Theo dơi đợt huy động người dân góp ư kiến cho tu  sửa Hiến pháp 1992 mà nhà nước và Đảng Cộng sản Việt Nam đang chủ xướng  hiện nay, tôi thấy Đảng cộng sản đang bộc lộ một số giới hạn là lực cản  của ḿnh trong cách giải quyết bài toán vốn liên quan tới sự tồn vong  của họ.
                      Các giới hạn này có thể không chỉ đóng vai tṛ  quan trọng đằng sau các động thái được cho là 'lúng túng, thiếu nhất  quán' của Đảng (vốn bị một bộ phận quần chúng, trong đó có các cư dân  mạng, đặt câu hỏi khi Đảng ‘lúc mở, lúc đóng’ cho phép dân tham góp ư  kiến xây dựng hiến pháp); mà chúng c̣n có thể quyết định các động thái  chiến lược trong tương lai của Đảng. Vậy các giới hạn ấy là ǵ? Chủ  quan, khách quan ra sao?
Trước hết, trong cảm nhận của tôi, có vẻ có ba giới hạn là lực cản  mang tính chủ quan đến từ thế hệ - tuổi tác, tính toán chính trị và tâm  lư ư thức có vai tṛ ngăn trở các tiến hóa chính trị, quyền lực của  Đảng.
                      Thứ nhất, giới hạn của phạm vi tuổi tác của các  thế hệ lănh đạo của Đảng có vẻ đang là một lực cản có tác động mạnh. Thế  hệ đang chấp chính trong bộ máy 'chóp bu' ở Việt Nam hiện nay đa số là  các đảng viên kỳ cựu được trưởng thành trong giai đoạn mà trong nước vẫn  gọi là cuộc chiến tranh ‘chống Mỹ cứu nước.’
                      Những người không trực tiếp ‘cầm súng’ th́ cũng  thuộc các lực lượng chính trị, xă hội, các tổ chức ở hậu phương, hoặc  con cháu của những đảng viên ‘chiến binh’, ‘cán bộ’ trong chiến tranh  của Đảng.
                      
'Tuổi tác'
Tuổi tác quyết định ít nhất hai điều. Trước hết, những người lănh đạo  có thể mang theo họ những ảnh hưởng tâm lư chính trị, ư thức thời  chiến, ấn tượng tâm lư của thời kỳ xung đột địch ta quyết liệt và không  kém phần bạo lực do hoàn cảnh. Đây là cũng là giai đoạn không chỉ xuất  hiện các yếu tố cấu thành tâm lư thù hận, địch ta, mà đặc biệt là giai  đoạn của tâm lư và năo trạng lănh đạo duy ư chí, nguyên tắc máy móc về  chuyên chính vô sản, điều đă được nhiều nhân sỹ, trí thức trong đợt góp  ư kiến nhân lần sửa hiến pháp vừa qua nhắc tới, nhất là sau phát biểu  của ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng gần đây “sửa gáy” đảng viên, cán bộ  (và qua đó, cảnh cáo, răn đe quần chúng về thái độ và lập trường của  họ) khi đóng góp sửa đổi Hiến pháp cũng như trong chiến dịch truyền  thông, tuyên truyền bảo vệ Đảng và chế độ rất rầm rộ hiện nay.
                      Tiếp đó, cũng giống như trường hợp của Kim  Jong-un, mặc dù trẻ tuổi, ở độ tuổi trên dưới 30, nhưng không có ǵ đảm  bảo chắc chắn rằng các cán bộ lănh đạo thuộc thế hệ trẻ sẽ thoát khỏi ư  thức hệ, tâm lư và năo trạng chuyên chính như trên. Một trong các lư do  là v́ nếu họ được cơ cấu vào bộ máy lănh đạo các cấp, th́ trên con đường  đi tới quyền lực, họ chịu sự ảnh hưởng của các thế hệ cha anh, cha chú  lănh đạo, xung quanh họ vẫn c̣n các tác động của những người mà có thể  “tôi đưa anh lên được, th́ tôi cũng có thể hạ anh xuống được.” Nhưng  quan trọng nhất, môi trường "xă hội hóa chính trị” kép từ nền giáo dục  đậm màu sắc “lịch sử chiến tranh” và “chuyên chính vô sản” từ phổ thông  cho tới trường Đảng, lại bổ sung thêm bằng các môi trường rèn luyên đă  được “cơ cấu”, “dự kiến, quy hoạch nhân sự” và thực tập quyền lực trong  môi trường cạnh tranh quyền lực với “thẻ đoàn, thẻ đảng, bổng lộc, sổ đỏ  (đất đai) và tương lai là sổ hưu,” họ đă thích ứng mạnh và củng cố tâm  lư, ư thức chính trị một cách chủ động, có ư thức, và qua đó biến  những yếu tố này trở thành thành tố “kiên định” kiểu “thép đă tôi thế  đấy” và có thể "bảo hoàng hơn cả vua". Họ, nếu vẫn trong guồng máy cũ,  là một thế hệ lănh đạo mới, sẽ không có sự đổi mới như ai đó mong đợi về  cải tổ chính trị-xă hội, cách mạng dân chủ, nhân quyền triệt để ở Việt  Nam, trong và ngoài nước, kỳ vọng.
Tất nhiên, thích nghi, thích ứng là một năng lực đặc biệt của con  người, nếu giữ không được, khi thời cuộc thay đổi, th́ những tầng lớp  lănh đạo hiện nay, và những thành phần tiềm năng trong “thế hệ trẻ” sẽ  thay đổi rất nhanh, nếu họ tính toán, cân nhắc thay đổi theo kịch bản  nào là có lợi nhất cho họ, thậm chí chỉ qua một đêm, khi xuất hiện dấu  hiệu cải tổ chính trị, thể chế và xă hội mới, căn bản và thực sự.
                      
'Chắc cờ'
                      Giới hạn có tính lực cản thứ ba có vẻ nằm ở bài  toán và tư duy cân nhắc thiệt hơn của Đảng nên cải tổi, đổi mới trong  t́nh h́nh hiện nay hay là không làm ǵ, hoặc vừa di chuyển vừa kiểm  soát, nếu buộc phải di chuyển.
                      Trong một bài viết của ḿnh trên BBC, một ư  kiến của nhà quan sát và vận động trong nước cho rằng những người chiến  đấu cho cải tổ chính trị, cải cách dân chủ ở Việt Nam cần phải “thẳng  thắn với đảng, thành thật với ḿnh,” theo tôi điều này liên hệ tới một  giới hạn thứ hai của đảng, đó là tâm lư “chắc cờ” của họ. Đảng ngày càng  tuyên bố phải nắm chắc quyền lực hơn, th́ làm sao có thể nghe ư kiến  của các giới nào đó đ̣i đảng chia sẻ quyền lực, thậm chí từ bỏ nó?
                      Lâu nay, trên truyền thông mạng không chính  thức, có ư kiến trào phúng cho rằng Tổng bí thư Đảng Cộng sản là thiếu  sáng suốt, trong khi một số ư kiến khác cho rằng ngược lại, nhà lănh đạo  của Đảng hiện nay không hề lú lẫn như bị cáo buộc.
                      Hai luồng ư kiến đều có thể có những lư riêng  của ḿnh, một bên có thể cho rằng nhà lănh đạo của Đảng không nh́n thấy  hết tiền đồ và đang tích cực làm những việc chỉ dẫn đến tương lai thiếu  bền vững của Đảng, khi ông và các đồng chí cố t́nh “giữ khư khu” quyền  lực; c̣n bên kia th́ có thể lập luận rằng “nếu ông Tổng bí thư cải tổ  kiểu Gorbachov, ông và các đồng chí, chiến hữu của ông sẽ không c̣n ghế  quyền lực để ngồi, và bổng lộc để hưởng,” bởi vậy nên phải giữ chắc, th́  đó là tính toán chính trị dựa trên cân nhắc hơn thiệt, có sự tham gia  của hoạt động trí tuệ ở nhà lănh đạo đó, chứ không phải đơn thuần là “lú  lẫn.”
Nhưng tôi cho rằng chính tính toán “chắc cờ”, “giữ khư khư” quyền lực  này là giới hạn, hạn chế thứ hai của Đảng. Nó có vai tṛ như một lực  cản, một phanh hăm của mọi dự án, mọi tư duy đổi mới. Chưa bơi đă sợ  chết đuối, chưa chạy đă sợ ngă, chưa ra tới biển lớn đă muốn quay về  nhà, do đó mà có thể có luồng ư kiến cho rằng, Đảng đang “ăn đong” ,  đang “bóc ngắn cắn dài” trên chính "di sản chính trị đếm từng ngày" của  ḿnh, bất luận thân phận, tương lai của dân tộc ra sao và được ngày nào  th́ hay ngày ấy.
                      Như vậy, tâm lư sợ buông ra là đánh mất này đă  làm cho Đảng quyết định siết chặt, và nó đứng đằng sau việc đảng đang sử  dụng bộ máy tuyên truyền và an ninh, kể cả lực lượng vũ trang, để thắt  lại, định hướng lại dư luận xă hội, răn đe các lực lượng cạnh tranh,  muốn thách thức quyền lực, từ những người được cho là các nhóm phản biện  xă hội công khai có nguồn gốc cán bộ, đảng viên của Đảng, chính quyền,  hay những ai mà đảng cho là các “thế lực thù địch” lợi dụng, tuyên  truyền, chống phá, mặc dù họ luôn biểu đạt chính kiến một cách công khai  và bất bạo động, chân thành đến mức nào.
                      
'Sợ hăi'
                      Giới hạn mang tính lực cản thứ ba, như trong một  tiết lộ gần đây của một giảng viên cao cấp trong hệ thống đào tạo và  lư luận của quân đội đă cho thấy, Đảng sợ mất “sổ hưu.” Sổ hưu ở đây  như nhiều b́nh luận trên mạng đă phân tích, chính là nỗi sợ không định  đoạt, kiểm soát được tương lai gần, tương lai xa, bổng lộc, quyền lực mà  hiện nay được cho là "vô giới hạn" của Đảng (chính quyền vẫn chưa có  luật về Đảng). Nỗi sợ hăi này về những trừng phạt của chính quyền hậu  cộng sản, phi cộng sản, trong tương lại, về những áp lực đ̣i hỏi t́m lại  công lư bị mất trong quá khứ của quần chúng, nhân dân một khi đảng đánh  rơi quyền lực, đă làm cho Đảng co lại và t́m tới phương thuốc dễ dàng  nhất, vốn đă sử dụng quen lâu nay, dù càng ngày càng có vẻ bị "nhờn"  trước dân, đó là “chuyên chính vô sản” và sử dụng các răn đe, trừng  phạt, thậm chí chế áp bằng bạo lực trước dân nhằm triệt tiêu, ngăn chặn  mọi hiểm họa có thể dẫn tới “cơn băo lốc” cách mạng của quần chúng. Và  để giải quyết tạm thời trong một hay một vài đại hội đảng, nếu có, của  ḿnh, chính quyền và đảng quyết định tiếp tục điều mà tôi gọi là “xuất  khẩu nỗi sợ” sang quần chúng. Đáng nhẽ tôi sợ anh, th́ anh lại phải sợ  tôi, và tôi làm cho anh sợ tôi, để anh không thấy tôi sợ anh.
                                               

Có thể chính quyền đang ngại các cuộc xuống đường của dân chuyển hướng thách thức vào quyền lực của Đảng
                         
                      
                      Quy luật tâm lư chuyển hóa nỗi sợ theo phương  cách này có thể hoạt động trong một số t́nh huống, nhưng được cho là  không bền vững, v́ có ít nhất hai lẽ. Sợ hăi trong một thời gian quá dài  có thể sẽ dẫn người mang tâm lư đó, như quần chúng, công dân ở một số  quốc gia, xă hội, cộng đồng tới một mức độ quá khiếp sợ và dẫn tới nhu  cầu cấp bách phải chuyển hóa nỗi sợ của họ sang dạng “tức nước vỡ bờ”,  tức là một cấp độ c̣n cao hơn “nhờn thuốc” (không sợ, hết sợ, băo ḥa,  bất cần...), và tiến tới “vượt qua sợ hăi”, động lực tâm lư đă góp phần  làm nên các cuộc cách mạng mùa Xuân Ả-rập gần đây, và cuộc cải tổ sâu  rộng làm sụp đổ toàn bộ hệ thống chính trị chuyên chế ở Đông Âu theo chủ  nghĩa xă hội trước đây, trong đó có Ba Lan, Cộng ḥa Dân chủ Đức,  Roumani, Liên Xô, v.v…
                      Mặt khác, bị nỗi sợ mất chính quyền này chắn  lối, các dự án, ư đồ cải tổ chính trị nếu có ở trong đảng có thể sẽ bị  chặn lại, (nhất là ở điểm then chốt là cải tổ triệt để về chính trị, thể  chế và quyền lực, dân chủ hóa, dẫn nhập các yếu tố nhà nước pháp quyền  thực sự..), để tiếp tục làm cho đảng “ổn định quyền lực về h́nh thức,  nhưng bất chắc về tương lai.” Bằng chứng là nếu ai hỏi các lănh đạo đảng  xem đảng sẽ tồn tại trên vị thế độc tôn thâu tóm chính quyền trong bao  lâu, th́ khó có ai trong họ có câu trả lời rơ ràng và thuyết phục. C̣n  nếu hỏi dân, th́ cần mở ra trưng cầu ư kiến khách quan, công khai,  nghiêm chỉnh, câu trả lời đó có thể sẽ có ngay, và do đó, sẽ bị loại bỏ  trong mọi dự án manh nha, từ trứng nước. Thời gian ba tháng vừa qua khi  góp ư thay sửa Hiến pháp chưa “bị siết lại” đă cho thấy rơ một phần câu  trả lời, với nhiều ư kiến nói thẳng: đảng chỉ có thể tiếp tục sinh mệnh  chính trị trong tưong lai nếu chịu chia sẻ và thậm chí từ bỏ quyền lực  mà trên h́nh thức, nguyên tắc được thể hiện ở Điều 4 của Hiến pháp hiện  hành.
                      
'Môi trường'
                      Trên đây là ba giới hạn đóng vai tṛ các trở  ngại chủ quan, đến từ bên trong nội bộ đảng, có liên quan thế hệ - tuổi  tác, tính toán thiệt hơn nhất thời và tâm lư sợ hăi cùng cách thức xử  lư.
                                     "Nếu  cả hai bên c̣n chơi bóng bàn kiểu này, mà hiện rất khó có diễn biến  khác, th́ trận thi đấu sẽ c̣n kéo dài tới khi nào mà hai bên c̣n có thể  duy tŕ các cách chơi của họ. Tức là chưa có hồi kết"
                                  
                         
                      
                      Tiếp theo, trong số nhiều giới hạn, trở ngại  khác, tôi muốn đề cập tới ba giới hạn hay trở ngại có tính “khách quan”  đến từ môi trường, làm ngăn bước tiến hóa trong vị thế quyền lực và sinh  mạng chính trị của Đảng. Đó là các giới hạn, trở ngại đến từ: thứ tư,  cung cách đấu tranh cho cải tổ chính trị, dân chủ ở trong nước; thứ năm,  môi trường ư thức hệ; và thứ sáu, vai tṛ của áp lực quốc tế mà chủ  yếu từ các thể chế và nhà nước dân chủ phương Tây.
                      Trong thành tố của cải tổ chính trị ở Việt Nam,  trong ư thứ tư, các lực lượng muốn cải tổ tuyệt đối ở bên trong và xuất  phát từ nội bộ của đảng (trí thức, đảng viên, cán bộ hưu trí) mặc dù đă  tỏ ra hết sức can đảm, vẫn buộc phải sử dụng các h́nh thức che chắn, đề  pḥng cho an ninh của ḿnh, trong đó có cách nói “men men”, “dựa vào  luật của chính quyền” do đảng đề ra, quyết định, để đấu tranh từng bước,  từng nấc, trong khuôn khổ, để đổi chính khuôn khổ. Đây chính là một  điều kiện để đảng và chính quyền cũng dựa vào đó “kéo dài cuộc chơi”,  với việc gia hạn nhận ư kiến tu chỉnh Hiến pháp lần này là một ví dụ,  hay việc thu hút cả xă hội, dư luận xă hội vào một trung tâm chú ư là  “sân khấu sửa hiến pháp” vẫn “từ túi của đảng” rút ra là một ví dụ khác.  Nếu cả hai bên c̣n chơi bóng bàn kiểu này, mà hiện rất khó có diễn biến  khác, th́ trận thi đấu sẽ c̣n kéo dài tới khi nào mà hai bên c̣n có thể  duy tŕ các cách chơi của họ. Tức là chưa có hồi kết. Việc bảo cả hai  bên thay đổi cách chơi của ḿnh, mà hiện nay có vẻ c̣n tương đối an toàn  cho cả hai bên, do vậy, có vẻ khó khăn.
                      Đặc biệt điều này càng khó khi hai bên chơi bóng  không có trọng tài, không ai đảm bảo rằng nếu cải tổ xảy ra, hoặc không  xảy ra th́ điều ǵ sẽ xảy đến với thận phận chính trị của ḿnh. Đây  chính là dạng lực cản tinh vi ngăn trở một kịch bản, dự án nào đó về  chuyển giao, hay thay đổi, hoặc tiến hóa quyền lực trong dạng thức mới,  trong tương lai của đảng có liên quan tới quyền lợi, lợi ích chính đáng  của nhân dân và quốc gia.
                      
'Phương Tây'
                                               
TQ vừa thay đổi thế hệ lănh đạo với cam kết giữ ổn định chính trị và quyền lực của đảng, bên cạnh tăng trưởng
                         
                      
                      Thứ năm, như những ǵ mới diễn ra ở Cuba và  Trung Quốc, thậm chí Bắc Triều Tiên, bất chấp các chuyển biến ở Miến  Điện hoặc ở nơi khác gần đây, toàn bộ khối các quốc gia đang sử dụng  chuyên chính vô sản như h́nh thức quản lư, công nghệ xă hội nhằm duy  tŕ, thống trị quyền lực độc tôn và toàn trị, vẫn chưa chuyển biến, thay  đổi “cấp tiến”, "căn bản." Thậm chí Trung Quốc được cho là c̣n có các  động thái tạo lực đẩy, lực kéo hướng một số quốc gia cộng sản ít nhất là  không rời khỏi ṿng ảnh hưởng chính trị, kinh-tài của ḿnh, chưa nói là  ngăn rơi vào ṿng ảnh hưởng của phương Tây. Câu hỏi đặt ra là trong khi  Việt Nam c̣n chịu ảnh hưởng tương tác liên đới về h́nh thức, tâm lư  “với khối quốc gia với ư thức hệ cộng sản chủ nghĩa ” này, với toàn khối  vẫn chưa động thủ, chưa trao trả quyền lực hay trong quá tŕnh chuyển  giao, chia sẻ quyền lực đích thực, th́ tại sao Việt Nam lại phải thay  đổi? 
                      Đây là một lực cản dù không hẳn rơ ràng, nhưng  về mặt tâm lư chính trị, nó có vai tṛ tiếp tục để Đảng cộng sản duy tŕ  cách chơi cũ, năo trạng cũ và tiếp tục “ngó nghiêng” môi trường, chờ  đợi, chờ thời, và dựa vào đó mà quyền biến ứng xử sau, mặc dù về mặt  biện chứng mà nói, các ḍng tư duy biến đổi, các động thái biến chuyển  có thể vẫn không ngừng diễn ra trong nội bộ đảng, nội bộ chính quyền,  trong các tầng lớp nhân dân, xă hội, cộng đồng và quần chúng.
                                     "Ngoài  ra, mặc dù môi trường là quan trọng, nội lực tự thân có vai tṛ như thế  nào? Nếu một chủ thể trong xă hội nhất định không đổi mới, hoặc chậm  cải tổ, th́ xử thế của các chủ thể c̣n lại và tương tác giữa họ sẽ phải  và cần ra sao?"
                                  
                         
                      
                      Và cuối cùng là giới hạn tới từ “phương Tây”.  Lực cản thứ năm này đến từ môi trường khách quan, với việc nhiều quốc  gia và định chế dân chủ phương Tây trong mấy năm qua được cho là “ít  nhiều bị bận rộn, sa lầy” giải quyết các vấn đề kinh tài nội bộ của  khối, của từng quốc gia, tổ chức trong đợt suy thoái kinh tế toàn cầu,  nên có thể ít nhiều giảm thiểu các trọng tâm chú ư và can thiệp một số  quốc gia vốn “cần” được chuyển đổi sang thể chế dân chủ văn minh (trong  đó có các chế độ cộng sản c̣n lại, mà Việt Nam là một thành viên). Trên  thực tế, đây là một điểm có thể gây tranh căi. Phương Tây "bận rộn",  nhưng có vẻ vẫn đang hiện diện ở một số địa điểm trên thế giới như Syria  hay Miến Điện, sau Syria. Tuy nhiên đúng là cách chơi của các quốc gia  này với khối cộng sản đă phức tạp hơn trước, trong hợp tác có tác động,  áp lực, trong tác động áp lực, có nhượng bộ, hợp tác. 
                      Vấn đề là ai quan trọng với ai hơn trong một  quan hệ, lĩnh vực, thời điểm gắn với lợi ích cụ thể; và vấn đề nội bộ  của riêng Việt Nam có tới mức cấp thiết với các quốc gia phương Tây hay  các thể chế được cho là “tiến bộ, tiên phong” đó trên thế giới hay  không? Đó là các câu hỏi chưa hẳn có sẵn câu trả lời, chưa nói tới luật  pháp Quốc tế, hay bản thân thiết chế chính trị, luật pháp của Liên hợp  quốc và nhiều định chế khác, cũng c̣n tiếp tục định h́nh, chuyển ḿnh  trong thế kỷ 21. Ngoài ra, mặc dù môi trường là quan trọng, nội lực tự  thân có vai tṛ như thế nào? Nếu một chủ thể trong xă hội nhất định  không đổi mới, hoặc chậm cải tổ, th́ xử thế của các chủ thể c̣n lại và  tương tác giữa họ sẽ phải và cần ra sao?
                      Và trong khi c̣n chờ đợi câu trả lời, đây có thể  là một yếu tố nữa như lực cản khách quan khiến đảng Cộng sản chưa thấy  “cấp thiết” cần cải tổ như những ǵ mà những người khác, chủ thể chính  trị - xă hội khác trong xă hội, trong nhân dân, các giới, các tầng lớp  có thể ít nhiều đă nh́n thấy trước và đang không ngừng cầu vọng.
bbc