tai hại khủng khiếp đến thế.