Ở Hà Nội, có nhiều tên phố cổ (bao gồm cả những phố nằm trong và nằm ngoài khu phố cổ), khi gọi tên là ta hiểu ngay là xưa kia con phố này sản xuất hay buôn bán mặt hàng gì. Đó là các phố có tên thuần Việt rất nôm na như: Hàng Than, Hàng Đậu, Hàng Bát sứ, Hàng Chiếu, Hàng Bạc, Hàng Vải, Hàng Mắm, Hàng Muối, Hàng Khoai.....Nhưng cũng có những phố mang tên cổ nhưng lại không thuần Việt mà ta phải luận từ chữ Hán, chữ Nôm mới hiểu được nghĩa.
PHỐ LÒ SŨ, dài 315m đi từ đường Trần Quang Khải đến phố Đinh Tiên Hoàng ở chỗ đền Bà Kiệu, thuộc quận Hoàn Kiếm, xưa kia còn gọi là phố Hàng Sũ. Vậy phố Hàng Sũ thì sản xuất và bán mặt hàng gì? Đó chính là con phố của những người thợ mộc chuyên đóng và bán quan tài để chôn cất người chết, chữ Sũ là từ Việt cổ có nghĩa là Quan tài là áo quan.
Hà Nội còn có phố Hàng Hòm chuyên bán các loại hòm, giương, tráp gỗ sơn để đựng quần áo hay đựng hạt giống của bà con nông dân, mà không bán mặt hàng quan tài. Có thời kỳ sinh viên ở các tỉnh đến Hà Nội học đại học, được bố trí ở ký túc xá thì không ai là không đến phố Hàng Hòm mua một cái hòm gỗ sơn đỏ, đựng quần áo, sách vở để ở cuối giường nằm.
PHỐ TỐ TỊCH, đi từ phố Hàng Quạt đến phố Hàng Gai dài 95m, thuộc quận Hoàn Kiếm, con phố này có thời gian dài treo biển là phố Tô Tịch, mặc dù đã được treo lại biển với tên gọi đúng là Tố Tịch, nhưng rất nhiều người Hà Nội cũ vẫn quen gọi là phố Tô Tịch. Thực ra trong chữ Hán, Tố có nghĩa là mầu trắng nõn, còn Tịch có nghĩa là cái chiếu, Tố Tịch là chiếu trắng. Vì con phố này nằm trên đất của làng Tố Tịch, xưa kia có nghề dệt và bán mặt hàng chiếu trắng mà thành tên phố. Về sau người làng Nhị Khê, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông đến lập nghiệp ở phố này, họ mang theo nghề tiện, khắc gỗ và phố này cũng không còn nghề dệt chiếu trắng nữa.
Chữ Tịch được dùng trong cụm từ "Chủ tịch" vì ngày xưa các quan lớn chỉ ngồi trên chiếu để phán xử công việc mà không ngồi bàn ghế như bây giờ.
NGÕ HÀI TƯỢNG, dài 160m là một ngõ ở bên dẫy số nhà chẵn của phố Tạ Hiện, thuộc quận Hoàn Kiếm, ngày xưa còn thông sang phố Hàng Giầy. Tên ngõ này thì ít người trẻ hiểu ý nghĩa nếu không tra cứu kỹ lưỡng về từ Hán. Hài có nghĩa là giầy, dép thì dễ hiểu. Tượng có nghĩa là người thợ, không phải chữ Tượng có nghĩa là con voi. Hài Tượng có nghĩa là thợ đóng giầy dép. Thế kỷ XVII, XVIII, khi mà xã hội phổ biến dùng các loại giầy dép đóng bằng da bò, thì những người thợ đóng gIầy, dép da và các mặt hàng về da ở huyện Gia Lộc tỉnh Hải Dương đến Thăng Long lập nghiệp. Nơi họ ở gọi là thôn Hài Tượng, thôn của những thợ đóng giầy, dép. Nên con ngõ nhỏ nằm trên đất thôn này cũng mang tên là Ngõ Hài Tượng.
PHỐ KHÂM THIÊN, nối tiếp phố Nguyễn Thượng Hiền từ phố Lê Duẩn đến Ô Chợ Dừa, thuộc quận Đống Đa. Sở dĩ có tên như vậy là do ở đầu phố này bên dẫy số nhà lẻ từ thời Lý -Trần - Lê, triều đình đã cho xây dựng một đài Khâm Thiên Giám vị trí ở trong ngõ chợ Khâm Thiên ngày nay. Nhiệm vụ của đài này là quan sát bầu trời, khí tượng, ghi nhận các hiện tượng gió, mưa, sự dịch chuyển của các sao trong vũ trụ để báo mùa vụ cho dân chúng canh tác cũng như biên soạn ra lịch cho triều đình. Tương đương với chức năng cơ quan Nha khí tượng bây giờ.
Khâm Thiên Giám có nghĩa là: “Quan sát bầu trời theo lệnh nhà vua”. Khâm Thiên là cách gọi vắn tắt của cụm từ này. Thời Pháp thuộc, phố Khâm Thiên nổi tiếng về tập trung nhiều nhà hát Cô đầu và sàn nhẩy. Dân Hà Nội thời đó còn gọi phố Khâm Thiên là phố Cô đầu, những người đàn ông ăn chơi rủ nhau đến đây hay nói lóng là "đi xuống K T".
PHỐ HÒA MÃ, là con phố dài 460m ở phía nam Hà Nội, đi từ phố Lò Đúc đến phố Huế, thuộc quận Hai Bà Trưng. Mới nghe tên phố có chữ Mã ta đã nghĩ ngay đến chữ Hán có nghĩa là con ngựa, nhưng chữ Mã ở đây lại là chữ Nôm cổ có nghĩa là quần áo. Con phố này nằm trên đất làng Đổi Mã xưa của kinh thành Thăng Long, đến thời Minh Mạng nhà Nguyễn thì đổi thành làng Hòa Mã. Đổi Mã hay Hòa Mã đều có nghĩa là "thay đổi áo xống".
Theo các sách sử cho biết, xưa ở làng này có cung Đổi Mã (chữ Hán gọi là Cung Canh Y), là nơi vua các triều Lý, Trần, Lê mỗi khi ra tế đàn Nam Giao thì dừng lại ở cung này để đổi xiêm áo thường phục chuyển sang mặc lễ phục theo quy định của công việc tế lễ trời đất.
Đàn Nam Giao được xây dựng từ thời vua Lý Anh Tông ở khu vực mà thời Pháp thuộc là nhà máy diêm, sau tiếp quản Hà Nội là nhà máy cơ khi Trần Hưng Đạo, nay là tòa nhà Wincom. Cung Đổi Mã xưa rất gần khu vực đàn Nam Giao.
Từ Mã có nghĩa là quần áo, ngày nay ít dùng nhưng ta vẫn nghe được câu nói: "tốt mã, giẻ cùi". Nghĩa đen “một giống chim đẹp, mỏ đỏ, đuôi dài, lông sặc sỡ, tiếng hót không hay” và nghĩa bóng “ quần áo bên ngoài bảnh bao sáng sủa mà đầu óc tối tăm, rỗng tuếch, không ra gì, không làm được gì có ích”.
PHỐ HÒE NHAI, dài gần 400m đi từ đường Đê Yên Phụ đến phố Phan Đình Phùng, thuộc quận Ba Đình.Từ thời nhà Lý (1010-1225) khi xây dựng kinh thành Thăng Long đã cho làm một con đường từ phía Bắc kinh thành (khu vực phố Hoàng Hoa Thám ngày nay) dẫn ra bến Đông Bộ Đầu ở bờ sông Hồng (tương đương vị trí Bến Nứa sau này).Con đường này để các vua và triều thần nhà Lý khi có việc đi từ trong kinh thành ra bến sông, hay sứ thần các nước đến Thăng Long bằng đường sông. Triều đình lại đặt lệ, các quan triều thần, mỗi người phải trồng một cây Hòe trên con đường đó, do đó mà thành tên là Hòe Nhai, tức là "Đường cây Hòe". Hòe là cây hoa Hòe còn Nhai thì phải tra từ điển mới biết, nghĩa là bờ, bến, hay là con đường ven sông.
Từ tên của một con đường, Hòe Nhai cũng là tên của một thôn và ngôi chùa Hồng Phúc của thôn này cũng gọi là chùa Hòe Nhai. Phố Hòe Nhai, thời Pháp thuộc còn có tên là phố 'Bệnh viện Trung Quốc"(rue de l’Hôpital chinois), dân Hà Nội gọi phố này là phố Nhà Thương Khách, vì ở đầu phố này có một bệnh viện do người Hoa thuộc bang Quảng Đông lập ra chuyên chưa bệnh bằng cách bắt mạch, kê đơn, bốc thuốc Bắc. Bệnh viện này, nay là bệnh viện Đa khoa Hòe Nhai.
PHỐ LIỄU GIAI, là con phố mới mở từ năm 1994, nối tiếp đường Nguyễn Chí Thanh, đoạn từ Kim Mã đến phố Đội Cấn, thuộc quận Ba Đình. Con phố này nằm trên đất làng Liễu Giai là một trong thập tam trại ở phía tây kinh thành Thăng Long xưa. Cũng tương tự như Hòe Nhai, Liễu Giai có nghĩa là đường cây liễu, vì chữ Giai ở đây có nghĩa là con đường. Sở dĩ có tên làng Liễu Giai vì từ thời Lý - Trần ở đây có nhiều cung điện, dinh thự của các ông hoàng, bà chúa, mà con đường dẫn đến các dinh thự đó được trồng những dẫy cây liễu mà thành tên " Đường Liễu".
Cây hòe và liễu là hai loại cây mà các nhà quyền quý xưa ở hay trồng trước cửa. Do đó, nghe những cái tên Hòe Nhai, Liễu Giai, mà “luận” được chữ và hiểu được nghĩa, ta sẽ hình dung ra khung cảnh huy hoàng những cũng không kém phần thanh lịch và lãng mạn của kinh thành Thăng Long hàng trăm năm trước. Càng tìm hiểu rõ về lịch sử tên gọi các đường phố Hà Nội, ta càng yêu quý mảnh đất nghìn năm văn hiến này nhiều hơn.
Hanoi, ngày 18/9/2023
|
|