Sài G̣n và “đại nhạc hội” trước 1975
Năm 1954, dù người Pháp rút khỏi Việt Nam, nhạc Pháp vẫn c̣n hằn sâu trong sinh hoạt âm nhạc xă hội, nhưng khi người Mỹ đổ quân đến miền Nam th́ nhạc Pháp cũng lùi dần nhường bước cho làn sóng văn hóa Mỹ. Cuối thập niên 1950 – đầu thập niên 1960 có thể nói nhạc trẻ Sài G̣n đă h́nh thành, nhưng nó thật sự gây được ấn tượng mạnh mẽ với công chúng trẻ là từ năm 1963.

Tuấn Ngọc & Minh Phúc & Tiêng Chỉnh & Trường Kỳ & Tùng Giang
Nữ ca sĩ Kim Oanh trên sân khấu Đại Hội Nhạc Trẻ Taberd năm 1972

Trường Kỳ trên sân khấu Đại Hội Nhạc Trẻ Taberd, năm 1971 với sự tham dự của trên 5000 khán giả.
Cũng từ cái mốc năm 1963 cho đến trước ngày 30/4/1975, Sài G̣n nhộn nhịp với những đại nhạc hội. Đại nhạc hội thời ấy có hai loại: đại nhạc hội dành cho giới b́nh dân, biểu diễn tại rạp Quốc Thanh và rạp Hưng Đạo vào mỗi buổi sáng Chủ nhật với sự tham gia của các ca sĩ nổi tiếng thời đó như: Chế Linh, Duy Khánh… Hát nhạc kích động “b́nh dân” tiêu biểu có Hùng Cường – Mai Lệ Huyền, Khánh Băng – Phùng Trọng với những bản nhạc twist, agogo như Một trăm phần trăm, Gặp nhau trên phố…
Ngoài ra, có một đại nhạc hội khác gọi là đại nhạc hội kích động nhạc, tiền thân của nó là những ban nhạc học sinh của trường Taberd (nay là trường Trần Đại Nghĩa – 20 Lư Tự Trọng, quận 1). Đại nhạc hội kích động thường được tổ chức tại trường Taberd, Thảo cầm viên hoặc sân vận động Hoa Lư. Đây là nơi tŕnh diễn của những ban nhạc trẻ không hát những loại nhạc “b́nh dân” và trong đó có những ban nhạc rock thực thụ.

Ban nhạc the Enterprise
Thanh lan & Duy Quang-The Dreamers
Giai đoạn đầu các ban nhạc trẻ nói chung chủ yếu là hát nhạc ngoại quốc bằng tiếng Anh hoặc Pháp, các ban nhạc rock th́ cover lại những bản nhạc chủ yếu của Anh, Mỹ.
Thời gian cuối thập niên 1960 và nhất là vào đầu thập niên 1970, nhạc trẻ Sài G̣n có một sự chuyển biến đáng chú ư: đó là trào lưu “Việt hóa” các ca khúc Âu – Mỹ. Mở đầu cho trào lưu này có thể nói đến nhạc sĩ Vũ Xuân Hùng, anh đă chuyển soạn lời Việt cho các ca khúc được nhiều người yêu mến như: Búp bê không t́nh yêu (Poupée De Cire, Poupée De Son), Gơ cửa 3 tiếng (Knock Three Times), Chuyện Phim Buồn (Sad Movies), Lăng du (L’Avventura), Anh th́ không (Toi Jamais) v.v… Sau đó nhiều ban nhạc, nhiều nhạc sĩ khác cũng đă soạn lời Việt cho nhiều ca khúc ngoại quốc khác, trong đó có cả nhà báo Trường Kỳ…
Nhưng trong trào lưu “Việt hóa” có lẽ điều đáng chú ư nhất là các nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang và Lê Hựu Hà, với ban nhạc Phượng Hoàng, đă đi một bước xa hơn là sáng tác những ca khúc nhạc trẻ Việt Nam đầu tiên với những bài hát đi vào ḷng người như Hăy ngước mặt nh́n đời, Tôi muốn… đặt nền móng đầu tiên cho những ca khúc nhạc trẻ Sài G̣n.
Ban nhạc The Strawberry Four ( từ tái sang phải Đức Huy, Tùng Giang (c), Tuấn Ngọc và Billy Shane(c) thập niên 1970
Về các ban nhạc trẻ, một trong những ban nhạc gây ấn tượng nhất đó là Strawberry Four gồm Tuấn Ngọc (guitar), Đức Huy (guitar), Tiến Chỉnh (bass, trước đó là Billy Chane), Tùng Giang (trống). Đây được xem là ban nhạc “nhà giàu” với những chiếc đàn, amplie Fender làm “lé mắt” dân chơi nhạc, trên sân khấu họ toàn bận complet lịch lăm và nhất là tạo được “danh giá” khi Strawberry Four là ban nhạc Việt Nam đầu tiên và duy nhất được lên đài truyền h́nh Mỹ (phát tại Sài G̣n).