Nhớ 'một câu nhịn chín câu lành', người Việt sẽ không hung dữ
Hơn nhau không phải ở nắm đấm mà là ở khả năng học tập, làm việc, chia sẻ, thương yêu, tử tế với mình, với người trong mối quan hệ với cuộc sống xung quanh!
Hạ cẳng tay, thượng cẳng chân sau khi va chạm giao thông - Ảnh do bạn đọc cung cấp
Cách đây mấy bữa, trên đường đi làm về, tôi thấy một đám đông ở Hàng Xanh (Q.Bình Thạnh, TP.HCM), nghĩ là có kẹt xe. Tới gần mới phát hiện là vừa có vụ va quẹt và hai tài xế đang cãi nhau, người đi đường ngang qua ai cũng lắc đầu.
Chuyện va quẹt trên phố đông như Sài Gòn giờ tan tầm là chuyện cơm bữa, nếu cảm thông và chia sẻ được thì có lẽ người ta sẽ nhẹ nhàng cho qua, tôi nghĩ vậy!
Môi trường nhiều mầm mống bạo lực
Thường người ta sẽ nổi nóng khi gặp một chuyện bất như ý nào đó, như vừa bị sếp la, ra cổng cơ quan bảo vệ đùa một câu, liền sân si. Nỗi buồn, sự bực bội là thứ năng lượng chi phối hành xử khiến người ta không thể kiềm chế được cơn tức dâng lên, lây sang người khác.
Vì vậy, có người dễ nổi nóng đã cảnh báo: "Thấy tôi ‘khó ở’ là tránh xa xa giùm, không ăn mắng ráng chịu". Theo đó, người nóng lâu ngày họ cũng biết tính khí của mình nên có "chống chỉ định" chuyện nói đùa, tiếp xúc lúc họ đang không vui, căng thẳng. Thực ra, khi quá mệt mỏi, phiền muộn trong lòng, ta không còn giữ được mình.
Có người bạn của tôi bình thường hiền queo, ai nói gì cũng cười. Bỗng một ngày, tôi hỏi "sao buồn dữ rứa?" lại bị bạn nạt cho một câu nghe chưng hửng. Trời, bạn mình đây sao? Mới đầu tôi phản ứng vậy, nhưng chợt dừng lại vì nhớ ra, đây không phải là bản chất của bạn. Có thể bạn đang có một nỗi niềm, áp lực từ cuộc sống, gia đình, tình yêu hoặc bản thân đang trải qua bệnh tật, sự cố…
Ai cũng có lúc nóng giận, nếu mình hiểu thì sẽ không khiến ngọn lửa trong họ cháy phừng. Tôi im lặng và không bỏ mặc, cuối cùng cũng nghe được thổ lộ từ bạn. Bạn bị nhiều áp lực trong công việc: sếp chèn ép, đồng nghiệp tìm cách chơi khăm, lương không cao, phải chật vật trang trải cuộc sống…
Tất nhiên, nhiều người khó khăn hơn nhưng họ không nổi nóng. Đó là tính cách và sức chịu đựng của từng người. Sự nóng tính là một thói quen được huấn tập hằng ngày theo nguyên lý:
"Thói quen tạo nên tính cách, tính cách tạo nên số phận".
Vì thế, các chuyên gia tâm lý khi chia sẻ với tôi về thói vũ phu của chồng vẫn thường lưu ý, có thể anh ấy từng bị bạo hành lúc nhỏ, từng sống gần những gia đình lớn tiếng, ồn ào đánh cãi nhau như cơm bữa.
Sự tác động của cuộc sống xung quanh lên tính cách con người theo hướng đó được ông bà xưa đúc kết rằng "gần mực thì đen". Cái đen đó cần có thời gian thanh lọc để dần trắng, nhưng nếu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng trong môi trường đen hơn thì sẽ đen đậm hơn.
Ngày nay các văn hóa phẩm mang tính bạo lực vẫn đầy rẫy trên mạng và tồn tại trong cuộc sống, giải trí của nhiều người: từ game online đến phim ảnh. Thường ngày tiếp xúc với sự đánh đấm, máu me trong các "thức ăn tinh thần" đó khiến não quen với những "mùi vị" của bạo lực, từ đó hành xử theo.
Những kẻ "giang hồ mạng" được ngưỡng mộ và thu tiền trăm triệu cũng chính là một "hình tượng" khiến người ta thay đổi suy nghĩ: cần gì học hành, tử tế, chỉ cần có "số má" là có thể lên đời.
Môi trường bên ngoài đã vậy, trong nhà trường, gia đình cũng đầy mầm mống bạo lực, tránh sao người trẻ không hoang mang và hành xử theo cách tương tự. Đây mới là điều đáng lo, và người lớn muốn thay đổi không khí bạo lực lan tràn thì chính bản thân phải nỗ lực để ứng xử nhẹ nhàng với nhau trước.
Nhẫn để yêu thương
Không thể có kết cục tốt với những người nóng nảy. Nhân vật Trương Phi trong Tam Quốc Chí là hình mẫu của nóng tính dẫn đến hư sự và mang họa sát thân. Ai cũng nóng nảy trong hành xử thì chiến tranh sẽ nổ ra, thương vong là tất yếu.
Một câu nói đùa cũng thành chuyện lớn vì con người ta quá nóng, quá hung dữ; đi nhậu lo hát karaoke cũng bị đánh chết thì… ôi thôi, cuộc sống quá kinh khủng. Pháp luật cần nghiêm minh để trừng trị việc vô cớ đánh, giết người nhưng đó là xử lý phần ngọn, còn cái gốc vẫn là giáo dục.
Làm sao để con người có thể chậm lại để phân tích kỹ hơn từng câu nói, từng biểu hiện của người khác, trong đó có thân nhân, bạn bè mình để không chụp mũ rồi hành xử như người điên, người say?
Sống thiền hay bình tĩnh sống, sống chậm, sống có chánh niệm… là những cách sống theo tinh thần "nhẫn để yêu thương". Đầu tiên là thương mình. Một người chỉ được người khác tin tưởng, nể trọng và giao việc khi có sự chín chắn, điềm tĩnh trong xử lý. Như vậy, người sống có lý trí, điềm tĩnh chính là cách sống lợi lạc tự thân.
Còn cái lợi cho người xung quanh, nhất là người thân - thương thì cũng dễ dàng để thấy. Con cái sẽ học được nhiều điều hay ho từ bố mẹ có cách sống nhẹ nhàng, tình cảm. Đó mới là gia tài quý giá để lại cho con.
Hành xử nóng tính dẫn tới hư việc, hại người thì vòng lao lý chờ mình là chắc chắn. Một khi đã gây ra sự cố mới hối thì đâu còn kịp. Nhiều người bình luận thiếu niên 16 tuổi rút dao đâm chết người nhắc mình chuyện chạy xe chính là "anh hùng rơm", chứng tỏ với bạn gái nhưng rồi được gì sau lần ra tay đó? Tù tội và có thể mất luôn bạn gái.
Ai đợi và ai chấp nhận một người giết người làm người yêu, người chồng, người cha tương lai?
Thực ra, sân si - ai cũng có. Cái chính là cách quản lý năng lương tiêu cực đó để những năng lượng tích cực phát triển. Để làm được điều đó, phải xây dựng lối sống nhân văn từ chính mỗi gia đình, người lớn dạy trẻ nhẫn nhịn để an lành như ông bà mình nhắc "một câu nhịn chín câu lành".
“Thiện ý một câu ấm ba đông,
Lời ác lạnh người sáu tháng ròng”.
Đôi khi chỉ một lời nói khích lệ của bạn có thể khiến một người tìm được con đường đi tiếp. Nhưng đôi khi cũng chỉ vì một lời nói “không thiện ý” của bạn cũng khiến người khác đi vào đường cùng.
MƯA BỤI DÙ NHỎ VẪN DỄ ƯỚT ÁO,
LỜI ÁC KHẨU TUY ÍT CŨNG HẠI MỘT ĐỜI NGƯỜI
Lý Minh
Nhiều người mong cầu cuộc sống thuận lợi để được sống bình yên. Tuy nhiên bạn có biết rằng, chìa khóa của cánh cửa dẫn đến hạnh phúc và bình an của cuộc đời bạn luôn nằm trong tay bạn.
LIỆU BÀN TAY CÓ THỂ CHE KÍN CẢ BẦU TRỜI?
Một vị đệ tử trẻ tuổi tu hành trên núi cao đã mấy năm. Hàng ngày, phần lớn thời gian của cậu dùng để đọc kinh sách và nghe thầy giảng đạo. Những lúc rảnh rỗi, cậu ra bờ sông gánh nước và hái rau, đôi khi đi vào tận rừng sâu để tìm hoa quả và các cây thuốc.
Cuộc sống của cậu từ ngày dứt bỏ bụi hồng trần tới chốn cao sơn đều như thế, không vật chất xa hoa, không lo toan suy nghĩ, chỉ có làm bạn với núi, sông, cây cỏ và chuyên cần tu đạo.
Một hôm, vị thiền sư và người đệ tử ngồi trò chuyện cùng nhau. Cậu nhăn mặt than thở: “Thưa thầy, khoảng thời gian này con cảm thấy cuộc sống vô cùng thống khổ và vô vị. Điều đó khiến con thực sự thấy phiền não và chán nản.”
Nghe đệ tử của mình phàn nàn như vậy, vị thiền sư chỉ mỉm cười không nói gì và dẫn cậu tới một mảnh đất trống. Ông hỏi: “Con hãy ngẩng đầu lên xem, con nhìn thấy gì nào?”
Người đệ tử hào hứng trả lời: “Thưa thầy, con nhìn thấy bầu trời rộng lớn và xanh ngắt ạ”.
Vị thiền sư nói: “Bầu trời rất rộng lớn phải không? Nhưng chúng ta lại có thể dùng một bàn tay của mình để che khuất cả bầu trời đấy!”
Người đệ tử nghe xong tỏ vẻ nghi hoặc. Thấy vậy, vị thiền sư liền dùng một bàn tay và che hai mắt người đệ tử rồi hỏi: “Bây giờ con có thể trông thấy bầu trời nữa không?”
Vị thiền sư lại nói tiếp:
“Trong cuộc sống, một chút thống khổ, một chút phiền não, một chút trở ngại cũng giống như bàn tay này. Nhìn thì thấy rất nhỏ, nhưng nếu ta không bỏ nó xuống mà cứ đặt nó ở trước mắt mình, đặt nó ở trong lòng mình thì nó sẽ che khuất cả bầu trời quang đãng của chúng ta.
Thế là chúng ta sẽ bỏ lỡ ánh mặt trời, bỏ lỡ bầu trời trong xanh khoáng đãng, bỏ lỡ những áng mây sắc thơ mộng và biết bao điều kỳ diệu, đẹp đẽ trên cuộc đời”.
Người đệ tử sau khi nghe xong mới giật mình tỉnh ngộ. Đến lúc này cậu đã hiểu rõ nguyên nhân của những nỗi thống khổ của bản thân mình. Hóa ra, những đau khổ, muộn phiền, chán nản kia đều là do bản thân cậu tự lựa chọn, hơn nữa mỗi ngày đều đang vô tình nuôi dưỡng để nó càng lúc càng to lớn hơn.
Cuộc sống của chúng ta vốn không dễ dàng, bởi con người dù ở giai tầng nào, thời đại nào cũng đều phải trải qua sinh, lão, bệnh, tử, đều có những chướng ngại hữu hình và vô hình. Tuy nhiên, mỗi khi gặp khó nạn, cách suy nghĩ và đối đãi của chúng ta lại chính là nguyên nhân khiến chướng ngại trở thành dễ dàng hơn hoặc khó khăn hơn.
Rất nhiều người đã để “bàn tay” che kín cả bầu trời trước mặt, mà quên mất rằng ánh nắng mặt trời sẽ làm những giọt nước sau cơn mưa trở nên lung linh và đẹp đẽ hơn.
Đối mặt với những vấn đề của cuộc sống, cổ nhân có dạy rằng “Tướng do tâm sinh”. Theo một nghĩa nào đó chính là vấn đề thực chất đơn giản hay nghiêm trọng đều được quyết định theo lăng kính chủ quan của chúng ta, đều từ tâm của chúng ta mà diễn hóa ra.
Nếu với mọi điều xảy đến, ta có thể dùng tâm tùy duyên để đối diện với hết thảy, gặp chuyện buồn không chán nản, rầu rĩ; gặp chuyện tốt không hả hê, cao hứng; gặp lúc nghèo khó không phàn nàn, kêu ca; gặp khi giàu sang không tự cao tự đại, thì mọi tảng đá lớn sẽ chỉ như một hạt bụi nhỏ, một cái phủi tay là có thể giải quyết được.
Đó cũng là một loại trí huệ, một loại cảnh giới, bởi để đạt được tâm thái an hòa và điềm nhiên đòi hỏi con người phải liên tục tự mình rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, hòa hợp với vũ trụ, tuân theo đạo lý của đất trời.
MƯA BỤI DỄ LÀM ƯỚT ÁO HƠN MƯA RÀO
Một ngày khác, vị thiền sư lại hỏi đệ tử của mình: “Con có biết mưa rào và mưa bụi, loại mưa nào sẽ dễ dàng làm ướt quần áo của chúng ta không?”
“Thưa thầy, đương nhiên là mưa rào rồi ạ”. Người đệ tử nhanh nhảu đáp.
Vị thiền sư nhìn đệ tử trẻ tuổi của mình và nói: “Nhưng mà trong cuộc sống, có thể làm ướt quần áo của chúng ta một cách dễ dàng lại không phải mưa rào, mà là mưa bụi.”
Người đệ tử thắc mắc: “Thưa thầy, làm sao như vậy được. Hạt mưa rào to hơn hạt mưa bụi, chỉ một trận mưa rào là ướt hết quần áo rồi.”
“Bởi vì nếu trời mưa to, mọi người sẽ cảnh giác hơn. Họ sẽ mang theo dù, hoặc nếu không họ cũng sẽ trú mưa dưới những mái hiên hay những gốc cây. Nhưng nếu gặp mưa bụi, mọi người thường sẽ khó cảm giác thấy, hoặc nếu cảm thấy cũng cho rằng hạt mưa quá nhỏ không thể làm ướt quần áo. Vì vậy, họ cứ đi trong mưa và bị ướt sũng lúc nào không hay.” Vị thiền sư trả lời.
Vị thiền sư nói tiếp: “Trong cách đối nhân xử thế của con người cũng như thế. Những lời nói và hành vi của chúng ta, ví dụ như một cái cử động, một cái nhấc chân, một nét mặt, một cái cau mày hay một câu nói đơn giản… cũng giống như những hạt mưa bụi vậy. Nhìn thấy thì rất nhỏ, nhưng nếu không chú ý, không thận trọng thì sẽ vô tình hay hữu ý mà làm “ướt nhèm quần áo của người khác”, xúc phạm người khác, gây tổn hại người khác, đồng thời cũng sẽ làm “ướt nhèm” chính cuộc đời mình”.
Vị đệ tử nghe xong đã thực sự tỉnh ngộ và nhớ lại những lần vào rừng tìm cây thuốc hay ra bờ sông gánh nước. Thực sự làm cậu bị ướt không phải một cơn mưa rào, ngay cả khi đó là cơn mưa rào bất chợt. Khiến cậu ướt nhèm là những cơn mưa phùn tí tách, dai dẳng, dễ dàng nhận ra nhưng lại hữu ý không để tâm, hữu ý buông lơi cảnh giác vì cho đó là những hạt mưa nhỏ nhoi, không đáng kể.
Trong cuộc sống thường ngày, mỗi lời nói, hành động của chúng ta sẽ ảnh hưởng tới những người xung quanh, thậm chí ảnh hưởng tới thế giới mà chúng ta đang sống. Vì thế, chúng ta đã không ít lần vô tình mà làm tổn thương người khác, gây thiệt hại cho người khác chỉ vì không chú ý tới những hành động nhỏ bé, tưởng như không đáng kể của mình.
Tuy nhiên, hành động với mức độ lớn nhỏ thế nào, tâm thái của chúng ta khi thực hiện là điều quyết định kết quả cuối cùng. Chỉ có để tâm từng giây từng phút, cân nhắc kỹ lưỡng về những việc mình sẽ làm, đạt đến độ “thân chính tâm chính” thì ta mới không vô tình làm tổn thương người khác. Chỉ có xuất phát từ tấm lòng thiện lương, đối với bất kỳ việc gì cũng suy nghĩ cho người khác, ta mới có thể vứt bỏ được những vị tư ích kỷ mà hành động một cách vô tư vì người khác.
Cũng như vậy, đừng nghĩ rằng một việc ác, việc xấu nhỏ cũng có thể làm, bởi vì hậu quả chúng để lại có thể sẽ không nhỏ như chúng ta nghĩ.
Biên Dịch: Nhã Văn – Văn Nhược
Nguồn: Đại Kỷ Nguyên
Được hậu thế phong làm “Á Thánh”, chỉ đứng sau KHỔNG TỬ trong nho gia, MẠNH TỬ để lại cho đời rất nhiều tinh hoa trí tuệ. trong những lời giảng của mạnh tử, từ cách tu thân, tề gia đến đối nhân xử thế, ở đâu người ta cũng có được thu hoạch.
MẠNH TỬ (khoảng 372 – 289 TCN), là một học giả lỗi lạc thời Chiến Quốc ở Trung Hoa. Thời đại của ông chứng kiến sự nở rộ của các tư tưởng triết học với hàng loạt trường phái và những đại biểu xuất sắc. Đó chính là thời đại “bách gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng) nổi tiếng trong lịch sử.
Cả đời MẠNH TỬ theo đuổi lý tưởng về "THIỆN TÁNH" của con người, cho rằng “NHÂN CHI SƠ, TÍNH BẢN THIỆN” (người ta sinh ra tính vốn thiện). Ông giỏi lập luận, có tài hùng biện. Những châm ngôn của Mạnh Tử, sau hàng nghìn năm vẫn có sức truyền cảm hứng lớn.
1. PHẢI BIẾT CÓ NHỮNG ĐIỀU KHÔNG ĐƯỢC LÀM, RỒI SAU MỚI BIẾT CÓ NHỮNG ĐIỀU ĐƯỢC LÀM.
NGUYÊN VĂN: “Nhân hữu bất vi dã, nhi hậu khả dĩ hữu vi“.
Chính là nói về sự ước thúc đạo đức. Những điều không được làm đương nhiên là điều trái với đạo đức, trái với lương tâm. Chỉ khi con người biết dùng đạo đức để ức chế hành vi, tư tưởng của mình thì mới có thể làm được những việc to lớn khác mà không sợ xảy ra lầm lẫn nào.
2. LÀM MÀ CHẲNG ĐẠT, ĐỀU PHẢI QUAY LẠI XÉT MÌNH. THÂN MÌNH NGAY THẲNG THÌ THIÊN HẠ CŨNG QUY THUẬN THEO.
NGUYÊN VĂN: “Hành hữu bất đắc giả, giai phản cầu chư kỷ, kỳ thân chính nhi thiên hạ quy chi“.
Đây là cách đối nhân xử thế rất độc đáo. Tìm nguyên nhân ở mình tức là “hướng nội”, hướng vào tâm mình tìm điểm sai sót rồi điều chỉnh lại hành vi, tư tưởng bản thân. Khi tâm mình ngay thẳng, hành vi đoan chính thì không sợ gì người trong thiên hạ chê cười, bất phục vậy.
3. NÓI RA NHỮNG ĐIỀU BẤT THIỆN CỦA NGƯỜI KHÁC, KHÔNG SỢ CÁI VẠ VỀ SAU HAY SAO?
NGUYÊN VĂN: “Ngôn nhân chi bất thiện, đương như hậu hoạn hà?“.
Khi nói về chuyện xấu của người khác, nếu lời này gây phiền phức về sau thì bạn phải đối đãi thế nào? Người hay trách móc người khác thì nhận lại lời trách móc. Người hay châm biếm người khác thì nhận lại sự châm biếm. Người hay giúp đỡ người khác thì nhận lại cử chỉ giúp đỡ. Người hay yêu mến người khác cũng nhận lại tình yêu mến.
Cuộc đời vẫn luôn có người thích bới móc, ly gián, bôi nhọ, vu khống người khác. Những kẻ càng vô liêm sỉ, bất tài, bất trung lại càng thích biến những điều trên thành phương thức sống của mình.
4. KẺ VÀO LÚC KHÔNG THỂ DỨT BỎ MÀ VỘI DỨT BỎ THÌ VIỆC GÌ CŨNG DÁM TỪ BỎ. KẺ BỘI BẠC NGƯỜI ĐÁNG ĐƯỢC HẬU ĐÃI THÌ ĐỐI VỚI AI CŨNG DÁM BỘI BẠC. KẺ ẤY LÚC TIẾN THÌ THẬT NHANH MÀ LÚC RÚT LUI CŨNG RẤT CHÓNG.
NGUYÊN VĂN: “Vu bất khả dĩ nhi dĩ giả, vô sở bất dĩ. Vu sở hậu giả bạc, vô sở bất bạc dã. Kỳ tiến duệ giả, kỳ thoái tốc“.
Một người sớm vứt bỏ nỗ lực ở thời điểm lẽ ra không nên kết thúc thì phàm làm việc gì cũng đều có thể bỏ dở giữa chừng. Kẻ không hậu đãi, coi trọng những người lẽ ra nên được hậu đãi thì tất cũng sẽ khinh thường bất kỳ ai. Người như vậy khi tiến về phía trước thì khí thế hừng hực, khi gặp phải khó khăn lại rút lui vô cùng nhanh chóng.
5. CÓ KẺ CHẲNG BIẾT LO NGHĨ MÀ ĐƯỢC KHEN, CÓ NGƯỜI LUÔN CẦU TOÀN MÀ LẠI BỊ CHẾ NHẠO.
NGUYÊN VĂN: “Hữu bất ngu chi dự, hữu cầu toàn chi hủy“.
Đôi khi, kẻ khờ khạo không biết lo nghĩ, tính toán lại nhận được những lời khen tụng không ngờ tới. Trong khi những người luôn lo liệu chu đáo trước sau lại phải đối mặt với sự công kích, phỉ báng vô cùng hà khắc.
6. TỰ XÉT MÌNH MÀ THẤY KHÔNG NGAY THẲNG, DÙ ĐỐI DIỆN VỚI NGƯỜI MẶC ÁO THÔ RỘNG TA CHẲNG LO SỢ SAO? TỰ XÉT MÌNH MÀ THẤY NGAY THẲNG, DÙ CÓ NGÀN VẠN CON NGƯỜI TA VẪN ĐI NHƯ THƯỜNG.
NGUYÊN VĂN: “Tự phản nhi bất súc, tuy hạt quan bác, ngô bất chúy yên. Tự phản nhi súc, tuy thiên vạn nhân ngô vãng hĩ“.
Tự xem lại mình, nếu thấy bản thân không có đạo lý thì dẫu đối diện với thường dân áo vải ta cũng không thể không sợ hãi tới giật mình kinh hãi hay sao? Ngược lại, nếu khi tự xét lại, thấy mình đường hoàng ngay chính, không hổ thẹn với lương tâm, đạo lý thì dẫu đối mặt với ngàn vạn binh mã, ta cũng vẫn dũng cảm lao về phía trước, quyết không từ nan.
7. CHÍ LÀ NGUYÊN SOÁI ĐIỀU KHIỂN CÁI KHÍ, KHÍ LÀ PHẦN SUNG MÃN LƯU THÔNG TRONG THÂN THỂ. CAO NHẤT LÀ CÁI CHÍ, RỒI TỚI CÁI KHÍ. CHO NÊN NÓI RẰNG: GIỮ CHO BỀN CÁI CHÍ, ĐỪNG LÀM HƯ HOẠI CÁI KHÍ.
NGUYÊN VĂN: “Phu chí, khí chi soái dã. Khí, thể chi sung dã. Phu chí chí yên, khí thứ yên. Cổ viết: “Trì kỳ chí, vô bạo kỳ khí”.
Người sống trong đời quý là ở chỗ có chí khí cao rộng, bền bỉ. Người có chí lớn, khí chất ngạo nghễ ắt là làm nên đại nghiệp. Đôi khi anh hùng và kẻ tầm thường chỉ khác nhau ở điểm ấy mà thôi.
Chỉ khi con người biết dùng đạo đức để ức chế hành vi, tư tưởng của mình thì mới có thể làm được những việc to lớn khác mà không sợ xảy ra lầm lẫn nào. Ảnh dẫn theo tinhhoa.net
8. NGHE LỜI THIÊN LỆCH BIẾT KẺ ẤY CÓ ĐIỀU MỜ MỊT, NGHE LỜI DÂM ĐÃNG BIẾT KẺ ẤY CÓ ĐIỀU CHÌM ĐẮM, NGHE LỜI QUANH CO BIẾT KẺ ẤY ĐANG ĐUỐI LÝ.
NGUYÊN VĂN: “Bí từ tri kỳ sở tế, dâm từ tri kỳ sở hãm, tà từ tri kỳ sở li, độn từ tri kỳ sở cùng“.
Bậc minh trí biết được chỗ không toàn diện của những lời bàn luận bất công, biết được chỗ phạm phải sai lầm trong những lời bàn luận quá khích, biết được những chỗ đi ngược với chính nghĩa trong những lời bàn luận tà ác, bị bóp méo, biết được những chỗ vô lý trong những lời bàn luận lập lờ.
9. LẤY ĐỨC THU PHỤC NGƯỜI THÌ NGƯỜI TA VUI VẺ TRONG TÂM MÀ THÀNH THỰC QUY PHỤC.
NGUYÊN VĂN: “Dĩ đức phục nhân giả, trung tâm duyệt nhi thành phục dã“.
Xưa nay người nhân đức chính là kẻ vô địch. Thu dụng lòng người, lấy Thiện đãi người, khiến bách tính vui vẻ, đồng thuận mà đi theo, há chẳng phải là con đường xây thành đại nghiệp của bậc quân vương đó sao?
10. VẠN VẬT ĐẦY ĐỦ Ở NƠI TA. XÉT CHÍNH MÌNH MÀ MỌI LẼ ĐỀU THÀNH THỰC THÌ KHÔNG GÌ VUI HƠN. GẮNG SỨC LO NGHĨ CHO NGƯỜI KHÁC, MUỐN CẦU NHÂN ĐỨC CHẲNG GÌ GẦN HƠN ĐIỀU ĐÓ VẬY.
NGUYÊN VĂN: “Vạn vật giai bị ư ngã. Phản thân nhi thành, lạc mạc đại yên. Cường thứ nhi hành, cầu nhân mạc cận yên“.
Sẽ có lúc ta tự hỏi rằng bản thân đã đủ thành thực, trầm tĩnh hay chưa? Sẽ có khi ta nhìn lại chính mình và phát hiện rằng niềm vui lớn nhất chính là được sống tự nhiên, thành thực, là khoan dung, nhân hậu mà đối đãi với người. Người như thế, liệu có bao giờ gặp phải chuyện muộn phiền đây?
11. NGƯỜI HIỂU TA THÌ TA VUI VẺ. NGƯỜI KHÔNG HIỂU TA, TA CŨNG CỨ VUI VẺ.
NGUYÊN VĂN: “Nhân tri chi, diệc hiêu hiêu. Nhân bất tri, diệc hiêu hiêu“.
Trong đời vui nhất là tìm được một người hiểu mình, biết mình. Chính là ngàn vàng dễ kiếm, tri kỷ khó tìm. Khi tìm được kẻ tri âm, bạn sẽ cảm thấy thực sự an nhiên, không dục vọng, thong dong chẳng mong cầu. Ai cũng mong tìm được cho mình một người như thế trong đời. Lắm người cả một đời thất vọng, u hoài vì không tìm đâu được “một người hiểu ta”. Điều đó liệu có nên chăng?
12. PHÀM NGƯỜI TỰ KHINH BỈ MÌNH, SAU MỚI BỊ KẺ KHÁC KHINH BỈ. NHÀ TỰ HỦY HOẠI MÌNH, SAU MỚI BỊ KẺ KHÁC HỦY HOẠI. QUỐC GIA TỰ ĐẢ THƯƠNG MÌNH, SAU MỚI BỊ KẺ KHÁC CHINH PHẠT.
NGUYÊN VĂN: “Phù, nhân tất tự vũ, nhiên hậu nhân vũ chi. Gia ắt tự hủy, nhi hậu nhân hủy chi. Quốc ắt tự phạt, nhi hậu nhân phạt chi”.
Con người tự mình chuốc lấy điều sỉ nhục vào thân thì người khác mới làm nhục họ được. Trong nhà ắt phải có nhân tố tự hủy hoại thì người khác mới có thể hủy hoại nó. Quốc gia ắt phải có nguyên nhân gây họa loạn thì nước khác mới có thể tấn công. Ấy chính là nói về việc tự mình chuốc lấy tai họa.
Cổ nhân nói: “TRỜI RA TAI VẠ CÒN CÓ THỂ TRÁNH, TỰ MÌNH GÂY HỌA KHÔNG THỂ SỐNG NỔI“. Đó là cái lý nhân quả. Làm chuyện thất đức, trái đạo lý luân thường thì phải chịu nhận quả báo, tai ương. Mà thứ tai ương ấy thường là bất ngờ ập đến trong giây phút tưởng chừng yên bình nhất, trong lúc người ta ít đề phòng nhất. Thế nên nó càng khó tránh.
13. GIÀU SANG KHÔNG PHÓNG ĐÃNG, NGHÈO HÈN KHÔNG ĐỔI LÒNG, VŨ LỰC KHÔNG KHUẤT PHỤC, THẾ MỚI GỌI LÀ ĐẠI TRƯỢNG PHU.
NGUYÊN VĂN: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu”.
Người quân tử chính là mang trong mình những phẩm chất hơn người như thế. Tiền bạc và địa vị không thể khiến bản thân bị mê mờ, tha hóa. Dẫu nghèo khổ bần hàn, thân phận thấp kém cũng không thay đổi chí hướng bản thân. Quyền thế vũ lực không thể khiến họ khuất phục, thay đổi khí chất. Đây mới gọi là bậc đại trượng phu chân chính.
Bậc quân tử dẫu tiền bạc và địa vị cũng không thể khiến bản thân bị mê mờ, tha hóa. Ảnh dẫn theo spcnet.tv
14. KẺ TỰ HẠI MÌNH, KHÔNG THỂ CÙNG NÓI CHUYỆN. KẺ TỰ VỨT BỎ MÌNH, KHÔNG THỂ CÙNG LÀM VIỆC
NGUYÊN VĂN: “Tự bạo giả, bất khả dữ hữu ngôn dã. Tự khí giả, bất khả dữ hữu vi dã“.
Người tự gây tổn thương cho mình ấy là không biết trân quý bản thân. Phàm những kẻ không trân quý bản thân thì cũng không trân quý người khác. Cùng họ bàn chuyện thực là vô ích. Người tự vứt bỏ bản thân, không có trách nhiệm với cuộc đời mình thì càng không nên hợp tác, hành sự. Ngay đến bản thân còn vứt bỏ, trông chờ họ quý trọng điều gì đây?
15. CHỚ CẬY LỚN, CHỚ CẬY SANG, CHỚ CẬY ANH EM GẦN GŨI. BẠN BÈ KẾT GIAO VÌ ĐỨC HẠNH, KHÔNG PHẢI VÌ NHỜ CẬY ĐIỀU GÌ VẬY.
NGUYÊN VĂN: “Bất hiệp trưởng, bất hiệp quý, bất hiệp huynh đệ nhi hữu. Hữu dã giả, hữu kỳ đức dã, bất khả dĩ hữu hiệp dã“.
Bằng hữu đến với nhau bằng tấm chân tình, bằng việc vun trồng đức hạnh chứ không phải bởi những thứ vật chất tầm thường. Nếu kết bạn vì lòng ngưỡng mộ địa vị, tiền tài thì tình bạn đó chẳng bền lâu vậy.
16. BẬC ĐẠI NHÂN, LỜI NÓI KHÔNG NHẤT THIẾT PHẢI GIỮ CHỮ TÍN, HÀNH ĐỘNG KHÔNG NHẤT THIẾT PHẢI CÓ KẾT QUẢ, CHỈ COI TRỌNG ĐIỀU NGHĨA THÔI.
NGUYÊN VĂN: “Đại nhân giả, ngôn bất tất tín, hành bất tất quả, duy nghĩa sở tại”.
Điều này thoạt nghe có vẻ vô lý. Nhưng cổ nhân cho rằng người nói một là một, hai là hai chưa hẳn đã là quân tử. Khổng Tử từng nhắc đến ba hạng người, cho hạng người xếp cuối cùng là: “Ngôn tất tín, hành tất quả. Khanh khanh nhiên tiểu nhân tai” (lời nói có chữ tín, làm việc có kết quả thì cũng chỉ là kẻ tiểu nhân thôi).
Lý do là bởi thời thế biến hóa khôn lường, một điều hôm nay là đúng, là hợp lẽ thì ngày mai rất có thể không còn chuẩn xác nữa. Bậc quân tử đương nhiên giữ chữ tín nhưng không quá câu nệ, cố chấp đến mức ngu muội, bảo thủ. Quân tử coi việc “nghĩa” quan trọng hơn lời nói “tín”. Nghĩa chính là hợp với thời thế, là nghĩ cho người khác. Bỏ qua điều “tín” nhỏ để giữ được điều “nghĩa” lớn mới thực là đại trượng phu.
KHỔNG TỬ từng nói “NGÔN TẤT TÍN, HÀNH TẤT QUẢ. KHANH KHANH NHIÊN TIỂU NHÂN TAI”.
17. nGƯỜI CÓ LÒNG "NHÂN" THÌ THƯƠNG YÊU NGƯỜI, NGƯỜI CÓ "LỄ" THÌ KÍNH TRỌNG KẺ KHÁC. yÊU NGƯỜI THÌ NGƯỜI HẰNG YÊU LẠI. kÍNH NGƯỜI THÌ NGƯỜI HẰNG KÍNH LẠI.
NGUYÊN VĂN: “Nhân giả ái nhân, hữu lễ giả kính nhân. Ái nhân giả, nhân hằng ái chi. Kính nhân giả, nhân hằng kính chi“.
Trao gửi yêu thương thì nhận về yêu thương, đối đãi với người bằng sự chân thành, tôn kính thì cũng sẽ nhận được bằng ấy tôn kính, chân thành. Kẻ biết nghĩ cho người khác trước thì chẳng bao giờ lo chịu thiệt, cuối cùng vẫn sẽ được đáp đền xứng đáng.
18. BẦN CÙNG GIỮ ĐƯỢC MÌNH, THÀNH ĐẠT THÌ TẠO PHÚC CHO THIÊN HẠ.
NGUYÊN VĂN: “Cùng tắc độc thiện kỳ thân, đạt tắc kiêm tể thiên hạ“.
Trong cảnh nghèo hèn, bần cùng, bất đắc chí, điều quan trọng nhất chính là giữ được mình trong sạch, tu dưỡng đạo đức. Nhờ vậy, sau này khi đã thành đạt, vinh hiển thì có thể tạo phúc cho thiên hạ. Như vậy, năng lực “bình thiên hạ” của người quân tử chính là bắt nguồn từ việc tu dưỡng thật tốt bản thân.
19. KHÔNG DÙNG KHUÔN THƯỚC THÌ KHÔNG THÀNH ĐƯỢC VUÔNG TRÒN
NGUYÊN VĂN: “Bất dĩ quy củ, bất năng thành phương viên“.
Không dùng thước góc thì không thể vẽ ra được hình vuông, hình tròn. Cũng như vậy, người ta nếu không được giáo dục một cách quy củ, lễ nghi thì chẳng nên người, chẳng làm nên điều gì trong đời.
Con người nếu không được giáo dục một cách quy củ, lễ nghi thì chẳng nên người, chẳng làm nên điều gì trong đời. Ảnh dẫn theo pinterest.com
20. ĐẠO Ở GẦN LẠI CẦU NƠI XA, VIỆC VỐN DỄ LẠI TÌM CÁI KHÓ. NẾU AI AI CŨNG YÊU THƯƠNG NGƯỜI THÂN, TÔN KÍNH TRƯỞNG BỐI, THÌ THIÊN HẠ THÁI BÌNH.
NGUYÊN VĂN: “Đạo tại nhĩ nhi cầu chư viễn. Sự tại dịch nhi cầu chư nan. Nhân nhân thân kỳ thân, trưởng kỳ trưởng, nhi thiên hạ bình“.
Đạo ở gần mà lại đi tìm nơi xa, ấy chính là bỏ đường lớn mà tìm đường vòng. Việc vốn dễ mà lại làm cho phức tạp, chính là bỏ dễ mà cầu khó. Ở đời, đôi khi chỉ cần làm tốt những việc đơn giản, đối đãi thành thực, lương thiện với những người gần gũi xung quanh thì chính là đã tạo phúc cho thiên hạ vậy.
8 BIỂU HIỆN GIÚP BẠN PHÂN BIỆT NGƯỜI THẬT THÀ HAY GIẢ TẠO
Trong xã hội chúng ta tiếp xúc với tất cả các loại người, vậy làm sao để phân biệt người nào xứng đáng để chúng ta kết bạn? 8 biểu hiện căn bản dưới đây sẽ giúp bạn so sánh thấy sự khác biệt giữa người thật thà và giả tạo, như vậy bạn sẽ có thể tìm ra ai là người bạn thực sự, và ai là người giả tạo để bạn biết đường mà tránh.
1. Người chân thành sẽ tôn trọng tất cả mọi người; Người đạo đức giả chỉ tôn trọng những người có quyền thế.
UserPostedImage
2. Người chân thành không có xu hướng nịnh hót lấy lòng người khác, không cố gắng làm vừa lòng người khác, luôn luôn sống thật với chính mình; Người đạo đức giả thường muốn người khác thích mình, luôn cố gắng làm người khác thích mình.
UserPostedImage
3. Người chân thành không để ý người khác có quan tâm mình hay không, mà chỉ tập trung vào cuộc sống của chính mình, họ không tìm kiếm sự chú ý; Người đạo đức giả luôn khao khát sự quan tâm từ người khác, luôn muốn trở thành tâm điểm của thế giới, họ luôn cố gây chú ý.
UserPostedImage
4. Người chân thành sống thực tế, không tự tâng bốc mình, không khoe khoang; Người đạo đức giả luôn muốn thể hiện bản thân, luôn khoe khoang khoe mẽ.
UserPostedImage
5. Người chân thành muốn mặt đối mặt trình bày quan điểm của họ, dù bất đồng ý kiến họ vẫn sẵn sàng đối diện, họ cởi mở bày tỏ ý kiến; Người đạo đức giả luôn nói xấu sau lưng người khác, luôn "buôn chuyên người", luôn "thích ngồi lê, mách lẻo" ("ngồi lê đôi mách") .
UserPostedImage
6. Người chân thành luôn luôn giữ lời hứa, và cố gắng để hoàn thành những gì đã hứa; Kẻ đạo đức giả dễ dàng hứa hẹn, nhưng lại không bao giờ đi thực hiện, họ hứa nhiều nhưng thực hiện thì rất ít.
UserPostedImage
7. Người chân thành nhìn thấy điểm mạnh và ca ngợi những người khác, họ luôn ngưỡng mộ và khen ngợi những ai sống hiền lương đạo đức; Người giả tạo luôn coi thường người khác, luôn chỉ trích người khác để nâng cao bản thân mình lên.
8. Người chân thành sẵn sàng giúp đỡ người khác, lúc nào cũng làm người tử tế và hữu ích; Kẻ đạo đức giả chỉ khi cần thiết mới tốt với người khác, họ chỉ tử tế khi có ý đồ gì khác.
UserPostedImage
Trong xã hội cũng có không ít người tốt, họ vì cảm xúc của người khác nên chỉ nói những lời không gây hại đến người ai. Nhưng Người đạo đức giả ít quan tâm đến cảm xúc của người khác, họ luôn xem xét vấn đề từ quan điểm riêng của họ, để đạt được lợi ích cho bản thân, họ thậm chí còn làm cả những việc trái với lương tâm.
"HÃY CHO TÔI BIẾT BẠN BÈ CỦA BẠN LÀ AI,
TÔI SẼ CHO BẠN BIẾT BẠN LÀ NGƯỜI NHƯ THẾ NÀO"
Đức Khổng Tử lưu lại lời dạy là: "Ba người đồng hành, chắc sẽ có người làm thầy Ta. Bạn lành nên theo, bạn xấu nên lánh xa."
Tổ Quy Sơn dạy: "Sanh ta ra là cha mẹ. Ta thành công là nhờ bạn hữu. Gần gũi bạn lành, như đi trong sương, tuy không ướt y nhưng dần dần sẽ thấm."
Trong dân gian lưu truyền lời răn dạy con cháu là: "Phải chọn bạn mà chơi" vì "Học thầy không bằng học bạn" hay câu "Gần mực thì đen gần đèn thì sáng" v...v... để nói mức độ ảnh hưởng của bạn bè trong việc hình thành "nhân cách" của 1 người thật đáng sợ !!!
Tóm lại thì lựa chọn bạn bè là tự chính mình quyết định; Bởi vì "Loài nào thì theo về giống đó" như "Ngưu tầm Ngưu, Mã tầm Mã" vậy !!! Hay nói rõ hơn là "Loài vật thì sống theo bầy đàn, còn loài người thì tụ tập, nhóm họp theo căn tánh" ... Những người mà bản tánh tâm địa bất lương thì chắc chắn là họ sẽ không đồng thuận 1 nếp sống trong "nề nếp kỷ cương, lễ giáo đạo đức" cho được , và họ luôn mong phá hủy điều này !!!
"Hãy cho tôi biết bạn bè của bạn là ai, tôi sẽ cho bạn biết bạn là người thế nào"!!!
15 kiểu người Tuyệt Đối Không Kết Giao (Trong Đó Có Bạn) - Góc Suy Ngẫm
15 kiểu người tuyệt đối không kết giao (Có Cả Bạn)... Sống trên đời này, bất luận là khi giàu có hay nghèo đến cùng cực, đều phải biết cách nhìn người, đừng kết bạn một cách tùy tiện, cũng đừng cầu cứu người khác một cách tùy tiện để rồi chuốc khổ đau vào lòng. Sau đây là 15 kiểu người tuyệt đối không kết giao kẻo tự chuốc họa vào thân. Mời quý vị đón xem
Chỉ cần nhìn cách ăn uống biết ngay Người Có Học: Con người luôn luôn lựa chọn những thứ mà mình yêu thích. Những thứ mà 1 người yêu thích lại rất giống với tính cách và bản chất của người đó. Cho nên, nhìn vào đồ ăn mà 1 người lựa chọn và cách ăn uống của họ người ta có thể biết được nhân cách của người đó. Mời quý vị đón xem video để hiểu rõ hơn về điều này!
Không ít người tin rằng, trường thọ hay đoản mệnh là những thứ thuộc về số phận. Cũng có nhiều người thường dựa vào nhân tướng học để suy đoán tuổi thọ. Nhìn bề ngoài, chúng ta đều tin rằng với những người có thân thể khỏe mạnh, tráng kiện, da dẻ hồng hào sẽ trường thọ. Tuy nhiên, các nhà khoa học thì lại chứng minh rằng người sống lâu hơn những người khác nhờ chế độ sinh hoạt và thói quen ăn uống đúng cách. Dựa vào những đặc trưng rất riêng mà các chuyên gia có thể nhận thấy bạn có phải là người trường thọ và có sức khỏe tốt hay không. Vậy đó là những dấu hiệu nào? Mời quý vị cùng xem video để biết bí quyết sống lâu trăm tuổi nhé
Nhịn ăn có từ thời cổ ở Ấn Độ, Ai Cập, sau lan truyền sang Hi Lạp, La Mã và các nước phương Tây. Đó là một phép trị liệu và dưỡng sinh.
Theo khoa học cổ Ấn Độ và Trung Hoa, các khí trong trời đất và cơ thể sinh vật, trong đó có con người, đều thường xuyên phải cân bằng âm dương. Khi mất cân bằng âm dương sẽ sinh ra thiên tai, ốm đau, bệnh tật… Vì vậy, sinh vật phải tự điều chỉnh cân bằng âm dương. Nhịn ăn chính là góp phần phục hồi cân bằng âm dương, vì nếu cứ tiếp tục ăn thì sự lưu thông khí huyết đã rối loạn càng rối thêm. Thế nhưng con người ngày nay đã quên mất lợi ích của việc nhịn ăn, vậy những điều lợi ích này là gì? Cùng xem video để hiểu rõ hơn những lợi ích tuyệt vời của việc nhịn ăn đối với cơ thể con người nhé!
Ngày nay bệnh không còn từ miệng mà vào nữa, mà có thể ở bất cứ đâu, từ thức ăn, nước uống, hóa chất làm đẹp không rõ nguồn gốc, từ môi trường sống, hay ngay cả vết trám chì trong răng… Và chúng ta tiếp xúc với chúng từng giờ, từng ngày, vì thế thanh lọc và giải độc là công việc nên thực hiện thường xuyên, liên tục. Cùng xem video để biết thêm về các cách giúp cơ thể sống khỏe mạnh hơn nhé!
Những triệu chứng bất thường khi ngủ không những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe mà còn gây nguy hiểm tới tính mạng của người mắc phải chứng rối loạn này. Video sau đây là 11 dấu hiệu bất thường khi ngủ mà ai cũng cần biết để phòng tránh những căn bệnh nguy hiểm. Cùng xem video để biết rõ hơn nhé!
15/09/1972: Việt Nam CH tái chiếm thành cổ Quảng Trị
Nguồn: South Vietnamese forces retake Quang Tri City, History.com
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Vào ngày này năm 1972, lực lượng Việt Nam Cộng Hòa đã tái chiếm thành cổ Quảng Trị sau bốn ngày chiến đấu dữ dội, đồng thời tuyên bố rằng hơn 8.135 lính Bắc Việt đã bị tiêu diệt trong trận đánh.
Lực lượng Bắc Việt đã phát động một cuộc tấn công ồ ạt, được gọi là Chiến dịch Nguyễn Huệ hay “Chiến dịch Phục sinh” vào ngày 31/03, với ba mục tiêu chính là Quảng Trị nằm về phía nam khu vực phi quân sự, Kontum ở Tây Nguyên, và An Lộc, chỉ cách Sài Gòn 60 dặm về phía Bắc.
Cuộc tấn công này sử dụng 14 sư đoàn và 26 trung đoàn riêng biệt, tổng lực lượng hơn 120.000 quân, và được thiết kế nhằm đánh bại Việt Nam Cộng Hòa trong chiến tranh và gây thất bại cho các lực lượng Mỹ còn sót lại (có ít hơn 70.000 quân Mỹ tại Việt Nam vào thời điểm này do chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh” của Nixon và kế hoạch rút quân của người Mỹ). Đợt tấn công của Bắc Việt được đặc trưng bằng những trận hợp đồng tác chiến giữa lực lượng tăng thiết giáp và bộ binh, được hỗ trợ bởi pháo binh hạng nặng, dẫn đến một số những trận đánh được coi là dữ dội nhất trong Chiến tranh Việt Nam.
Lực lượng Việt Nam Cộng Hòa và các cố vấn Mỹ của họ, được hỗ trợ bởi máy bay ném bom chiến thuật và máy bay ném bom B-52 của Mỹ, đã có thể cầm cự tại An Lộc và Kontum dù bị áp đảo về quân số. Tuy nhiên, lực lượng tại Quảng Trị đã lung lay dưới sự tấn công của lực lượng cộng sản và nhanh chóng bị áp đảo. Chỉ sau khi Tổng thống Thiệu sa thải chỉ huy của Quân Đoàn I và thay thế ông ta bằng Thiếu tướng Ngô Quang Trưởng, người được cho là một trong những sĩ quan giỏi nhất trong quân đội Nam Việt Nam, thì quân đội Việt Nam Cộng hòa mới có thể ngăn chặn được lực lượng Bắc Việt.
Ông Trưởng đã có những biện pháp để ổn định tình hình và lực lượng Nam Việt Nam đã bắt đầu chiến đấu đáp trả. Sau trận đánh đẫm máu kéo dài bốn tháng rưỡi, trong đó có 977 lính Việt Nam Cộng Hòa thiệt mạng, Trưởng và quân đội của ông đã lấy lại Quảng Trị từ tay Bắc Việt, và giành được một chiến thắng quan trọng. Tổng thống Nixon đã sử dụng điều này làm bằng chứng khẳng định rằng chính sách Việt Nam hóa chiến tranh của ông là có hiệu quả và quân đội Nam Việt Nam đã sẵn sàng để đảm trách cuộc chiến.
15/09/1972: Việt Nam CH tái chiếm thành cổ Quảng Trị
Print Friendly, PDF & Email
Nguồn: South Vietnamese forces retake Quang Tri City, History.com
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Vào ngày này năm 1972, lực lượng Việt Nam Cộng Hòa đã tái chiếm thành cổ Quảng Trị sau bốn ngày chiến đấu dữ dội, đồng thời tuyên bố rằng hơn 8.135 lính Bắc Việt đã bị tiêu diệt trong trận đánh.
Lực lượng Bắc Việt đã phát động một cuộc tấn công ồ ạt, được gọi là Chiến dịch Nguyễn Huệ hay “Chiến dịch Phục sinh” vào ngày 31/03, với ba mục tiêu chính là Quảng Trị nằm về phía nam khu vực phi quân sự, Kontum ở Tây Nguyên, và An Lộc, chỉ cách Sài Gòn 60 dặm về phía Bắc.
Cuộc tấn công này sử dụng 14 sư đoàn và 26 trung đoàn riêng biệt, tổng lực lượng hơn 120.000 quân, và được thiết kế nhằm đánh bại Việt Nam Cộng Hòa trong chiến tranh và gây thất bại cho các lực lượng Mỹ còn sót lại (có ít hơn 70.000 quân Mỹ tại Việt Nam vào thời điểm này do chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh” của Nixon và kế hoạch rút quân của người Mỹ). Đợt tấn công của Bắc Việt được đặc trưng bằng những trận hợp đồng tác chiến giữa lực lượng tăng thiết giáp và bộ binh, được hỗ trợ bởi pháo binh hạng nặng, dẫn đến một số những trận đánh được coi là dữ dội nhất trong Chiến tranh Việt Nam.
Lực lượng Việt Nam Cộng Hòa và các cố vấn Mỹ của họ, được hỗ trợ bởi máy bay ném bom chiến thuật và máy bay ném bom B-52 của Mỹ, đã có thể cầm cự tại An Lộc và Kontum dù bị áp đảo về quân số. Tuy nhiên, lực lượng tại Quảng Trị đã lung lay dưới sự tấn công của lực lượng cộng sản và nhanh chóng bị áp đảo. Chỉ sau khi Tổng thống Thiệu sa thải chỉ huy của Quân Đoàn I và thay thế ông ta bằng Thiếu tướng Ngô Quang Trưởng, người được cho là một trong những sĩ quan giỏi nhất trong quân đội Nam Việt Nam, thì quân đội Việt Nam Cộng hòa mới có thể ngăn chặn được lực lượng Bắc Việt.
Ông Trưởng đã có những biện pháp để ổn định tình hình và lực lượng Nam Việt Nam đã bắt đầu chiến đấu đáp trả. Sau trận đánh đẫm máu kéo dài bốn tháng rưỡi, trong đó có 977 lính Việt Nam Cộng Hòa thiệt mạng, Trưởng và quân đội của ông đã lấy lại Quảng Trị từ tay Bắc Việt, và giành được một chiến thắng quan trọng. Tổng thống Nixon đã sử dụng điều này làm bằng chứng khẳng định rằng chính sách Việt Nam hóa chiến tranh của ông là có hiệu quả và quân đội Nam Việt Nam đã sẵn sàng để đảm trách cuộc chiến.
19/06/1965: Nguyễn Cao Kỳ trở thành Thủ tướng Việt Nam CH
Nguồn: Ky becomes premier of South Vietnam, History.com
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Vào ngày này năm 1965, Đại tá Không quân Nguyễn Cao Kỳ đã trở thành Thủ tướng của chính quyền thứ chín được thành lập tại miền Nam Việt Nam trong vòng 20 tháng. Hội đồng Quân lực đã chọn Kỳ làm Thủ tướng vào ngày 11/06, và Tướng Nguyễn Văn Thiệu được chọn vào vị trí Quốc trưởng tương đối “hữu danh vô thực”.
Sau khi được thăng lên hàm Trung tướng trong Không lực Việt Nam Cộng hòa còn non trẻ, Kỳ trở thành một trong số các sĩ quan lên nắm quyền vào đầu năm 1965 để chấm dứt tình trạng hỗn loạn sau vụ ám sát Tổng thống Ngô Đình Diệm hồi tháng 11/1963.
Ngay khi được chỉ định làm Thủ tướng, Kỳ đã có những bước đi nhằm tăng cường sức mạnh của lực lượng vũ trang. Ông cũng tiến hành những cải cách cấp bách liên quan tới vấn đề đất đai, các chương trình xây dựng trường học và bệnh viện, cũng như kiểm soát giá cả. Thêm vào đó, Kỳ cũng phát động một chiến dịch với sự ủng hộ rộng rãi nhằm loại bỏ các quan chức tham nhũng. Cùng lúc đó, ông ta cũng tiến hành hàng loạt động thái trấn áp, bao gồm cả lệnh cấm báo chí.
Năm 1966, các phật tử, một trong nhiều các phe phái chính trị, yêu cầu Kỳ từ chức, và nhiều cuộc biểu tình đã nổ ra ở khắp các thành phố. Những cuộc nổi loạn sau đó đã bị dập tắt bởi đàn áp từ phía chính quyền và việc thiếu đi sự ủng hộ dành cho đạo Phật trong số những phe phái bất đồng quan điểm trong quân đội. Kỳ vẫn tiếp tục nhiệm kỳ cho đến cuộc bầu cử năm 1967, khi trở thành Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, còn Thiệu trở thành Tổng thống. Kỳ giữ chức đó cho đến năm 1971 và quyết định không ra tranh cử Tổng thống với Nguyễn Văn Thiệu. Kỳ sau đó chỉ được biết đến với cấp bậc trong không quân của mình.
Chuyện ông Trâm khá ly kỳ, nhưng cũng dễ gây nhiều tranh cãi.
Có nhiều người ghét ông thậm tệ, nhưng người thích ông cũng không phải ít.
Hôm nay, mình muốn đưa ra cái nhìn riêng cá nhân, chả theo phe nào, cũng không tin vào phần lớn truyền thông Mỹ nặng mùi thiên vị.
Chuyện ông là doanh gia tỷ phú thành đạt ai cũng biết rồi.
Ông còn hoạt động trong lĩnh vực truyền hình. Ông làm nhiều show rất thành công, trong đó có show hoa hậu Mỹ và hoa hậu toàn cầu. Vây quanh ông tuyền mỹ nhân, vợ ông cũng là người mẫu tuyệt đẹp.
Ông cũng đồng sở hữu vài đầu sách thuộc hàng best selling, nổi bật là 'Art of the deal' (Nghệ thuật đàm phán), đặc biệt 'Time to get tough' (Đến lúc phải cứng rắn) là quyển bắt đầu cho những ý tưởng phải chặn đứng Trung cộng làm giàu bằng nhiều thủ đoạn ma giáo, được xuất bản năm 2011, 5 năm trước khi ông bước chân vào chính trường.
Chuyện của ông không có gì ly kỳ cho đến khi đụng đến bà Hiếu (Hillary) trong cuộc tranh cử tổng thống năm 2016.
Bà Hiếu là 1 gương mặt vô cùng sáng giá, ứng cử viện nặng ký nhất của ngôi vị tổng thống Hiệp chủng quốc Huê Kỳ, và gần như là 1 độc cô cầu bại lúc bấy giờ.
Bà Hiếu từng có 8 năm là đệ nhất phu nhân của ông Tân (Clinton), rồi 8 năm là bộ trưởng ngoại giao thời anh Ma.
Nói chung, kinh nghiệm đầy mình, ăn nói khôn ngoan, dáng vẻ bề ngoài của 1 phụ nữ quý phái, bà chiếm được cảm tình của nhiều giới.
Fan của bà đông hơn quân nguyên nên việc bà thắng cử gần như là chắc chắn, được rất nhiều người tiên đoán.
Đang khi đó, Trâm chỉ là một thương gia, không có chút kinh nghiệm chính trường.
Nhưng thật ngạc nhiên, ông lần lượt đánh bại 16 đối thủ nặng ký của đảng Cộng Hòa, để bước vào trận chung kết với bà Hiếu.
Chuyện ông đấu với bà HIếu làm nhiều người phì cười, bởi có vẻ như ông không phải là đối thủ xứng tầm của bà:
● Quỹ tranh cử của bà gấp đôi ông;
● 90% truyền thông Mỹ là cánh tả, ủng hộ bà Hiếu;
● khoảng 500 tờ báo, đài về phe Hiếu, trong khi chỉ có 30 ủng hộ Trâm...
Vì thế, Trâm bị đánh tơi bời hoa lá.
Càng gần đến ngày bầu cử, Trâm càng bị tấn công dữ dội, nổi bật là người khổng lồ CNN.
Bên cạnh việc bôi nhọ Trâm, họ luôn luôn đưa ra những thăm dò rất tệ, làm nản lòng chiến sĩ.
Chính mình cũng bị lừa, và không hề tin Trâm có cơ hội, dù là nhỏ.
Cho đến 1 ngày trước khi bỏ phiếu, CNN vẫn đưa ra thăm dò bà Hiếu 90% thắng.
Nhiều tạp chí đã cho in sẵn phần bìa với hình bà Hiếu to tổ bố cùng hàng tít lớn:
"The first lady president of the United States" để sẵn sàng cho ngày đăng quang lịch sử.
Đùng 1 phát, ông Trâm thắng, thắng thuyết phục với 306 phiếu cử tri đoàn so với 232 của bà Hiếu.
Vậy là toàn bộ fan của bà Hiếu sững sờ, chết lặng, truyền thông tê tái.
Nhiều fan của bà khóc lu bù, than vãn nước Mỹ giờ đây đã đến thời lụn bại.
Trong số đó, có cả các nghệ sĩ Việt ở Cali. Họ từng làm clip chê bai miệt thị ông Trâm, cô Kỳ Duyên còn bảo "nếu Trâm thắng sẽ có nhiều nghệ sĩ bỏ Mỹ sang Canada sống".
Nhưng, cho tới giờ này, chả thấy ai sang; mặc dù, có những người bạn của tui vì mến mộ nghệ sĩ, đã đứng chờ mỏi chân ở biên giới.
Đặc biệt là giới trí thức vô cùng tức giận. Đối với họ, Trâm chỉ là 1 tên nhà giàu trọc phú, biết gì đến chính trị, kinh tế,... mà đòi làm tổng thống. Họ mạt sát ông đủ điều, với sở học 'uyên bác' của mình, họ vẽ nên hình ảnh 1 ông Trâm ngu dốt, độc tài, tàn bạo, và nguy cơ về 1 nước Mỹ hoang tàn.
Còn nhớ, giáo sư Paul Krugman, với giải Nobel danh giá về kinh tế, từng khẳng định trên báo New York Times rằng: 'nếu TT Trump giữ những lời hứa khi tranh cử như rút ra khỏi TPP, giảm thuế lợi tức cá nhân, giảm thuế lợi nhuận công ty, giảm thuế đánh trên tiền đô hồi hương từ các thiên đường thuế ngoài nước Mỹ, khai chiến mậu dịch với Trung Cộng, thay bà Janet Yellen, chủ tịch Hệ Thống Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang, để tăng lãi suất, xóa bỏ hàng loạt thủ tục hành chánh đang được dùng để điều hành guồng máy kinh tế, thu hồi luật ngân hàng của Obama đang kiểm soát tín dụng cả nước,… thì đó sẽ là những hành động ngu xuẩn nhất và sẽ đưa kinh tế Mỹ và kinh tế cả thế giới tới đại nạn suy trầm mà không ai thấy đâu là đáy; thị trường chứng khoán sẽ sụp đổ toàn diện trong chớp mắt'.
Ghê chưa?
Ấy vậy mà, trong 2 năm qua, Trâm thực hiện gần hết các lời hứa đó, kết quả là:
● thất nghiệp đang ở mức thấp nhất, từ gần 40 năm qua,
● kinh tế tăng trưởng tới hơn 4%,
● thị trường chứng khoán lên như hỏa tiển Tomahawk.
● tỉ lệ thất nghiệp của người da đen thấp kỷ lục...
Không biết giờ này giáo sư Krugman, Nobel lauriate, nghĩ gì về tuyên bố của ông trước kia? Ông có nên trả lại giải Nobel kinh tế không?
Đó là Mỹ, các giáo sư, tiến sĩ gốc Việt cũng ăn theo không kém. Nhiều vị cố chứng minh rằng: 'Trâm sẽ là một Hitler thứ 2, và nước Mỹ sẽ chìm vào cơn khủng hoảng tồi tệ nhất trong lịch sử'.
Xin cảm ơn thượng đế, chuyện này đã không xảy ra sau 2 năm.
Chuyện Trâm thắng cử làm cá nhân mình giật mình. Lâu nay chỉ biết tin vào CNN. Hóa ra truyền thông Mỹ cũng phe phái tàn bạo.
Từ đó mình mới biết đến các đài khác:
Fox News có xu hướng cộng hòa, nhưng không quá thiên lệch như CNN. Fox News được tín nhiệm và được coi/nghe nhiều hơn cả.
Trong 20 chương trình bình luận chính trị hàng đầu của các đài TV lớn, Fox chiếm hết 15 (kể cả 4 trong 5 chương trình được coi nhiều nhất) với MSNBC được 5 chương trình còn lại.
Chương trình số một của CNN chỉ được xếp hạng 24.
Nói chung, số người coi Fox bằng tổng số người coi 4 đài chính cộng lại: FOX = ABC + CBS + NBC + MSNBC.
Nếu chỉ đọc/nghe CNN, New York Times, NBC... thì bạn sẽ thấy 1 ông Trâm ngu si, độc ác, nói láo, dâm dật, kỳ thị dân tỵ nạn, kỳ thị phụ nữ, kỳ thị luôn cả người khuyết tật.
Trâm ghê tởm vậy đó mà lại làm tổng thống Mỹ, bởi vậy đế quốc Mỹ độc ác ăn thịt người là phải rồi.
Trâm thắng cử còn cho thấy, phần lớn dân Mỹ không còn bị dụ bởi truyền thông. Nếu không thì bà Hiếu thắng to rồi. Và, chính bà mới là nạn nhân của truyền thông gian dối, nhất là CNN. Bởi, tin vào những con số đó nên bà đã chủ quan không thèm vận động ở các tiểu bang khác, để rồi ôm hận nghìn thu.
Vì thắng bà Hiếu mà Trâm lao đao.
Fan của bà quay sang chống Trâm kịch liệt, cứ như đó là sứ mạng cao cả vậy. Họ quên rằng ông Trâm thắng cử đàng hoàng, hợp hiến.
Trong bầu cử, thắng thua là lẽ thường, dân chủ và cộng hòa thay nhau lãnh đạo: Hết Bush cha của cộng hòa, đến Clinton của dân chủ, đến Bush con, rồi lại Obama.
Vậy lẽ gì mà chống Trâm? Nếu chỉ muốn bà Hiếu thắng thì tốt nhất là dẹp bầu cử. Nghĩa là dẹp luôn đảng CH, độc đảng như Việt Nam hay TC cho rồi.
Dân chủ chi mà không công nhận kết quả bầu cử?
Ngay từ khi Trâm thắng cử, nhiều cuộc biểu tình chống đối đập phá nổ ra.
Tiếp theo là màn nghi ngờ máy đếm phiếu bị trục trặc, đòi đếm lại. Chưa hết, ồn ào nhất là tố cáo có sự nhúng tay của Russia để đòi truất phế ông Trâm.
Tiếc là 2 năm trôi qua vụ này vẫn không có 1 bằng chứng, vậy mà họ vẫn không tha.
Đã qua rồi thời kỳ phe thua bắt tay chúc mừng phe thắng, tất cả khép lại để toàn tâm toàn ý cho quốc gia.
Giờ là thời 'thắng làm vua thua thì quậy' cho đục nước.
Sắp tới nếu đảng DC thắng, phe CH sẽ bắt chước mà quậy phá, khi đó phe DC nghĩ gì?
Cá nhân mình thấy không ổn.
Ông Trâm thắng cử đàng hoàng minh bạch. Chưa làm tổng thống ngày nào mà đã bị tấn công nhiều mặt, dồn dập. Chưa làm tổng thống mà đã bị đòi đàn hặc, truất phế.
Nghĩa là sao?
Thắng thua là lẽ thường, việc thương - ghét, ủng hộ hay chống đối Trâm cũng là chuyện thường ngày ở huyện.
Đó mới chính là đa nguyên.
Hơn thế nữa, chống Trâm là cái quyền, nhưng ủng hộ Trâm cũng là 1 cái quyền, miễn là có công bằng, và đã được quyết định thông qua 1 cuộc bầu cử quốc gia.
Tiếc là sau khi thất bại, bà Hiếu bảo người ủng hộ Trâm phần đông là ít học, có thu nhập thấp, deplorable (từ deplorable có nghĩa là rất xấu xa, đáng nguyền rủa.); nghĩa là chỉ có người nghèo và ngu mới bầu cho ông.
Phe chống Trâm ăn theo, chê bai những người ủng hộ, bảo họ tôn thờ Trâm, cuồng Trâm, v.v...
Họ chửi Trâm bằng những lời lẽ 'từ thô bỉ đến mất dạy'. Nhẹ thì Trâm là thằng ngu, thằng điên; nặng thì Trâm là thằng chó đẻ, khốn nạn, bỉ ổi, dâm tặc v.v...
Năm 2015, khi thủ tướng Canada: Stephen Harper của đảng bảo thủ thất cử, ông đăng đàn nói lời cảm ơn và kết thúc bằng câu:
"The people are never wrong"
(Nhân dân không bao giờ sai).
Ông đúng là 1 bậc chính nhân quân tử.
Mình thấy những người ủng hộ Trâm có lý do rõ ràng. Họ thấy từ ngày có Trâm,
● kinh tế phất cờ,
● công ăn việc làm bao la,
● tỉ lệ thất nghiệp thấp kỷ lục,
● chứng khoán tăng kỷ lục.
Thời anh Ma,
● 1 đồng Canada ăn 90 xu đến 1 đồng Mỹ,
● giờ chỉ còn 75 xu Mỹ.
Tui 'hựn' Trâm vụ này. (ý nói tác giả là công dân Canada đang xài dollar Canada bị mất giá trước đồng dollar Mỹ của Trump đang lên- BBT)
Còn những người chống Trâm, ít có logic hơn và thiếu công bằng, đa phần bị ảnh hưởng bởi truyền thông thiên tả. Báo chí là quyền lực thứ 4, nhưng cũng không kém phần ma quỷ. Các nhà báo có đủ tay nghề để xào nấu tin tức một cách hợp pháp, và dụ người đọc theo ý mình.
Một vài thủ thuật cơ bản như: 1. Trích xuất 1 câu trong toàn bộ ngữ cảnh. Điển hình là Trâm chống ILLEGAL IMMIGRANTS, nhưng họ bỏ chữ ILLEGAL đi, rồi bảo là Trâm chống dân nhập cư.
Có người bảo dân Việt cũng là nhập cư, tại sao lại ủng hộ Trâm? Xin thưa, người Việt tỵ nạn vào Mỹ là LEGAL đàng hoàng. Chúng tôi đi vượt biên, rồi phải chờ 5, 7 năm ở trại tỵ nạn để được xét duyệt vào Mỹ và các nước khác. Rất nhiều người còn bị trả về VN nữa cơ.
2. thủ thuật 'cherry pick', nghĩa là chỉ chọn ra phần mình muốn, ví dụ Trâm làm 10 điều, có 8 điều tốt thì họ bỏ qua, chỉ liên tục nhắc đến 2 điều xấu. Trong 1 bức tranh họ chỉ chọn 1 góc họ thích rồi mô tả về nó; vì thế, bức tranh sáng bừng hay tối thui là theo ý họ.
2 năm qua, nhiều người mắc phải hội chứng ghét Trâm: TDS (Trump Derangement Syndrome) cũng vì truyền thông ma giáo, nặng tính đảng phái, đặc biệt họ xem việc lật đổ Trâm là sứ mạng, chứ không phải là đem thông tin trung thực đến người đọc.
Ồn ào nhất là vụ Trâm ăn vụng hơn 10 năm trước. Ông ăn xong trả tiền đàng hoàng, nhưng giờ đây ông là tổng thống rồi, nên cô đào phim người lớn Stormy Daniels trở mặt đòi thêm tiền. Vụ này nhiều người người bảo Trâm tà dâm, không xứng làm tổng thống, đòi truất phế Trâm. Ít ai đưa tin mới đây tòa đã phán quyết bà Daniels thua và phải trả cho luật sư của Trâm 430 ngàn tiền án phí.
Tham thì thâm.
Nói về gái gú, phải nói ông Tân (Clinton) chồng bà Hiếu của phe dân chủ mới là bậc thầy. Ông chơi gái mà không tốn tiền, làm tại phòng bầu dục của 'nhà trắng' luôn. Sau đó, trước quan tòa, ông chối phăng. Cho đến khi em Mo (Monica) thực tập viên của nhà trắng trưng ra chiếc áo đầm còn vương vài giọt tình yêu thì ông mới thúc thủ. Đó là chưa kể vụ Paula Jones tố ông sách nhiễu tình dục ở hotel, khi ông đang tại vị. Cuối cùng, ông phải xì cho cô này 850 nghìn mới yên. Ấy vậy mà ông đã có sao. Ông vẫn là tổng thống 2 nhiệm kỳ, bởi thời kỳ đó nước Mỹ phát triển ào ào, kinh tế sung mãn.
Vậy thì chuyện ông Trâm ăn bánh trả tiền hơn 10 năm trước có gì là ghê gớm. Chuyện ồn ào 1 thời gian, nhiều người chống Trâm hí hửng, chờ ngày ông bị truất phế, để rồi sau đó là thất vọng tràn trề, thất vọng nối tiếp thất vọng.
Tổng thống cũng là con người với đầy đủ hỉ nộ ái ố. Miễn là họ làm được việc cho quốc gia. Còn muốn người đạo cao đức trọng, không tì vết thì nên chọn đức giáo hoàng.
Vụ Russia mới là thô bạo.
2 năm qua họ điều tra, tốn bao nhiêu tiền của, nhưng không hề có 1 chứng cứ, vậy mà vẫn không chịu dừng bước, vẫn để cái án treo lơ lửng trên đầu Trâm.
Những người ghét Trâm luôn hy vọng vào chuyện này. Lâu lâu, có tin gì sốt dẻo họ lại chuyền nhau và hy vọng 1 cuộc phế truất.
Nhưng tội nghiệp, ngày qua ngày, giấc mộng trầm kha đó, vẫn chỉ là mộng. Họ sống trong 1 chuỗi hy vọng, để rồi thất vọng tràn trề...
Rồi lại chuyện bức tường biên giới.
Dân nhập cư lậu là vấn đề đau đầu triền miên của nước Mỹ, qua nhiều đời tổng thống chứ không phải bây giờ.
Từ ông Tân đến ông Bút, đến ông Ma, cho đến bà Hiếu, tất cả đều lên án nhập cư lậu nặng nề. Nhưng, không ai dám giải quyết.
Khi Trâm xắn tay vào thì bị kêu gào, chống đối, bị nguyền rủa là kỳ thị, độc ác, v.v...
Việc xây tường bị chống đối kịch liệt, nhưng những biện pháp cứng rắn của ông đã làm cho nạn di dân lậu giảm đáng kể.
Chuyện bổ nhiệm thẩm phán tối cao, Kavanaugh mới là tận cùng bỉ ổi, chỉ vì Trâm đề cử ông này. Khi đó, phe dân chủ bắt đầu chiến dịch đánh phá. Kavanaugh bị giáo sư tâm lý học Christine Blasey Ford tố hiếp dâm bất thành 36 năm về trước khi cả 2 còn ở high school, ông 17 tuổi còn bà 15.
36 năm qua bà không hề lên tiếng, chỉ đợi lúc này. Bà chỉ tố suông, không ai ra làm chứng. Bà không nhớ nơi đâu, khi nào, ai đưa bà đến và về trong buổi party đó. Chỉ nhớ mỗi ông Kavanaugh.
Màn kịch sex quen thuộc nhưng quá dở không thành, chỉ thấy phe dân chủ chơi quá bẩn.
Chuyện chống Trâm còn nhiều lắm, không thể kể hết.
Nhưng ít có bài chống nào phê bình nghiêm túc các chính sách của ông, đa phần là tấn công cá nhân, bêu riếu chuyện cỏn con.
Trên mạng facebook có không ít dũng sĩ diệt Trâm. Họ thường trích vài điều từ các bài báo thiên tả, rồi chế nhạo ông. Mấy em cháu ngoan của bác ở VN nhảy vào ăn theo chửi leo, bảo ông là thằng điên, thằng ngu v.v...
Đúng rồi, Trâm ngu hơn lãnh đạo VN nhiều.
Riêng những thành quả rõ như ban ngày của ông thì không bao giờ được nhắc đến.
Có người còn cầu mong cho kinh tế Mỹ sụp đổ để Trâm bị phế truất.
Hết thuốc chữa luôn.
Giới quan chức ghét Trâm 1 phần cũng vì ông đã đả kích lề lối làm việc quan liêu cũ với nhiều khuất tất. Cũng có thể gọi là nạn tham nhũng ở mức độ tinh vi, thông qua hiện tượng lobby chính trị của các quan chức nhà trắng.
Ông hứa sẽ "tát cạn đầm lầy" (Drain the swamp).
Chờ xem.
Nhưng trên tất cả, Trâm vẫn là Trâm. Trâm là 1 nhân vật kỳ quái. Ông không thuộc tà phái, cũng không hẳn chính phái. Tạm gọi là Trâm phái có cả chính lẫn tà. Võ công của ông được đúc kết qua bao nhiêu năm lăn lộn trên thương trường khốc liệt, với những cuộc đàm phán máu loang đầy phòng họp.
Trâm là 1 ông già gân, sức làm việc kinh khủng, hơn 70 tuổi mà làm việc như điên, không biết có còn năng lượng cho cô vợ trẻ xinh đẹp không.
Ông cũng thuộc loại cầu toàn, nhiều nội các của ông phải ra đi vì không đạt yêu cầu cao.
Nhưng bộ máy vẫn vận hành trơn tru mới là độc đáo.
Trâm có nổ không?
Có, ông cũng hay huyênh hoang, đôi lúc nổ 10 nhưng ông cũng làm được 7, 8.
Washington Post là 1 tờ báo thiên tả chống Trâm, nhưng gần đây cũng phải công nhận ông là vị tổng thống giữ nhiều lời hứa nhất với cử tri.
Trâm vô cùng lì đòn, bản lĩnh.
Chưa có vị tổng thống nào bị tấn công khủng khiếp như ông. Từ 'day 1', ông đã bị ăn đòn dồn dập, mọi phía, rơi vào thế mãnh hổ nan địch quần hồ.
Nhưng ông đã tồn tại và làm được rất nhiều việc trong 2 năm qua.
Trâm có sức thu hút mãnh liệt. Ở những nơi ông đến vận động có cả trăm ngàn người reo hò ủng hộ.
Ông thu hút luôn cả những người ghét ông. Họ chửi ông suốt năm suốt tháng.
Trâm không hề biết sợ.
Hầu hết các tổng thống đều rất sợ truyền thông, quyền lực thứ 4 có thể lật đổ cả 1 đế chế.
Nhưng ông không hề ngán.
Truyền thông tấn công ông không khoan nhượng, ông ăn miếng trả miếng. Bằng những cái tweet trực diện ông dám đấu với tất cả truyền thông cánh tả, không hề nao núng. Truyền thông bêu rếu ông tấn công báo chí. Nhưng chả lẽ báo chí tự cho mình cái độc quyền tấn công người khác mà không được tấn công lại ? Dân chủ là không có chỗ cho quyền lực độc tôn. Báo chí cũng không là ngoại lệ.
Ông là khắc tinh của giới trí thức khoa bảng bàn giấy. Kiến thức của ông không thuộc loại hàn lâm, nhưng từ thực tiễn sinh động, từ thương trường khốc liệt mà có.
Trâm là người phát động cuộc thương chiến và kỹ chiến với Trung cộng.
Hơn 1 năm qua nhiều tên gián điệp kinh tế Trung cộng bị bắt giữ vì ăn cắp kỹ thuật. 2 công ty lớn của tq là ZTE và Huawei bị nêu đích danh và phạt tiền.
Cuộc thương chiến chỉ mấy tháng đã làm Trung cộng chao đảo, thị trường chứng khoán sụt thê thảm, kinh tế co cụm. Họ Tập phải xin hưu chiến 3 tháng để thỏa mãn các yêu sách của Trâm.
Dưới thời ông, tham vọng biển đông của Trung cộng bị chặn đứng.
Ông và nhà trắng đã đưa ra dự luật cho phép can thiệp vào biển đông, tức là cắt đuờng luỡi bò phi lý, làm món luỡi bò phá lấu đãi bà con.
Ngoài ra chiến dịch '1 vành đai 1 con đường' = 'nhứt đái nhứt lộ', cũng đang trên đà phá sản.
Ông luôn khai thác những điểm nóng chết nguời của Trung cộng là Tân cương, Tây tạng, và nhất là cái vòng kim cô Đài loan.
Khi cần, ông lên tiếng cho Đài loan độc lập là Trung cộng la làng.
Cùng với phó tổng thống Mike Pence, người cứng rắn còn hơn cả Trâm, và cố vấn Peter Navarro, tác giả quyển Death by China, hợp thành cây đinh ba đang chỉa vào yết hầu Trung cộng.
Tập hoàng đế giờ chỉ còn ngửa mặt lên trời than rằng trời sinh ta sao còn sinh lão Trâm trời đánh.
Trâm rất khó lường, miệng thì luôn bảo Tập là bạn tốt, nhưng tấn công Trung cộng không thương tiếc.
Nhờ vậy, mới có thể đối phó với 1 Trung cộng luôn gian manh trên trường quốc tế.
Nói chung ông thần Trâm là 1 tổng thống Mỹ không giống ai, võ công kỳ quặc, lắm kẻ ghét cũng không thiếu người thương mến.
Khoan hãy đánh giá những gì ông đang làm. Hãy đợi 1 thời gian nữa cũng không muộn.
Dù sao Trâm cũng chỉ là 1 trong nhiều tổng thống Mỹ. Ông có hay và dở. Ai cũng có quyền hoặc là chống đối hoặc là ủng hộ ông.
Nhưng ít nhất cần có một cái nhìn công bằng, đừng để bị truyền thông ma giáo xỏ mũi.
Cá nhân mình ủng hộ ông, vì ông là tổng thống thông qua bầu cử dân chủ và minh bạch. 2 năm nữa sẽ có cuộc bầu cử mới. Và bất cứ ai thắng cử cũng cần được tôn trọng, bởi đó chính là sự lựa chọn của nước Mỹ.
Nếu bọn Việt công thắng thì Quôc gia Việt Nam cũng sẽ bị tiêu diệt và sẽ biến thành một tỉnh nhỏ của Trung hoa cộng sản. Hơn nữa toàn dân sẽ phải sống mãi mãi dưới ách độc tài của một bọn vong bản vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo.
Lời cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Trong diễn văn khánh thành đập Đồng Cam, Tuy Hoà (ngày 17-09-1955)
Nỗi Lòng
Gươm đàn nửa gánh quẩy sang sông
Hỏi bến: thuyền không lái cũng không!
Xe muối nặng nề thân vó Ký
Đường mây rộng rãi tiếc chim Hồng
Vá trời lấp biển người đâu tá ?
Bán lợi mua danh chợ vẫn đông!
Lần lữa nắng mưa theo cuộc thế
Cắm sào đợi khách thuở nào trong?
Ngô Đình Diệm, 1953
Edited by user Friday, January 15, 2016 1:10:00 AM(UTC) | Reason: Not specified
Back to top
thanks 1 user thanked wild grass for this useful post.
Thanks: 47 times
Was thanked: 110 time(s) in 94 post(s)
Ngàn năm gương cũ ... nhớ Người
Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Kẻ Sĩ cuối cùng
Phạm Phong Dinh
UserPostedImage
"Tôi tiến, hãy theo tôi;
tôi lùi, hãy bắn tôi;
tôi chết, hãy nối chí tôi.
Tôi không phải là thần thánh,
tôi chỉ là một người bình thường,
tôi chỉ biết thức khuya, dậy sớm làm việc,
một lòng hiến dâng đời tôi cho đất nước và dân tộc."
Ngô Đình Diệm
Đó là những lời tâm huyết, mà cũng là những lời trối trăn đầy máu và lệ của một chiến sĩ quốc gia: Tổng Thống Ngô Đình Diệm, còn để lại cho những thế hệ đời sau, trước khi người từ giã đồng bào đi về phía Cõi Vĩnh Hằng. Mỗi năm đến ngày 1.11 cái chết của người vẫn như một vết thương còn nưng mũ, lại vỡ toác ra trong trái tim ứa máu của mỗi chúng ta nỗi ngậm ngùi tiếc thương. Hình ảnh Tổng Thống Diệm mặt đẫm đầy máu, vì bị bắn từ phía sau ót, hai tay bị trói quặt về phía sau, nằm co người trong lòng chiếc thiết vận xa M113 oan nghiệt, vẫn luôn là một cơn ác mộng chập chờn hiện về trong cõi ký ức của những người còn nhớ đến ông, tri ân ông như là một anh hùng dân tộc, mà đã dẹp tan loạn sứ quân Miền Nam sau lần chia cắt đất nước tháng 7.1954, trần ai khổ ải giành lại độc lập cho đồng bào ông từ tay thực dân Pháp. Chỉ với hai bàn tay trắng cùng một tấm lòng son sắt, ông đã tống khứ được đạo quân viễn chinh 150,000 quân Pháp vĩnh viễn ra khỏi Việt Nam. Trên hết tất cả, là một con người phi thường đứng mũi chịu sào ngăn chống hai mặt trận lớn : sự kiêu ngạo ngu xuẩn của bạn đồng minh và sự hung hãn khát máu của giặc cộng sản.
Tổng Thống Diệm có gì trong tay để đối đầu với hai chiến trường nặng độ đó ? Ngay cả lực lượng bảo vệ trong những năm đầu làm tổng thống của ông cũng không có, đến nỗi tổng thống Phi Luật Tân Magsaysay phải gửi chuyên viên quân sự sang giúp thành lập và huấn luyện Tiểu Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống hỗ trợ cho người bạn cô đơn của mình. Một căn phòng làm việc nhỏ với một chiếc bàn gỗ cũ, vài cái ghế nghèo nàn để tiếp khách, một chiếc phản không nệm cùng một chiếc mùng nhỏ trong một căn phòng ngủ không có máy lạnh, chỉ có một chiếc quạt trần. Còn gì nữa cho những giờ phút thư thả sau một ngày làm việc căng thẳng. Trời ơi, chỉ có một gói thuốc lá đen hiệu Bastos rẻ tiền trong chiếc túi áo vải đã sờn. Ăn uống thì kham khổ như một nhà tu, buổi sáng chỉ là một tô hủ tiếu hay mì, buổi ăn chiều chỉ gồm có một dĩa cá kho và một tô canh rau hay đậu. Thế còn những giấc ngủ hằng đêm đã được người thu xếp như thế nào ? Người đi ngủ, thường thường lúc 1 giờ khuya và thức dậy lúc 5 giờ sáng ngày hôm sau, nghĩa là chỉ có 4 tiếng đồng hồ chợp mắt, mà chưa hẳn ông đã được ngủ ngon trong bối cảnh một quốc gia hãy còn quá nhiều công việc bề bộn, mà cái nào cũng hết sức cấp bách. Kết quả của sự hy sinh và đức tính khiêm cung cần kiệm ấy ? Hàng ngàn trường học, nhà thương trên khắp nẽo đường đất nước được xây dựng, hàng ngàn đền miếu, chùa chiền, nhà thờ, thánh thất hân hoan vươn mình lên phía trời xanh, hàng triệu mẫu ruộng phơi phới màu xanh của lúa, hàng triệu đồng bào di cư từ Miền Bắc có công ăn việc làm và đang tiến đến lằn ranh của sự giàu có thịnh vượng. Người đã xây dựng những quân trường tối tân nhất Đông Nam Á để đào tạo nhân tài lãnh đạo và bảo vệ nước Nam, nền kỹ nghệ được mở mang với những ống khói của hàng hàng lớp lớp nhà máy cuồn cuộn những khối mây đen tỏa rộng lên không gian, vực dậy sức sống của một đất nước nghèo nàn sau cơn chiến tranh.
Còn nhiều nữa những kỳ công của một con người khiêm tốn tự nhận mình là bình thường không thể kể ra hết, để đem nước Việt Nam Cộng Hòa ngẫng cao đầu trên trường thế giới, trở thành một quốc gia hùng mạnh nhất Đông Nam Á thập niên 1950 – 1960. Tất cả những công lao to lớn ấy đã rất hiếm khi được một nhà viết sử thế giới phương Tây và Hoa Kỳ nào liệt kê ra để vinh danh Tổng Thống Diệm. Trái lại, những kẻ gọi là những nhà viết sử vô tư và khách quan đó, đã tỉ mỉ dùng kính khuếch đại rọi vào từng ngóc ngách khiếm khuyết của một chính quyền non trẻ thiếu thốn nhân lực, kinh nghiệm và cực nghèo nàn, hả hê một cách độc ác trưng lên từng trang sách những : “sự thật” về một chính thể “độc tài”, một chính quyền “tham nhũng”, một bộ máy “thối nát”, để che dấu và biện minh cho sự bất lực, hèn nhát, ngu dốt, đểu cáng, sát nhân và cuối cùng là sự tháo chạy của một cường quốc kiêu ngạo.
Tất cả những sự thất bại trên đất nước Việt Nam đều được tàn nhẫn trút lên đầu quân và dân Việt Nam Cộng Hòa, biểu lộ cái hèn của một gã người lớn ăn trộm bị bắt quả tang nhưng cãi chầy cãi cối đổ tội cho một đứa trẻ đói khát đang đứng ngơ ngác bên đường. Đó là cung cách viết sử của thế giới phương Tây và Hoa Kỳ, ngoại trừ một vài tiếng vang vọng lương tâm của những tác phẩm và con người còn biết tôn trọng lẽ phải cùng sự thật, nhưng hãy còn quá ít. Đối với bạn thì độc ác như thế, còn đối với thù thì sao ? Để biện minh cho sự thất bại của mình, những nhà viết sử Pháp và Mỹ đã phải cực lực nâng đối thủ lên hàng siêu đẳng và huyền thoại. Rằng tướng A, tướng B đó chúng nó quá giỏi, rằng ông già râu đó là một trong 100 khuôn mặt lớn của thế giới, chúng tôi thua là phải, cái thua của chúng tôi là vô cùng... xứng đáng ! Nhưng họ không hề bao giờ viết lại cho hậu thế cùng biết rằng, gã râu xồm ấy, cũng những tướng A, tướng B đó của kẻ thù, đã từng nhiều lần là bại tướng nhục nhã dưới tay những tướng C, tướng D của một đất nước có tên là Việt Nam Cộng Hòa và một quân đội có tên là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Những cuốn sử đầy thành kiến và thiên lệch đó vẽ ra hình ảnh một ông vua ngồi ngất ngưởng trên ngai vàng, thỏa mãn với sự tung hô cúc cung tận tụy của bọn nịnh thần vô lại, phẩy tay một cái là bắt nhốt người này, bỏ tù người kia. Nhưng trong thực tế, Tổng Thống Diệm là một con người siêng năng, ông thường ít ngồi trong văn phòng làm việc, mà rất thường xuyên đi thăm hỏi dân tình trên khắp nẽo đường đất nước. Rất hiếm một cuốn sách nào kể lại sự việc người thanh niên tên Hà Văn Trí đã dùng súng ám sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm, khi ông lên kinh lý Ban Mê Thuột trong nâm 1961. Thật may mắn, viên đạn chỉ bắn bị thương một vị bộ trưởng tháp tùng. Với cái tội tầy trời đó, anh Trí chỉ phải ngồi tù có 2 năm rồi được phóng thích. Chúng ta thách các nhà viết sử Mỹ nào tìm được một sự kiện tương tự với một bản án khá hơn ở bất cứ quốc gia nào. Hay ít cuốn sách nào tiết lộ việc Tổng Thống Diệm dùng ngân quỹ nghèo nàn của quốc gia, hoan hỉ giúp xây dựng nên những ngôi chùa bề thế, uy nghi Xá Lợi, Vĩnh Nghiêm, Ấn Quang, Viện Hóa Đạo, thánh thất Cao Đài, v.v.. từ năm 1956 trở đi.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm sinh ngày 3.1.1901 ở làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông là người con thứ ba trong một gia đình qúi tộc nề nếp, nhiều đời làm quan trong triều đình nhà Nguyễn, và trong giòng họ theo đạo Công giáo từ đầu thế kỷ thứ 17. Ông có hai người anh là Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Thục, các em trai là Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, Ngô Đình Luyện và hai em gái. Không ít người mang họ Ngô đã là những thánh tử đạo trong những cuộc bách hại người theo đạo Kitô của triều đình nhà Nguyễn, nhất là dưới thời vua Minh Mạng. Theo tài liệu của các sử gia Mỹ, ông James S. Olson và Randy Roberts trong quyển Where The Domino Fell, thì giòng họ Ngô là hậu duệ của Ngô Quyền, người anh hùng Nước Nam đã kiêu dũng giành lại được nền độc lập cho dân tộc Việt Nam năm 939 từ xâm lược Bắc phương. Có phải chăng giòng máu anh hùng ấy sau một ngàn năm chảy luân lưu trong nhiều thế hệ, định mệnh đã chọn cậu bé Ngô Đình Diệm tiếp nối con đường dựng nước và giữ nước của cha ông, là giành lại độc lập từ xâm lược Bắc phương và Tây phương. Một công việc cao cả nhưng nặng oằn như núi Thái Sơn chất chồng trên vai, đòi hỏi con người ấy phải là một con người kiệt xuất có ý chí bằng thép và trái tim yêu nước nồng nàn.
Thân phụ của ông Ngô Đình Diệm là cụ Ngô Đình Khả, làm quan triều vua Thành Thái (1889 – 1907). Trong những năm 1880, cụ Khả được gia đình gởi sang Mã Lai Á học làm linh mục. Nhưng ở quê nhà đã xảy ra một cuộc náo loạn bách hại người Công giáo của những người theo đạo giáo khác, gia đình cụ Khả gần như bị tuyệt diệt. Được tin chẳng lành cụ Khả bỏ học trở về Việt Nam, để chỉ ngậm ngùi đau xót trước cái chết bi thảm của ông bà, cha mẹ, anh chị em, chú bác cùng thân nhân. Là một thanh niên có học thức, nói tiếng Pháp lưu loát, nên chẳng mấy chốc mà cụ Khả đã rất thành công trong chốn quan trường, dần dần được thăng lên đến chức Phụ Chính Đại Thần trong triều đình Huế. Người vợ lớn cụ Khả mất sớm, bà cụ Khả là người vợ sau sinh cho ông chín người con, trong đó có bảy trai. Cụ Khả đã khẳng khái phản đối thực dân Pháp bắt vua Thành Thái đi đày ở đảo Reunion, sau sự thất bại của cuộc binh biến Thành Mang Cá Huế năm 1885, và đã cởi áo từ quan. Để ngợi ca hành động trung quân ấy, trong dân gian truyền tụng câu vè Đày Vua Không Khả, Đào Mả Không Bài. Thượng Thư Bộ Lại, ông Nguyễn Hữu Bài, bạn đồng liêu thân thiết với cụ Khả và gia đình nhà Ngô cũng đã đi vào lịch sử với hành động phản kháng thực dân Pháp hỗn láo muốn xúc phạm đến lăng tẫm nhà Nguyễn.
Lớn lên trong một gia đình thuần thành, ngoan đạo dựa trên nền tảng đức tin tuyệt đối cùng hạnh bác ái vị tha, được cụ thân sinh hun túc cho một nền học vấn dựïa trên những nguyên tắc sĩ khí của Khổng giáo, Tam Cương, Ngũ Thường, Trung Quân và Ái Quốc, cậu bé Ngô Đình Diệm đã sớm tỏ ra là một nhân vật lạ thường so với những đứa trẻ cùng hạng tuổi. Trong lúc bọn trẻ tụ tập chơi đùa ngoài đường phố, thì cậu bé Diệm chỉ mải mê với sách vở, bởi cậu muốn khám phá thế giới kỳ diệu của văn chương, triết học và tôn giáo. Tuy sinh trưởng trong một gia đình quyền quý, nhưng người trai trẻ Ngô Đình Diệm luôn yêu mến giới cần lao chân lấm tay bùn. Có nhiều dịp gần gũi với lớp người này, trong đầu cậu bé đã hình thành một khái niệm về nỗi khỗ của giới cần lao và cái nhục của những người mất nước :Làm sao nâng đỡ họ, tạo cho họ một đời sống xứng đáng, tự do hơn. Đó là cái nền tảng thúc đẩy cậu bé Diệm trở thành một con người dấn thân làm cách mạng tranh đấu giành độc lập cho xứ sở, kiến tạo một xã hội thịnh vượng cho dân tộc của cậu.
Đến tuổi đi học, cậu Diệm được cụ Khả cho vào Trường Quốc Học Huế. Trong thời gian này, cậu học trò nhỏ ấy có dịp quen biết với một ngươi học trò lớn hơn cậu đến mười tuổi, là cậu Nguyễn Sinh Cung, sau này đã đổi tên thành Hồ Chí Minh. Định mệnh đã khiến xui hai đối thủ chính trị gặp gỡ sớm, người này biết rõ cá tính người kia và cùng kính trọng lẫn nhau, dẫu quan niệm và phương cách đấu tranh khác biệt. Là một con người ngỗ ngáo, quỉ quyệt và hung tợn, Hồ đã từng giết anh cả ông Diệm là Ngô Đình Khôi, sát hại Huỳnh Giáo Chủ của Phật Giáo Hòa Hảo, nhiều chí sĩ khác như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, điềm chỉ cụ Phan Bội Châu cho Pháp bắt. Nhưng khi ông Diệm bị quân Việt Minh bắt giao nộp cho Hồ trong năm 1946, thì Hồ đã không dám sát hại ông, chỉ giam lỏng. Thật may mắn, ông Diệm đã tìm cách trốn thoát được. Hồ Chí Minh không làm gì được ông Diệm, vì hắn vừa mới ký xong Hiệp Định Sơ Bộ ngày 6.3.1946, trong đó có điều khoản bảo vệ người quốc gia do phía Pháp đưa ra. Chẳng những thế mà vài thập niên sau, nhận thấy mình thua kém xa người bạn trường cũ về đạo đức, tác phong, cuộc sống thánh thiện không chút tì vết, Hồ đã viết sách “Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện” ca ngợi nâng bi lấy bản thân với bút hiệu Trần Dân Tiên, cho bọn văn nô đàn em thổi phồng Hồ lên ngang tầm với ông Diệm về mọi mặt. Ông Diệm sống cuộc đời độc thân, thì Hồ cũng xê li ba te (celibataire, không có vợ) hách xì xằng như ai. Ông Diệm hút thuốc Bastos, thì Hồ cũng ti toe hút thuốc thơm đầu lọc, có lẽ hút thuốc lá đen khét quá chịu không thấu. Cụ Diệm sống trong một căn phòng nhỏ đơn sơ, thì Hồ cũng cho thợ mộc cất cho Hồ một căn nhà toàn gỗ quý chở từ miền rừng thượng du về, chứ không chịu ở trong dinh Toàn Quyền cũ.
Năm 15 tuổi cậu Diệm có ý định theo ngành linh mục, nhưng ông anh là Ngô Đình Thục đã khuyên ngăn cậu, rằng cậu không thích hợp với công việc này, ông nhìn thấy trước một cái gì đó lớn lao cao cả hơn ngoài trần thế đang chờ đợi cậu em. Con người thích hợp với việc đạo, chăn dắt con chiên chính là ông Thục, chứ không ai khác trong gia đình. Cậu Diệm nghe lời anh, nhưng thề hiến dâng linh hồn cho Chúa Trời, bằng cách nguyện sống đời độc thân vĩnh viễn. Năm 16 tuổi cậu Diệm tốt nghiệp Cao Đẳng Tiểu Học (tương đương bằng Trung Hoc Đệ Nhất Cấp) và trúng tuyển vào Trường Hậu Bổ Quốc Gia Huế (tương tự Cao Đẳng Quốc Gia Hành Chánh sau này). Khi nghe tin chàng thanh niên Ngô Đình Diệm đang học trong trường nhà nước, Hồ ở Pháp xốn xang sốt ruột quá, bèn gởi đơn xin triều đình Pháp cho Hồ vào trường Thuộc Địa Pháp, nhưng không được chấp thuận. Người Pháp đã bỏ lỡ một cơ hội đào tạo một loại hàng thần mẫn cán như Hoàng Cao Khải, Trương Quang Ngọc, Huỳnh Công Tấn, lẽ ra đã có thể tránh được trận Điện Biên Phủ năm 1954, nếu Hồ đã nghiễm nhiên trở thành công bộc cúc cung phục vụ quyền lợi mẫu quốc Pháp.
Nhưng với chàng thanh niên trẻ Ngô Đình Diệm thì không, người không đời nào chịu lòn cúi thực dân Pháp, dù cho chúng có đem danh lợi và quyền lực làm mồi nhữ. Sau khi ra trường, chỉ mới hai mươi tuổi, chàng đã được bổ làm Tri Huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, thăng Tri Phủ năm 1932, rồi Tuần Vũ Bình Thuận. Người Pháp bắt đầu chú ý đến cái tên Ngô Đình Diệm, khi trong năm 1929, ông đã phá tan được một âm mưu khởi loạn của cộng sản. Năm 1933, chỉ mới có 32 tuổi, ông Diệm đã được vua Bảo Đại (1925 – 1945) tín nhiệm cất nhắc lên làm Thượng Thư Bộ Lại, một chức vụ tương đương Thủ Tướng sau này, kiêm Chủ Tịch Hội Đồng Thanh Tra, đặc cách toàn quyền thanh trừng bọn tham quan ô lại nhũng nhiễu dân chúng. Với mối liên hệ này, hai mươi năm sau, trong cương vị Quốc Trưởng, ông Bảo Đại vẫn tín nhiệm ông Diệm trong chức vụ Thủ Tướng của một nước Việt Nam độc lập sau Hiệp Định Geneva (tiếng Pháp là Genève) ký hiệu lực ngày 20.7.1954. Đến đây, với chức Thượng Thư Bộ Lại, nếu ở vị trí những con người khác thì đã lên đến tột đỉnh công danh rồi, nhưng cái bả vinh hoa phù phiếm ấy không làm cho người xao nhãng một chút nào cái nhục vong quốc. Người lấy chức vụ của mình làm phương tiện cho công cuộc cách mạng. Với dân, vị thượng thư trẻ luôn luôn đi sát họ, tìm hiểu để cảm thông nguyện vọng và nỗi cơ khổ của từng lớp người để tìm biện pháp che chở và đem lại quyền lợi cho họ. Bởi thế, người dân Bình Thuận đã dựng bia kỷ niệm để tri ân công đức vị Tuần Vũ họ Ngô, như đã tôn thờ các vị thần hay những anh hùng cứu quốc khác.
Với thực dân Pháp, trườc chính sách ngu dân của chúng, vị thượng thư trẻ tích cực đề nghị nhiều cải tổ như tổ chức Viện Dân Biểu, để người hiền tài trong quần chúng có thể tham gia vào chính quyền, lập hiến pháp để mở đường giải thoát đất nước, yêu cầu nhà nước Pháp giảm sưu thuế. Dĩ nhiên những đề nghị táo bạo ấy đều bị người Pháp gạt bỏ. Nhận thấy người Pháp không thực tâm trao trả độc lập cho người Việt Nam, vua Bảo Đại cô đơn và bất lực không xoay chuyển được tình thế, ông Diệm cởi áo từ quan, như là một hình thức phản đối và cảnh cáo người Pháp biết rằng, một nhà nho nặng lòng với quốc gia như ông, không bao giờ có thể chịu nhục vào lòn ra cúi người Pháp. Ra đi không có nghĩa là bỏ cuộc, mà có một ngày ông sẽ trở lại trong tư thế đối đầu trực tiếp với người Pháp.
Nuôi chí phục quốc đánh đuổi người Pháp, trở về Huế, người chí sĩ trẻ tuổi ấy sống một cuộc đời thanh bạch. Ông luôn tìm mọi cơ hội tiếp xúc với những nhà chí sĩ yêu nước khác như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, cụ Phan Bội Châu,... để trao đổi chính kiến và cùng tìm một con đường ngắn nhất giải phóng đất nước. Nhận thấy ông Diệm là một con người cách mạng nguy hiểm, là kẻ thù lợi hại, người Pháp từ năm 1944 đã có những kế hoạch bắt giữ ông. Toàn quyền Decoux lệnh cho mật thám vây bắt ông Diệm, cuộc săn đuổi ráo riết diễn ra trên những vùng đất từ Thanh Hóa, Nghệ An kéo dài vào đến Quảng Nam, Quảng Ngãi. Có điều trớ trêu là, ông Diệm không rơi vào tay quân Pháp mà lại sa vào nhà tù của Việt Minh tháng 2.1946. Ông được đưa đến gặp Hồ Chí Minh, lúc này đã là chủ tịch kháng chiến. Hồ ngọt mật khuyến dụ nhà chí sĩ tham gia chính quyền và nhận chức Bộ Trưởng Nội Vụ, đồng thời chìa bản văn Hiệp Định Sơ Bộ dự định ký với triều đình Pháp để hợp thức hóa cho quân Pháp trở lại Đông Dương. Dĩ nhiên ông Diệm đủ tài ba và thông minh để không lọt vào cái bẫy của Hồ. Hồ chỉ muốn lợi dụng uy tín của ông Diệm để cùng chia sẻ trách nhiệm trước lịch sử sau này, về cái tội rước Pháp trở lại Việt Nam. Mối thù giết người anh cả vẫn còn canh cánh bên lòng, ông Diệm đã từng thề rằng trong cuộc đời mình, ông không bao giờ tha thứ và hợp tác với hai kẻ thù : cộng sản và thực dân Pháp. Năm 1945, Việt Minh đã chôn sống quan tuần phủ Quảng Ngãi Ngô Đình Khôi và người con trai của ông, vì cái “tội” tuyên bố chống cộng đến kỳ cùng.
Chiến tranh Việt – Pháp lan rộng, trong toan tính lợi dụng lực lượng người quốc gia làm vây cánh đánh Việt Minh, Cao Ủy Pháp D’Argenlieu một mặt hứa... cụi với vua Bảo Đại sẽ trao trả độc lập cho Việt Nam, một mặt tìm cách tiếp xúc với ông Ngô Đình Diệm, khẩn khoản mời ông nhận lập chính phủ, nhưng người đã thẳng thắn bác bỏ, vì nhận ra sự giả dối và đểu cáng của Pháp. Người ta đã đếm ra được rằng, từ 1946 đến 1954, người Pháp đã hứa và trao trả độc đập giả vờ cho người Việt Nam không dưới, trời đất, hai chục lần. Mùa thu năm 1949, nhà chí sĩ họ Ngô quyết định ra đi thật xa, xuất dương đến những vùng đất khác của thế giới để quan sát sinh hoạt chính trị ở những nơi đó, đồng thời tìm mọi cơ hội tỏ bày nguyện vọng tự do và độc lập thật sự của dân tộc Việt Nam. Ông đã lần lượt đặt chân đến những nước Phi Luật Tân, Nhật, Hoa Kỳ, Canada, Bỉ, Thụy Sĩ,... Nhà chí sĩ đã ngụ cư ở Hoa Kỳ trong khoảng thời gian 3 năm tại tu viện Marykholl, Lakewood, tiểu bang New Jersey. Trong thời gian khói lửa ngút trời ở Việt Nam, người Mỹ đã giúp người Pháp đánh Việt Minh, song song với việc tìm kiếm một người quốc gia chân chính, chống cộng, có khả năng lãnh đạo và đem đến sự ổn định cho nước Việt Nam độc lập.
Ông Diệm thường được nhớ đến như là một chí sĩ, một tổng thống xuất sắc, một nhà nho đầy hào khí, nhưng có một khía cạnh văn chương độc đáo của ông mà hiếm người còn nhớ. Thời đó, nhiều nhà nho Việt Nam làm cách mạng chống Pháp như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đều có để lại cho đời sau những bài thơ biểu lộ ý chí đấu tranh phục quốc, chí sĩ Ngô Đình Diệm cũng có lúc cảm khái sáng tác một bài thơ dạng khẩu khí như sau trong thời gian bước chân ông ghi dấu trên những nẽo đường thế giới :
Nỗi lòng
Gươm đàn nửa gánh quẩy sang sông
Hỏi bến : thuyền không lái cũng không !
Xe muối nặng nề thân vó Ký
Đường mây rộng rãi tiếc chim Hồng
Vá trời lấp biển người đâu tá ?
Bán lợi mua danh chợ vẫn đông !
Lần lữa nắng mưa theo cuộc thế
Cắm sào đợi khách thuở nào trong ?
Ngô Đình Diệm, 1953
Bài thơ biểu lộ tâm trạng của một người anh hùng đang bôn ba tìm con đường giải phóng dân tộc, chí cả là gươm, thao lược là đàn, con sông rộng ngăn cách là cuộc đấu tranh gian khổ. Trong lúc đất nước ngửa nghiêng, mà người anh hùng ấy vẫn còn bị chôn vùi trong bóng tối, như loài ngựa Ký chỉ được sử dụng để kéo xe muối, thay vì sãi vó tung hoành bốn phương, như loài chim Hồng Hộc có đôi cánh cứmg mạnh có thể bay vút lên cõi trời cao bao la, nhưng vẫn ngậm ngùi xếp cánh.
Chẳng mấy chốc mà tư cách đạo đức của một con chiên ngoan đạo, tác phong đĩnh đạc của một nhà nho Á Đông, ý chí kiên quyết của một nhà cách mạng và khí tượng dị thường của một con người kiệt liệt, đã được những nhân vật có thế lực nhất thời ấy ở nước Mỹ chú ý như các Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy, Mike Mansfield, Lyndon Johnson, Hubert Humphrey, giáo sư chính trị học Wesley Fishel, Hồng Y Richard Spellman, chủ tịch tối cao pháp viện William Douglas. Những cái tên này rồi đây sẽ là một cái hạt nhân thúc đẩy việc ủng hộ chí sĩ Ngô Đình Diệm về nước lèo lái Việt Nam và đồng bào ông. Đến như Charles Degaulle, con người từng bôn ba xứ ngưới tìm cách phục quốc như ông Diệm, dù ở tư thế đối đầu chính kiến với ông, cũng đã thành thật ca ngợi ông Diệm là một Winston Churchill của Á Đông.
Người Mỹ nhận thấy đã đến lúc họ nên có một vai trò tích cực tại vùng Đông Nam Á để thay thế một nước Pháp đã tàn lụi dần trong cuộc chiến tranh Đông Dương và ở những thuộc địa Trung Đông, Phi châu, nên họ chẳng còn thiết tha đến việc giúp người Pháp đạt được chiến thắng ở Điện Biện Phủ. Người Pháp phải ra đi để nhường sân khấu chính trị lại cho người Mỹ. Không nhận được viện trợ đầy đủ của Hoa Kỳ, quân Pháp đành cam chiến bại tại chiến trường này, đánh dấu chấm hết một thế kỷ đô hộ Việt Nam, bằng Hiệp Định Đình Chiến Geneva có hiệu lực từ ngày 20.7.1954, trong đó quy định những điều khoản quan trọng:
1./ Nước Việt Nam tạm thời phân đôi ở vĩ tuyến thứ 17, lấy sông Bến Hải làm ranh giới.
2./ Trong năm 1956 sẽ tổ chức cuộc tổng tuyển cử tự do giữa hai miền dưới sự giám sát của quốc tế.
3./ Trong vòng 300 ngày, dân chúng và quân đội hai miền Bắc – Nam được tự do chọn lựa vùng đất sinh sống.
Trong bối cảnh cuộc chiến tranh cộng sản và Pháp đang đi dần đến giai đoạn quyết định, vua Bảo Đại được sự hứa hẹn của người Pháp về một nền độc lập thật sự cho Việt Nam, với điều kiện vẫn phải ở trong Khối Liên Hiệp Pháp, đã nghĩ đến việc mời một người bạn cũ có đầy đủ mọi tiêu chuẩn của một nhà lãnh đạo tài ba ra lập chính phủ, là ông Ngô Đình Diệm. Người Pháp không mặn mà với ý tưởng ấy, nhưng buộc phải nhượng bộ vua Bảo Đại, vì người Mỹ đã tỏ rõ ý định ủng hộ ông Diệm. Trong thời điểm hỗn mang u ám đó, dân chúng cũng không còn tin tưởng vào một nhân vật nào nữa, khi mà nhiều chính phủ thân Pháp, thân Nhật đều ngã đổ nhanh chóng, từ học giả Trần Trọng Kim đến Nguyễn Văn Xuân. Với lòng yêu nước và trái tim quả cảm, chí sĩ Ngô Đình Diệm bằng lòng đứng ra lèo lái con thuyền quốc gia. Giờ đây con ngựa Ký đã có thể cất vó, con chim Hồng đã có thể tung cánh làm chuyện lấp biển vá trời. Ngày 7.7.1954, sau khi từ nước Mỹ trở về Việt Nam, với chức vụ Thủ Tướng do vua Bảo Đại bổ nhiệm, ông Diệm chính thức trình diện trước quốc dân đồng bào bản thân ông và thành phần nội các gồm 15 vị bộ trưởng. Công việc đầu tiên của người thủ tướng trẻ là lệnh cho Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ không đặt viết ký bất kỳ văn kiện nào trong nghị hội Geneva, để không bị ràng buộc bất cứ điều gì với cộng sản và Pháp. Tuy nhiên sau khi Hiệp Định đã được ký rồi, thì chính phủ Ngô Đình Diệm, dưới sức ép của Hoa Kỳ, đã công nhận một số điều khoản, như cho phép bộ đội Việt Minh ở Miền Nam được tập kết ra Bắc và nhận vào Nam vô giới hạn đồng bào Miền Bắc muốn sinh sống tại miền tự do. Kết quả, có 800 ngàn người dân Miền Bắc đã được tàu biển và máy bay của Pháp, Mỹ vận chuyển vào Nam cùng với 300 ngàn binh sĩ và gia đình thuộc Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.
Chỉ mới nhận nhiệm sở có vỏn vẹn 13 ngày, Thủ Tướng Diệm cùng các cộng sự của ông đã xăn tay áo bắt tay ngay vào việc tổ chức tiếp đón và định cư đồng bào Miền Bắc, với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ. Đến đây thì người Pháp và người Mỹ mới có thể nhận thức được tài năng của ông Diệm và anh em của ông. Cùng với 15 cộng sự viên, ngân khố trống rỗng, nhân lực thiếu thốn trầm trọng, quân đội thất tán, lòng người còn ngơ ngác hoang mang, không hiểu bằng cách nào mà Thủ Tướng Diệm có thể tổ chức được một guồng máy khổng lồ và hữu hiệu đón nhận trong vòng 10 tháng một khối lượng người đông đảo tới một triệu. Chính quyền đã phân phối thuốc men thực phẩm, phân định khu vực cư trú tạm thời hoặc vĩnh viễn cho đồng bào di cư, cùng vô số những công tác không tên khác. Bộ Tổng Tham Mưu điều động 300 ngàn binh sĩ trấn đóng khắp các quân khu bảo vệ làng thôn, song song với việc gấp rút tiếp thu những vùng Việt Minh đã rút đi về Bắc, v.v.. Nào phải có những công việc đón nhận và định cư ấy đâu, với đồng bào Miền Nam, chính phủ ông Diệm soạn thảo những kế hoạch phục hồi, tái thiết, phát triễn kỹ nghệ, chấn hưng nông nghiệp, khuyến khích và tài trợ đồng bào Miền Trung vào Nam khẩn hoang lập ấp, đẩy mạnh công tác cưỡng bách giáo dục cấp tiểu học và trung học trong hạng tuổi từ 6 đến 14, xây dựng thêm đại học tại Sài gòn và Huế, hỗ trợ đại học Chính Trị Kinh Doanh tại Đà Lạt. Xuất thân từ Trường Hành Chánh, Thủ Tướng Diệm luôn mang mển trong lòng hoài bão gầy dựng một thế hệ viên chức tài năng, mẫn cán và liêm khiết như ông, nên ông đã đích thân thúc đẩy việc thành lập Trường Quốc Gia Hành Chánh để cung cấp cán bộ lãnh đạo đến tận cấp quận. Đất nước vẫn còn đang trong hiểm họa của một cuộc chiến tranh chống cộng tiềm tàng, ông Diệm đã nghĩ đến việc gởi các sinh viên Quốc Gia Hành Chánh theo học những khóa quân sự tại các quân trường lớn, để họ trở thành những hào kiệt văn võ song toàn.
Văn ôn thì cũng phải có võ luyện. Để có một quân đội mạnh và nhiều cấp chỉ huy giỏi giữ gìn bờ cõi, trấn thủ biên cương, bình định tặc khấu, tiểu trừ thổ phỉ, sau khi đã được quốc dân bầu làm tổng thống ngày 23.10.1956, ông Diệm đã lên Đà Lạt đặt viên đá xây dựng Trường Võ Bị Quốc Gia, với kỳ vọng đào tạo cho đất nước những cấp chỉ huy và lãnh đạo trẻ đầy tài năng, mà có thể cùng quân đội đương đầu với một cuộc xâm lấn từ phương Bắc. Ông Diệm cũng chú trọng đến việc phát triễn Trường Bộ Binh Thủ Đức, Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế, các Trường Hải Quân, Không Quân, để trong một thời gian ngắn, cái xương sống vững chắc của toàn quân đội Việt Nam Cộng Hòa đuợc hình thành. Từ tận đáy lòng, Tổng Thống Diệm luôn tri ân những người lính đã hy sinh trên chiến trường, hay còn đang anh dũng chiến đấu dưới Lá Cờ Vàng Đại Nghĩa, ông đã cho thành lập Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu nuôi nấng và giáo dục con em binh sĩ quốc gia được thành người hữu dụng cho xã hội và cán bộ tài năng cho quân đội. Hoa Kỳ không có ngân khoản viện trợ cho Trường Thiếu Sinh Quân, chính phủ đã trích từ ngân khoản quân đội tài trợ cho hoạt động của trường. Đi xa hơn nữa, luôn luôn khoắc khoải ưu tư số phận của những con côi và góa phụ của tử sĩ , Tổng Thống Diệm suy nghĩ tìm cách nâng đỡ tinh thần và vật chất cho họ, bằng cách cho xây cất hầu hết trên toàn quốc những Trường Quốc Gia Nghĩa Tử, con em chiến sĩ trận vong được vào học miễn phí, các học sinh xuất sắc được cấp học bỗng du học ngoại quốc.
Với nhân lực bổ sung từ Miền Bắc gần một triệu người và với dân số 14 triiệu, trong đó 90% sống bằng nông nghiệp, chính phủ Ngô Đình Diệm đã có chương trình cấp phát ruộng đất cho nông dân, nên trong vòng vài năm sản lượng lúa đã lên đến nhiều chục triệu tấn. Sau một thập niên chiến tranh từ 1945 - 1955, nước Việt Nam Cộng Hòa dưới thời chính phủ ông Diệm đã có thể bắt đầu xuất cảng nhiều triệu tấn gạo để lấy ngoại tệ. Công cuộc phát triễn kỹ nghệ, thương mại cũng được phát triễn mạnh mẽ, những mặt hàng nội hóa đã dần dần có thể cung ứng đủ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước. Người Việt Nam không có tư tưởng chuộng hàng ngoại quốc, vì phẩm chất hàng nội địa rất cao. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, chỉ trong vài năm ngắn ngủi, Tổng Thống Diệm đã đưa Việt Nam lên hàng cường quốc Đông Nam Á, trước sự ngạc nhiên cùng cực của người Mỹ và sự kính nể của các nước Á châu, nhất là những lân bang như Lào, Miên, Thái, Phi. Nước Phi có giải thưởng Tổng Thống Magsaysay dành trao tặng cho những vị nguyên thủ quốc gia tài năng của châu Á, năm 1960 đã tặng giải này cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm của Việt Nam Cộng Hòa, bởi những thành tích sáng chói mà ông cùng chính phủ của ông đã tạo được. Tổng Thống Diệm đã làm một nghĩa cử cao đẹp, khi ông hiến tặng số tiền thưởng 15 ngàn mỹ kim cho ngân quỹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma cứu giúp người Tây Tạng vượt biên sang cư ngụ tại Ấn Độ. Người ta vẫn thường nhầm lẫn cho rằng Tổng Thống Diệm bênh vực và giành nhiều ưu tiên cho Công giáo Việt Nam, nhưng trong thực tế thì người đã từng mạnh mẽ bác bỏ nhiều yêu sách quá đáng từ giới này, một số linh mục đã rất buồn phiền thất vọng.
Tổng Thống Mỹ Eisenhower vốn không mấy tin tưởng và mặn mà với Tổng Thống Diệm, nhưng trước những thành quả hiển nhiên đó, ông đã phải cân nhắc lại cách suy nghĩ của mình. Chỉ với không quá 400 triệu mỹ kim viện trợ kinh tế hàng năm, một con số khiêm tốn nếu so với hàng tỉ mỹ kim của chương trình Marshall tái thiết Đức và Nhật, hai nước này phải cần đến 20 năm để vươn lên, thì thành quả công việc của chính phủ Ngô Đình Diệm trong chín năm (1954 – 1963) phải nói là kỳ diệu, nhưng rất ít được các sử gia Tây phương chú ý. Vừa phải đương đầu với cuộc xâm lăng của đại khối cộng sản quốc tế do Nga, Hoa dẫn đầu với đạo quân tiền phong là binh đội Bắc Việt, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa vừa phải cố gắng phát triễn nền kinh tế đất nước. Trong lúc Việt Nam Cộng Hòa nỗ lực ngăn chống đạo âm binh cộng sản, thì những nước láng giềng như Thái, Mã Lai, Phi, Nam Dương, Đại Hàn, Nhật Bản được thảnh thơi nhàn nhã tập trung tài nguyên, vật lực kiến tạo đất nước trở thành những con rồng, con hổ Á châu. Đặc biệt, Nhật Bản là nước được hưởng lợi rất nhiều và phất lên như diều gặp gió từ cuộc chiến tranh Việt Nam hai mươi năm, nhưng là nước nhận người Việt tị nạn ít nhất. Hành động hiếp đáp, giết chóc, hãm hiếp, xua đuổi của quân đội và viên chức các nước Thái, Mã, Phi, Nam Dương nhắm vào người Việt tị nạn là hành động bội bạc với dân tộc nước ân nhân của họ. Chính dân tộc những nước ấy phải tri ân dân tộc Việt Nam đã đổ máu xương làm bức tường thành ngăn chống làn sóng cộng sản.
Ngày nay, trong thập niên đầu của thế kỷ thứ 21, không còn bức tường thép Việt Nam Cộng Hòa nữa, các nước Đông Nam Á đã xun xoe, bợ đỡ cộng sản Việt Nam để mong chúng cho được yên thân. Các chính quyền Mã Lai, Nam Dương khiếp sợ Việt cộng, đã cho đập bỏ những bia tưởng niệm thuyền nhân trên những đảo xưa. Nhưng thí dụ rõ nét nhất là việc tư pháp Thái Lan trong tháng 9.2006 vừa qua, bất chấp đạo lý và công lý, đã chịu khuất nhục, khom lưng tuân lệnh cộng sản Hà Nội cho dẫn độ anh hùng Lý Tống về Việt Nam thụ án. Không còn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, trước sức ép kinh khủng của Trung Cộng, cái gọi là Quân Đội Nhân Dân của Hà Nội đã run sợ mất mật, chịu cúi đầu quy phục làm bọn hàng thần lơ láo cho kẻ thù Bắc phương. Mao Trạch Đông, Chủ Tịch Trung Cộng bấy giờ có lần tìm cách liên lạc với Việt Nam Cộng Hòa đề nghị hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ, nhưng Tổng Thống Diệm đã thẳng thắn từ chối.
Có ít nhất ba nhân vật quan trọng Hoa Kỳ đóng góp vào sự hưng thịnh của nước Việt Nam Cộng Hòa non trẻ trong những năm đầu thập niên 1950. Thứ nhất, Trung Tướng O’ Daniel, Tư Lệnh Phái Bộ Quân Viện Hoa Kỳ tại Việt Nam MAAG (Military Assisistance Advisory Group) đặc trách giúp đỡ xây dựng Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa hùng mạnh. Những người kế nhiệm Tướng O’Daniel theo thứ tự là Harkins, Westmoreland, Abrams và Weyand. Thứ hai, Trung Tướng Lawton Collins, phái viên đặc biệt của Hoa Kỳ tại Việt Nam, đặc trách quan sát và thẫm định tình hình Việt Nam. Thứ ba, Đại Tá Không Quân Edward Lansdale, chỉ huy trưởng phân bộ CIA (Central Intelligence Agency) tại Việt Nam, cùng với một cộng sự viên rất đắc lực là Trung Tá Lucien Conein, một chuyên viên CIA chuyên trách tổ chức những lực lượng bí mật nhảy toán phá hoại Miền Bắc, viễn thám sang Lào. Về sau, Conein đã là nhân vật tiếp nhận kế hoạch đảo chánh Tổng Thống Diệm của nhóm sĩ quan VNCH, nên còn có thêm biệt danh “Chuyên viên đảo chánh”. Trong số những yếu nhân này, thì Lansdale tỏ ra là con người nhiệt tình và có rất nhiều thiện cảm vơi ông Diệm hơn cả. Giữa hai người đã hình thành một tình bạn rất sâu sắc, mà ông Lansdale đã có nhiều dịp thể hiện, bằng cách giúp ông Diệm vượt qua được nhiều cơn sóng gió.
Trung Tướng Collins từng có mối quan hệ thân thiết với tướng Paul Ely, Cao Ủy Pháp tại Việt Nam, trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Ely dĩ nhiên không thích ông Diệm, vì ông Diệm đang tìm cách tống khứ 150 ngàn quân Pháp ra khỏi Miền Nam sau Hiệp Định Geneve 1954, trong khi Pháp muốn nấn ná ở càng lâu càng tốt, nên đã lời ra tiếng vào nói xấu ông Diệm để lung lạc niềm tin của Collins. Collins là một con người hách dịch, cao ngạo. Ông ta tưởng rằng hào quang chiến thắng của Mỹ ở trong thế chiến có thể đè bẹp và khuất phục được vị tổng thống của một tiểu quốc, nhưng trong rất nhiều lần, Tổng Thống Diệm đều rất cứng rắn bảo vệ chủ quyền và sự tự quyết của quốc gia. Mọi việc thảo luận giữa Collins và ông Diệm đều diễn ra trong một bầu không khí bình đẳng tối đa có thể được. Với Tổng Thống Diệm, một con người Uy Vũ Bất Năng Khuất, anh đến đây giúp tôi với tư cách là bạn, chứ không phải là ông chủ. Một nhân viên cao cấp dưới quyền Collins đã phản ảnh chính xác thái độ ngạo mạn của Collins, ông ta trả lời ông Trần Trung Dung, Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng VNCH (chức vụ bộ trưởng do Tổng Thống Diệm kiêm nhiệm), khi ông Dung đề nghị hãy để cho VNCH tự do tổ chức quân đội theo mô thức Việt Nam : “Người nào trả tiền, thì người đó quyết định”. Lansdale là một cái đệm đứng giữa dung hòa mọi khuynh hướng. Chính ông đã xác định với Tổng Thống Eisenhower, rằng Tổng Thống Diệm là con người của đại cuộc, của thời thế, ngoài ông Diệm ra, không còn có ai có khả năng lãnh đạo Việt Nam. Eisenhower đã tin và mời Tổng Thống Diệm sang thăm Hoa Kỳ với tư cách quốc khách. Tổng Thống Eisenhower đã đích thân ra tận chân cầu thang phi cơ niềm nở bắt tay Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cùng duyệt hàng rào danh dự. Tổng Thống Diệm được Quốc Hội Mỹ mời đến thuyết trình về tình hình Việt Nam. Tổng Thống Diệm đã phát biểu :”Giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có những sự khác biệt sâu sắc về chủng tộc, tập quán, khái niệm chính trị, tầm nhìn và triết lý. Tôi hy vọng rằng chúng ta có thể bắt được nhịp cầu giữa hai nền văn hóa Đông phương và Tây phương”.
Để đạt đến được đỉnh cao vinh quang ấy trong đời, Tổng Thống Diệm không phải là đã không trải qua những nỗi cay đắng của cô đơn và những biến cố cực nguy hiểm đến tính mạng, thanh danh và sự nghiệp chính trị của ông trong những năm đầu tiên trở về nước, chỉ với hai bàn tay trắng cùng một tấm lòng, giữa một trùng vây các thế lực sứ quân và thù địch. Trong thời điểm mập mờ của năm 1954, tình hình chính trị tại Miền Nam rất rối rắm, vì chính phủ của Quốc Trưởng Bảo Đại không có thực lực, chỉ dựa vào Pháp, nhưng bản thân người Pháp sau chiến bại Điện Biên Phủ và phong trào đòi độc lập ở các nước Phi châu như Algeria, Maroc, đã gây ra rất nhiều nan đề làm người Pháp lúng túng. Quân Pháp cũng không còn đầy đủ sức mạnh để kiểm soát hay khống chế nhiều thế lực nổi lên ở Miền Nam, một hình ảnh tương tự như nạn sứ quân thời cuối thế kỷ thứ 10 khi, Ngô Vương Quyền đã tạ thế. Ông Diệm về nước trong bối cảnh hỗn mang đó, ông tiếp thu dinh Thủ Tướng, được đặt tên là Dinh Gia Long, tọa lạc trên đường Gia Long, chỉ với vỏn vẹn 12 người lính bảo vệ, và chỉ có thế. Lansdale đã từng nhiều lần tự do đi vào phòng làm việc của Thủ Tướng Diệm mà chẳng có ai ngăn cản hay xét hỏi gì cả. Khi ông Diệm đã được quốc dân bầu làm tổng thống và chính thức làm việc trong Dinh Gia Long năm 1955, Lansdale bỏ công qua Phi nhờ Tổng Thống Magsaysay gởi chuyên viên quân sự là Đại Tá Arellano sang Sài Gòn giúp thành lập một tiểu đoàn phòng vệ phủ tổng thống. Tiểu đoàn này sau được nâng lên thành Liên Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, với những binh sĩ ưu tú được tuyển chọn từ những đơn vị xuất sắc của quân đội. Thành Cộng Hòa là một tòa nhà nhiều tầng khá kiên cố nằm gần Dinh Gia Long, đã được dùng làm nơi trú ngụ của sĩ quan và binh sĩ Liên Đoàn, nên mỗi lần có đảo chánh, thì quân đảo chánh phải khống chế hay triệt hạ cho được Thành Cộng Hòa.
Những vị thủ tướng tiền nhiệm, chỉ hữu danh nhưng vô thực, ít quyền lực và không có quân đội yểm trợ, ông Diệm kiên quyết không dẫm lên vết xe đỗ của họ. Nhưng bắt đầu từ cái gì và dựa vào lực lượng nào. Thật may mắn cho Thủ Tướng Diệm, hầu hết các chiến sĩ thuộc Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thời Bảo Đại di cư từ Bắc vào như Nhảy Dù, Bộ Binh, Commandos, đã tỏ lòng trung thành với tân Thủ Tướng, trong đó có nhiều chiến sĩ người thượng du như Mường, Thái, đặc biệt là Nùng. Dựa trên nền tảng đó, Thủ Tướng Diệm quyết định thanh toán các thế lực sứ quân để gom giang sơn dân tộc về một mối. Đối thủ của ông là những ai. Câu trả lời sẽ làm người đời sau sửng sốt. Rất nhiều, gần đạt con số 12 sứ quân thời ngài Đinh Bộ Lĩnh.
Thứ nhất: Thế lực mạnh nhất trong phe quốc gia đối đầu với Thủ Tướng Diệm lại chính là Quốc Trưởng Bảo Đại. Ông Bảo Đại là một người có lòng với tương lai của đất nước, nhưng khốn nỗi từ thuở nhỏ ông đã bị người Pháp nhồi nhét cho một nền giáo dục vong bản, nếp sống xa hoa, thượng lưu vương giả, nên ít nhiều gì thì tư tưởng của ông đã chịu rất nhiều ảnh hưởng của Pháp. Bảo Đại sinh năm 1913 với tên Nguyễn Vĩnh Thụy, từ lúc biết nói biết hiểu thì người Pháp đã cho vú nuôi Pháp chăm sóc và thầy dạy người Pháp giáo dục theo kiểu Pháp. Năm ông 8 tuổi, Pháp đem ông sang Paris để vị hoàng tử trẻ ấy không còn cơ hội tiếp túc với nền văn hóa truyền thống Việt Nam và ý chí phục quốc nữa, rút kinh nghiệm từ vị vua trẻ 16 tuổi Duy Tân trước đó. Hoàng đế Khải Định, cha ông, mất năm 1925, nhưng mãi đến năm 1932 Vĩnh Thụy mới được Pháp đưa về lên ngôi, lấy đế hiệu là Bảo Đại, để bảo đảm rằng vị tân vương thục sự là một người thân Pháp toàn tâm toàn ý. Trong thời gian ở Pháp, Vĩnh Thụy được người Pháp cấp cho lương bỗng hàng năm rất hậu lên đến hàng triệu đồng Đông Dương, cho tương xứng với cuộc sống xa hoa của một đế vương, dụng ý muốn làm hư hỏng vị vua trẻ.
Tuy mang nhiều tai tiếng ăn chơi, đàn đúm trong những nhà chứa, hộp đêm sang trọng, nhưng tiếng gọi tha thiết của cố hương vẫn tiềm tàng trong tận đáy tim, vua Bảo Đại đã cố gắng trong khả năng rất hạn chế của mình, làm được nhiều việc có ý nghĩa. Chính phủ của Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân dưới quyền Quốc Trưởng Bảo Đại trong năm 1946 đã chọn được bài quốc ca Tiếng Gọi Công Dân và lá quốc kỳ Vàng Ba Sọc Đỏ làm biểu tượng thiêng liêng của nước Việt Nam độc lập. Hai biểu tượng thiêng liêng này vẫn còn tồn tại mãi đến ngày nay trong lòng người dân Việt.
Quốc Trưởng Bảo Đại chọn ông Ngô Đình Diệm làm thủ tướng, nhưng vẫn e dè tài năng và quyền lực của ông Diệm sẽ lấn át ông. Nhưng khốn nỗi, Bảo Đại dành quá nhiều thời gian ngụ cư ở Pháp nhiều hơn là về Việt Nam. Chọn ông Diệm, Quốc Trưởng Bảo Đại đã đặt hai điều kiện tiên quyết : Giành lại độc lập cho nước nhà và kiến thiết Việt Nam hùng mạnh. Nếu ông Diệm không làm được hai việc đó thì hãy trả chính quyền lại cho ông. Thủ Tướng Diệm đã long trọng thề với Quốc Trưởng, ông sẽ làm được. Chuyện này đã do chính ông Bảo Đại kể lại trong cuốn hồi ký Dragon d’Annam (Con Rồng Nước Nam). Ông Diệm càng đạt được nhiều thành quả tốt đẹp thì Bảo Đại càng cảm thấy mình kém thế, vì vậy ông đã ủng hộ Trung Tướng Nguyễn Duy Hinh, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia và nhóm Bình Xuyên, nhiều lần tìm cách lật đổ ông Diệm. Bởi ông Bảo Đại không còn giúp ích được gì cho nước nhà, nhân có một chỉ dụ của ông ngày 19.4.1956 từ bên Cannes lệnh cho Thủ Tướng Diệm phải sang trình diện, với ý định sẽ bãi chức Thủ Tướng của ông.
Một cuộc Trưng Cầu Dân Ý đã được tổ chức trong ngày 23.10.1956 do Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng gồm nhiều nhân sĩ của các đảng phái và giáo phái ủng hộ Thủ Tướng Diệm đề xuất. Bản thân Thủ Tướng cũng khôn glường được sự tiến triễn bất ngờ của tình thế, ông đã vô cùng sửng ost khi buổi chiều ngay 20.4.1956, sau 7 tiếng đồn ghồ thảo luận căng thẳng, Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng đã mời ông Diệm đến thông báo quyết định truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại. Là một sĩ phu nặng lòng trung quân và ái quốc, một con người từng nghiềm ngẫm nghĩa lý Tứ Thư, Ngũ Kinh, với những tấm gương trung liệt trong đó, Thủ Tướng Diệm chưa bao giờ dám có ý nghĩ phạm thượng với vua Bảo Đại. Nhưn ghội đồng biết rõ rằng, nếu Thủ Tướng đi sang Pháp trình diện ông Bảo Đại, thì chuyến đi đó lành ít dữ nhiều và có thể vĩnh viễn biệt xứ. Hơn 5 triệu người dân đi bầu. Kết quả, có đến 98,2% số phiếu ủng hộ ông Diệm trong cương vị Tổng Thống và đồng ý cho Quốc Trưởng Bảo Đại giải nhiệm. Phía Hoa Kỳ không được hài lòng lắm với tỉ lệ quá cao như thế, nó có vẻ không thực, hy vọng khoảng 70% là lý tưởng nhất. Ngày 26.10.1955, ông Diệm tuyên thệ nhậm chức tổng thống, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Cộng Hòa, cải danh Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thành Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời thông báo trước quốc dân sẽ tổ chức bầu cử quốc hội vào đầu năm 1956. Người dân thời ấy và các thế hệ sau nợ Tổng Thống Diệm danh xưng đầy hãnh diện : Được làm công dân của nước Việt Nam Cộng Hòa. Những người lính chiến đấu dưới Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ nợ vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao danh xưng lắm kiêu dũng : Người Lính Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 26.10.1956, Quốc Hội đầu tiên của Việt Nam thông qua Bản Hiến Pháp, Tổng Thống Ngô Đình Diệm long trọng ban hành với lời xác tín : Sau Hiến Pháp còn có tôi ! Ngụ ý người kiên quyết bảo vệ Hiến Pháp và luật pháp quốc gia. Nền dân chủ sơ khởi của nước cộng hòa non trẻ bắt đầu từ đấy.
Thứ hai : Trung Tướng Nguyễn Duy Hinh, nguyên là Trung Tá Không Quân trong quân đội Pháp, cưới vợ Pháp và nhập tịch Pháp, cha ông là cựu Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm rất thân Pháp. Quốc Trưởng Bảo Đại đã cất nhắc Trung Tá Hinh lên Thiếu Tướng, giữ chức vụ tư lệnh Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, với dụng ý củng cố vị thế của ông. Một thời gian sau, ông Hinh được thăng Trung Tướng. Trong thời điểm chân ướt chân ráo mới về đến quê hương, ông Diệm buộc phải chấp nhận ông Hinh. Người Mỹ càng hậu thuẫn ông Diệm bao nhiêu, thì người Pháp càng chơi trò ném đá dấu tay phá thối Thủ Tướng Diệm, bằng cách xúi dục Trung Tướng Hinh làm phản. Ông Hinh nhiều lần cho xe thiết giáp và bộ binh đến bao vây dinh Thủ Tướng để thị uy, nhưng ông Diệm có Tướng Collins và Đại Tá Lansdale bảo vệ. Khi quân đội trung thành với ông Diệm đem quân đến bao vây trả đũa, thì Bộ Tư Lệnh Pháp chậm trễ việc cung cấp tiếp liệu, xăng nhớt di chuyển, thậm chí thiết lập nhiều nút chận gây khó khăn cho quân đội. Có lần Lansdale đã mời nhiều sĩ quan thân ông Hinh sang Manila, thủ đô Phi Luật Tân du hí, để tách họ ra khỏi ông Hinh. Đồng thời, chính phủ Hoa Kỳ trong tháng 10.1954 gửi công hàm báo cho người Pháp biết, Hoa Kỳ sẽ viện trợ trực tiếp cho Việt Nam không qua trung gian Pháp nữa. Người Pháp yếu thế dần, không còn hung hăng hỗ trợ ông Hinh tạo phản nữa.
Tháng 11.1954, dưới sức ép của người Mỹ lên người Pháp, Quốc Trưởng Bảo Đại ra chỉ dụ bãi chức Trung Tướng Hinh, ông Diệm bổ nhiệm Thiếu Tướng Lê Văn Tỵ thay thế, sau này ông được thăng lên đến Đại Tướng. Tướng Hinh ngậm ngùi lên phi cơ về Pháp. Thiếu Tướng Tỵ bắt tay ngay vào việc nhận bàn giao quyền chỉ huy hoàn toàn quân đội Việt Nam từ người Pháp, hiệu lực từ ngày 11.2.1955. Quân Đội Quốc gia Việt Nam rẽ sang một giai đoạn mới và được cải danh thành Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa sau ngày 26.10.1955.
Thứ ba: Là lực lượng quân đội Pháp còn khoảng 150 ngàn người cứ chùng chình mãi không chịu hồi hương. Thủ Tướng Diệm căm giận lắm, đó là cái mối quốc nhục mà ông thề sẽ rửa trước anh linh của tiền nhân tiên liệt. Thực dân Pháp muốn có một chính phủ thân Pháp để duy trì thế lực Pháp ở Việt Nam. Pháp có nhiều nguồn lợi ở Việt Nam như các đồn điền trà, cà phê, cao su. Nhiều chủ đồn điền vẫn được chính quyền Việt Nam hai thời cộng hòa ưu đãi, không động chạm gì đến công cuộc làm ăn của họ, nhưng những ngưòi này thậm thụt đóng thuế, cung cấp tin tức cho quân cộng sản Bắc Việt và Việt cộng, dung chứa chúng trong những khu rừng cao su bạt ngàn, làm một mũi dao lúc nào cũng sẵn sàng thọc sâu vào tận trái tim nước Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng với sự thất bại của Bảo Đại, Tướng Hinh, Bảy Viễn, sư quy phục của các giáo phái trước sự kiên quyết của Thủ Tướng Diệm, lại thêm ngân khoản tài trợ của Hoa Kỳ đã cắt đứt, người Pháp thấy không còn hy vọng gì, những người lính Pháp cuối cùng đã lục tục xuống tàu về nước ngày 28.4.1956, đánh dấu chấm hết một thế kỷ thống trị của người Pháp. Tổng Thống Ngô Đình Diệm, sau mấy năm đấu trí đấu lược với thực dân Pháp, đã thực sự tống xuất được bọn chúng ra khỏi nước Việt Nam. Giờ đây, nước Việt Nam Cộng Hòa đã được hoàn toàn độc lập, uy thế của chính phủ ông Diệm lừng lẫy trên trường quốc tế, hầu hết các quốc gia không cộng sản, kể cả các nước Ả Rập đều chính thức công nhận Việt Nam Cộng Hòa và thiết lập quan hệ ngoại giao. Charles Degaulle, Tổng Thống Pháp rất cay cú, nhưng buộc phải thực lòng ngợi ca Tổng Thống Diệm là “Winston Churchill của Á châu”, ngụ ý con người kiệt xuất đã giành được độc lập cho đất nước.
Thứ tư: Là lực lượng Bình Xuyên của Tướng Lê Văn Viễn. Được sự đỡ đầu và trả lương ngầm của Pháp, lực lượng Bình Xuyên chiêu mộ được đến 25 ngàn thủ hạ, trong đó có 1,500 tay súng. Bình Xuyên là một tổ chức tột ác, thổ phỉ, một cái gì đó gần giống như Mafia của Ý, vì nó kinh doanh ngành cờ bạc và nhà chứa, ngang ngược không coi luật pháp quốc gia ra gì hết. Từ khởi đầu, thì lực lượng Bình Xuyên do một người anh chị tên Ba Dương lãnh đạo, đã kết hợp với các lực lượng Hòa Hảo và Cao Đài kháng chiến chống cả Pháp và Việt Minh. Ba Dương bị Tướng Nguyễn Bình của cộng sản giết chết, quyền chỉ huy rơi vào tay Lê Văn Viễn. Người Pháp khuyến dụ Bảy Viễn đem lực lượng quy thuận, đổi lại Pháp ban cấp cho Bảy Viễn bổng lộc và quyền lợi rất hậu.
Năm 1952, Bảo Đại phong cho Lê Văn Viễn, tự Bảy Viễn, cấp bậc Thiếu Tướng để làm vây cánh và có ý định sẽ đưa Bảy Viễn lên làm Thủ Tướng sau này. Nhà nước Pháp cũng ân thưởng Viễn huân chương cao quý Bắc Đẩu Bội Tinh. Tai sao ? Bảy Viễn và Bình Xuyên làm chủ nhiều cơ sở tài chánh lớn như các sòng bài Đại Thế Giới dành cho lớp thượng lưu giàu có Pháp và Việt, như cỡ công tử Bạc Liêu và công tử Mỹ Tho chẳng hạn, sòng bài Kim Chung dành cho giới thấp hơn và giai cấp bình dân lao động. Có vô số người đã bán vợ con làm nô tì đĩ điếm, mất nhà cửa, sạt nghiệp, tự tử hay hóa điên vì hai sòng bài tội lỗi này. Chưa hết, nằm gần bên các sòng bài là các khu nhà chứa đủ mọi hạng, từ deluxe hạng sang đến hạng hèn, nổi tiếng nhất là nhà chứa Bình Khang ở Vườn Lài. Công an và binh lính Bình Xuyên kiểm soát những trục lộ huyết mạch Sài Gòn – Vũng Tàu, Sài Gòn – Rừng Sát, thu thuế các lò mổ thịt. Nguồn tài chính lớn nhất của Bảy Viễn là việc buôn bán thuốc phiện lậu chở từ vùng Tam Giác Vàng qua Lào, rồi vào Việt Nam, Bảy Viễn thầu hết. Bảy Viễn cung ứng cho ông Bảo Đại hàng tháng 500 ngàn đồng và bộ máy thống trị Pháp một số tiền lớn mỗi ngày lên đến 100 ngàn đồng, nhưng bù lại hắn cho người Hoa Macau đấu thầu và trả cho hắn mỗi ngày 400 ngàn đồng tiền Đông Dương. Dẫu sao thì cũng có it nhiều “huyền thoại” về Bảy Viễn. Có lẽ muốn hù dọa thiên hạ, bên cạnh những nhà điều chế tinh chất ma túy, Bảy Viễn cất nhiều chuồng nuôi cá sấu đến 12 con. Bên ngoài phòng ngủ của hắn có một con beo gấm dữ dằn được cột bằng một sợi dây xích dài. Trên ban công biệt thự, những con trăn gió bò lển nghển thấy mà... ghê. Chưa hết, có một con cọp mua từ xứ Siberia bên Nga hầm hừ nằm trong một cái chuồng sắt, mà khi cần thì từ bên trong ngươi ta có thể bấm nút điện cho cửa chuồng kéo lên, ô hô, thế là con cọp phóng ra ngoài, kẻ lạ đột nhập toan tính ám sát Bảy Viễn hả, tha hồ mà chạy vắt giò lên...ót nhé. Người ta đồn rằng có người trông thấy quần áo và xương người trong lồng cọp nữa, thế có ghê không chứ.
Một con người đạo đức bài phong kiến đả thực dân như Thủ Tướng Diệm đâu có thể chấp nhận một cái ung nhọt xấu xa tồn tại giữa lòng thủ đô. Biết chắc Hoa Kỳ đã cắt ngân khoản, Pháp không có tiền trả lương cho quân Bình Xuyên, Thủ Tướng Diệm quyết định đánh tiêu diệt bọn mafia thổ phỉ. Nhưng trước hết, ông cần thêm lực lượng của các giáo phái, càng nhiều càng tốt. Các Tướng Trình Minh Thế, Nguyễn Thành Phương của Cao Đài, Trần Văn Soái của Hòa Hảo đã xin quy phục chính quyền và đem về nhiều ngàn quân. Thiếu Tướng Thế được vinh thăng Trung Tướng, ông là con người tuổi trẻ tài cao, năng nổ, nhiệt thành trong chiến dịch tiêu diệt Bình Xuyên. Với sự hỗ trợ ngầm của quân Pháp, Bảy Viễn nhiều lần ngỗ ngáo đem thiết giáp và quân sĩ bao vây dinh Thủ Tướng. Nhưng một tên vô lại như hắn đâu có phải là đối thủ của một con người kiệt liệt như Ngô Đình Diệm. Hai tiểu đoàn Dù của Thiếu Tá Liên Đoàn Trưởng Đỗ Cao Trí đã vây đánh tan nát bản doanh của bọn thổ phỉ mafia nằm trên đường Trần Hưng Đạo. Quân thổ phỉ Bình Xuyên chỉ giỏi húng hiếp dân lành, nhưng lại vô cùng hèn nhát trước các chiến sĩ quốc gia, chúng đã quăng súng bỏ chạy tán loạn. Bảy Viễn cùng Lại Văn Sang, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát, tay chân thân tín nhất của hắn nhanh chân lủi trốn vào Rừng Sát phía Tây Bắc Sài Gòn, rồi từ đó được tàu Pháp ủi vào đưa về mẫu quốc.
Đại Tá Dương Văn Minh, tự Minh Cồ (Big Minh), người hùng trong chiến dịch càn quét Rừng Sát, đã tìm thấy một thùng phuy giấy bạc Đông Dương của Bình Xuyên. Minh được vời về Sài Gòn cho vinh thăng Thiếu Tướng, đảm nhiệm chức vụ Tổng Trấn Sài Gòn, dẫn đầu đoàn quân trong buổi duyệt binh chiến thắng rất hùng tráng tại thủ đô. Minh dấu nhẹm chuyện chiếc thùng phuy, nhưng tin phong phanh đến tai chính phủ ông Diệm, nhưng Tổng Thống Diệm cho xếp hồ sơ. Thiếu Tướng Minh lần lượt được chính phủ tín nhiệm trong những chức vụ chỉ huy cao nhất trong quân đội, như được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Các chiến dịch Hoàng Điệu 1954, chiến dịch Nguyễn Huệ 1955, chiến dịch Thoại Ngọc Hầu 1956, Tư Lệnh Liên Khu Thủ Đô năm 1957, Tư Lệnh Bộ Tư Lệnh Hành Quân 1961. Đầu năm 1963, Tổng Thống Diệm vinh thăng Trung Tướng và bổ nhiệm Tướng Minh chức vụ Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thốngï, một công việc ngồi chơi xơi nước. Tướng Minh để tâm thù hận ông Diệm từ đấy. Mối thù càng sâu đậm hơn, khi ông Diệm bổ nhiệm bốn vị Tư Lệnh Quân Khu, Minh chẳng nắm được vùng nào cả. Các Tư Lệnh Quân Khu thời ông Diệm trong năm 1962 – 1963 như sau :
Quân Khu I : Thiếu Tường Đỗ Cao Trí
Quân Khu II : Trung Tướng Nguyễn Khánh
Quân Khu III : Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, kiêm Tổng Trấn Sài Gòn – Gia Định
Quân Khu IV : Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao
Ngay cả cái Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu cũng lọt vào tay Thiếu Tướng Trần Văn Đôn, Minh chả được xơ múi gì. Được sự chấp thuận ngầm của Thái Thú Henry Cabot Lodge và Hoa Thịnh Đốn, Minh lệnh riêng cho Đại Úy Nguyễn Văn Nhung giết chết Tổng Thống Diệm và bào đệ là ông Nhu trong lòng chiếc thiết vận xa M 113 trong ngày 2.11.1963. Là đảng viên Đại Việt, Nhung còn có mối thù riêng với Tổng Thống Diệm, vì ông Diệm đã cho quân đội tấn công hủy diệt chiến khu Ba Lòng ở Miền Trung của lực lượng Đại Việt. Nhưng đó là chuyện đau lòng sau này. Nếu ông Diệm bổ nhiệm Tướng Trí làm Tư Lệnh Quân Khu III, rất có thể Tướng Trí vẫn giữ lòng trung thành, vì Đại Tá Cao Văn Viên cùng binh chủng Nhảy Dù như ông nhất định không phản, quân đảo chánh sẽ thất bại. Nhưng đó là số trời, định mệnh oan nghiệt đã dành sẵn chén đắng cho người. Những năm đầu thập niên 1960, khi chiến sự bùng nổ giữa quân Mặt Trận Giải Phóng và Quân Đội VNCH, Minh thậm thụt tiếp xúc mấy lần với Tướng Việt cộng Dương Văn Nhựt, là em trai của ông ta, An Ninh Quân Đội VNCH biết hết, nhưng Tổng Thống Diệm không muốn làm lớn chuyện, ông cho xếp hồ sơ lại, vì Tướng Minh chưa có dấu hiệu phản loạn. Đó là sai lầm lớn nhất trong đời của Tổng Thống Diệm, mà ông sẽ phải trả giá đắt bằng chính mạng sống của mình.
Cuối tháng 4.1955, tàn quân Bình Xuyên co cụm về cố thủ bên kia cầu Tân Thuận trong Chợ Lớn. Trung Tướng Thế quả cảm tiến lên phía chân cầu điều động binh sĩ, nhưng một viên đạn bắn lén oan nghiệt đã giết chết ông. Một tên xạ thủ núp dưới chân cầu cách Tướng Thế khoảng mười mét bắn một viên đạn trúng màng tang phải trổ ra mắt trái. Tương Thế ngã ra chết tức khắc. Chiều ngày hôm sau, khi tình hình chiến sự tạm lắng dịu, Thủ Tướng Diệm cùng ông Nhu đến viếng xác Trung Tướng Thế. Thủ Tướng Diệm đã ôm thây người hào kiệt trẻ khóc lớn. Nỗi đau mất một cánh tay, một cột trụ chống đỡ trong thời buổi loạn binh, ông Diệm ngã ra ngất xỉu. Đến ngày 3.5.1955 thì quân Bình Xuyên hoàn toàn tan rã, một số đầu hàng, một số chạy thụt mạng sang Miên trốn, phần khác ẩn tránh trong các lực lượng giáo phái. Ngay lập tức, Thủ Tướng Diệm cho đóng cửa những nơi chốn tội ác, trả lại cuộc sống trong sáng và an lành cho người dân thủ đô. Dưới chín năm cầm quyền của ông, Tổng Thống Diệm không cho phép một hình thức sa đọa trụy lạc nào được tồn tại.
Sau chiến công này, tài năng lãnh đạo của Thủ Tướng Diệm đã được xác định. Người Mỹ và thế giới đồng công nhận rằng ông Diệm chính là nhà lãnh đạo duy nhất không ai có thể sánh nổi tại Việt Nam. Viện trợ Hoa Kỳ bắt đầu hào phóng đổ vào, dần lên đến 500 triệu mỹ kim mỗi năm. Dân chúng Việt Nam dần dần quen thuộc với những loại hàng hóa và thực phẩm mang nhãn hiệu hai bàn tay siết chặt, tượng trưng cho mối quan hệ thân tình giữa người Mỹ và người Việt Nam.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Kẻ Sĩ cuối cùng
Phạm Phong Dinh
Thứ năm: Là lực lượng các giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài. Đây là hai lực lượng lớn tương đương với Bình Xuyên và đã gây nhiều khó khăn cho chính quyền quốc gia. Từ khởi thủy, các lực lượng giáo phái chủ trương chống cộng và kháng chiến chống Pháp, nhưng sau Hiệp Định Geneva 1954, Việt cộng rút về Bắc, quân Pháp hồi hương, các giáo phái trong một tình trạng lúng túng, vì mục tiêu tranh đấu đã coi như tạm hoàn thành, tương lai đất nước vẫn mờ mịt. Vấn đề tế nhị và khó giải quyết là, chẳng lẽ sau bao nhiêu năm gian khổ chiến đấu, giờ đây lại buông súng quy hàng một con người xa lạ là Thủ Tướng Ngô Đình Diệm từ Hoa Kỳ về, và một quân đội xa lạ là Quân Đội Quốc Gia đa số từ Miền Bắc di chuyển xuống. Sự yếu ớt của các chính phủ Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Xuân, Bửu Lộc trước đây đã là một tiền đề để các giáo phái nghĩ rằng chính phủ ông Diệm cũng ngã sụm sớm, họ sẽ nhân thời cơ nắm được một vai trò nào đó. Thủ Tướng Diệm kêu gọi quân đội giáo phái giải giới sáp nhập vào quân đội quốc gia, các thành phần chỉ huy được cải chuyển sang thành sĩ quan của một quân đội thống nhứt. Nhiều nhóm vũ trang dưới quyền của một số tướng lãnh ý thức được sự biến chuyển của tình thế, sự cần thiết hợp nhất quân đội để tiếp tục ngăn chống làn sóng cộng sản, và công nhận thiên mệnh đã chọn chí sĩ Ngô Đình Diệm làm người lãnh đạo, chứ không phải bất cứ ai khác trong số tướng lãnh giáo phái, nên đã kéo nhau về xin quy thuận. Những tướng Nguyễn Thành Phương, Trình Minh Thế của Cao Đài, Trần Văn Soái của Hòa Hảo đều được chính quyền quốc gia trọng dụng và thăng thưởng. Các tướng Lâm Thành Nguyên, Nguyễn Giác Ngộ của Hòa Hảo chùng chình nửa muốn nửa không, chờ xem những đề nghị quyền lợi do Đại Tá CIA Lansdale đứng giữa móc nối.
Phật giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Phú Sổ sáng lập, tín đồ cung kính gọi ngài là Đức Huỳnh Giáo Chủ. Ngài sinh năm 1919 tại làng Hòa Hảo, thuộc tỉnh Châu Đốc. Thuở nhỏ ngài là một cậu bé ốm yếu và thường bệnh hoạn. Nhưng trong cái thân thể gầy gò ấy tiềm tàng một sức mạnh siêu nhiên về tâm linh, ngài luôn trầm tư suy nghĩ về những bí ẩn của đời sống, chiêm nghiệm chân lý. Năm 1939, lúc chỉ mới 20 tuổi, ngài đã ngộ được lẽ huyền vi của Phật giáo, rồi ngài bắt đầu cuộc đời đạo hạnh từ đấy. Đức Huỳnh Giáo Chủ nghĩ rằng, ngài phải đi sâu vào đời sống mọi người chung quanh, ra tay cứu độ cho những người bệnh tật, thì mới có thể thuyết phục và thu hút được nhiều tín đồ. Vừa trị bịnh cứu đời, ngài vừa giảng thuyết Phật pháp. Người dân Miền Tây thuở thập niên 1940 đâu đã nhiều người được học hành chu đáo, nên Đức Huỳnh đã đơn giản hóa kinh Phật và phổ kinh vào thơ bằng những từ ngữ dễ hiểu, để cho bất cứ tín đồ nào cũng có thể cảm nhận được điều huyền diệu của Phật pháp. Trong lúc đất nước chìm đắm giữa cơn biển lửa chiến tranh, ngài kết hợp Phật pháp với chủ nghĩa quốc gia, mỗi tín đồ vừa là một Phật tử, nhưng cũng là một công dân có trách nhiệm chiến đấu lúc tổ quốc nguy biến. Ngài khuyên tín đồ nên tụng niệm bốn lần mỗi ngày, tán thán hồng danh chư Phật, tán thán công đức những anh hùng dân tộc như Hai Bà Trưng, Lý Bôn, Trần Hưng Đạo và Lê Lợi, để hun đúc tinh thần yêu nước. Vì ngài chủ trương chống thực dân Pháp xâm lược, người Pháp vu khống Đức Huỳnh giáo chủ là một người điên, nên năm 1940 chúng bắt giam ngài trong một nhà thương tâm thần. Nhưng ở đây, Đức Huỳnh đã thuyết pháp và thu nhận làm tín đồ hầu hết những bác sĩ, y tá và nhân viên.
Khi quân Nhật đảo chánh Pháp ngày 9.3.1945, người Nhật đưa ra chiêu bài “Đại Đông Á” đoàn kết những dân tộc da vàng, ủng hộ những lực lượng võ trang yêu nước Việt Nam. Lực lượng quân sự của Phật Giáo Hòa Hảo lúc đó đã kết nạp được đến 15 ngàn chiến sĩ quốc gia. Năm 1946, Đức Huỳnh thành lập Đảng Dân Xã, thế lực ngày càng bành trướng dần khắp hết Miền Tây. Một trong những cấp chỉ huy của lực lượng võ trang Hòa Hảo là Tướng Lê Quang Vinh. Ông là một người chống Pháp rất quyết liệt. Để khẳng định quyết tâm, năm 1947, Tướng Vinh đã chặt đứt một lóng tay trỏ, từ đó dân chúng còn gọi ông là Tướng Ba Cụt. Một cấp chỉ huy khác là Trần Văn Soái, tính nóng như Trương Phi, được binh sĩ kính trọng gọi là Năm Lửa. Nhận thấy Đức Huỳnh Giáo Chủ đã trở thành một đối thủ chính trị và quân sự đáng sợ tại Miền Tây, Hồ Chí Minh lệnh cho đàn em dàn dựng một cuộc hợp thương giữa Việt Minh và Hòa Hảo tại một địa điểm hẻo lánh là Kinh Đốc Vàng trong ngày 19.4.1946, mời Đức Huỳnh đến rồi giết chết. Tuy Đức Huỳnh Giáo Chủ đã qua đời, nhưng Việt Minh không thể tiêu diệt nổi lực lượng võ trang Hòa Hảo, con số tín đồ trong những năm đầu thập niên 1950 đã lên đến hơn 1 triệu rưỡi người.
Sau khi được quốc dân tín nhiệm bầu làm Tổng Thống trong cuộc bỏ phiếu ngày 23.10.1955, chí sĩ Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập nước Việt Nam Cộng Hòa. Bình Xuyên đã bị tiêu diệt hồi tháng 5.1955, giờ đây Tổng Thống Diệm bắt đầu thanh toán lực lượng Hòa Hảo. Những tướng lãnh chịu quy phục như Trần Văn Soái, Tổng Thống Diệm trọng dụng và tưởng thưởng vật chất xứng đáng (Sử liệu của người Mỹ viết rằng CIA đã giúp Tổng Thống Diệm 12 triệu mỹ kim trong việc này) Những tướng lãnh bất phục, ông lệnh cho Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa tấn công không khoan nhượng. Những trận đánh đẫm máu đã diễn ra, để cuối cùng Tướng Lê Quang Vinh Ba Cụt bị quân của Đại Tá Dương Văn Minh bắt sống trong tháng 4.1956. Tướng Ba Cụt để tóc dài đến tận vai, ông thề rằng khi nào đất nước thống nhất thì ông mới cắt tóc. Tháng 7.1956 Tướng Lê Quang Vinh bị xử chém tại Cần Thơ. Lực lượng võ trang Hòa Hảo của Tướng Ba Cụt tan rã từ đấy, các binh sĩ phân tán và ẩn tránh vào những vùng thôn quê xa thành thị chờ thời cơ trỗi dậy.
Đạo Cao Đài được ngài Ngô Văn Chiêu sáng lập từ năm 1878 tại Chợ Lớn, tiết lộ rằng ngài đã được gặp gỡ đấng toàn năng tối cao là Thượng Đế qua hiện tượng cơ bút. Biểu tượng thiêng liêng của Cao Đài giáo là hình Một Mắt, có nghĩa là sự thấu suốt mọi lẽ huyền vi của vũ trụ và thế giới tâm linh. Đức Ngô Văn Chiêu đưa vào nhiều hình tượng để tán thán và thờ phượng. Ngoài Đức Phật Thích Ca, còn có Đức Chúa Jesus, Lão Tử, Khổng Tử, thấp hơn có Jeanne d’Arc (nữ anh thư Pháp), Victor Hugo (văn hào Pháp), Charlie Chaplin, Laurel va Hardy (đều là các tài tử điện ảnh Hoa Kỳ), cùng nhiều nhân vật lịch sử, tôn giáo và văn hóa khác nữa, đều được thờ phượng như những bậc thánh. Với một đạo pháp chủ trương hòa đồng như thế, rất dễ được quần chúng tin tưởng và chấp nhận, nên chỉ trong một thời gian ngắn, đạo Cao Đài đã phát triễn toàn khắp Lục Tỉnh và bành trướng ra đến Miền Trung. Tòa Thánh Trung Tâm đặt tại Tây Ninh, sinh hoạt nội bộ của hàng giáo phẩm và giáo dân chặt chẽ, gần giống hình thức bán tự trị (semi autonomous state), một lãnh thổ trong một quốc gia. Sự kiện này đã làm thực dân Pháp rất lo lắng, khi con số chiến sĩ trong lực lượng võ trang Cao Đài đã lên đến 25 ngàn người. Năm 1932, Đức Ngô Văn Chiêu qua đời, ngài Hộ Pháp Phạm Công Tắc lên chấp chưởng công việc. Đầu những năm 1950, tín đồ Cao Đài đã lên đến gần 2 triệu người.
Song song với cuộc bình định lực lượng võ trang Hòa Hảo, Tổng Thống Diệm bắt đầu chiến dịch chinh phạt lực lượng võ trang Cao Đài. Với sự giúp sức của CIA Mỹ, qua trung gian của Đại Tá Lansdale, Thiếu Tướng Trình Minh Thế, Thiếu Tướng Nguyễn thành Phương chịu quy thuận với những thăng thưởng cấp bậc và vật chất rất hậu từ phía chính phủ (sử liệu Mỹ tiết lộ CIA đã giúp 1 triệu mỹ kim). Cuối năm 1955, Quân Đội VNCH tấn công vào chiến khu Tây Ninh. Trước ý chí sắt đá của Tổng Thống Diệm, rằng ông không bao giờ chấp nhận nạn sứ quân trong một quốc gia có một chính phủ dân cử hợp pháp, thêm tin tức bất lợi và đẫm máu từ phía mặt trận Hòa Hảo dồn dập bay về, Hộ Pháp Phạm Công Tắc buộc phải đào thoát sang Cao Miên trong tháng 2.1956. Phần lớn binh sĩ Cao Đài buông súng xin quy hàng, số còn lại tản mác về Miền Tây.
Như vậy là đã xong những thế lực sứ quân lớn, các lực lượng võ trang giáo phái đã lụi tàn, nhưng giáo dân Hòa Hảo và Cao Đài vẫn được tự do tín ngưỡng và hành đạo của mình. Chẳng những thế mà chính quyền ông Diệm còn giúp đỡ trùng tu, xây dựng chùa, đền, tòa thánh. Sự kiện này chứng minh rằng, bản thân Tổng Thống Diệm, người không bao giờ chủ trương kỳ thị tôn giáo. Ngoài tư cách là một tín đồ Thiên Chúa giáo, ông còn là một nhà nho Khổng giáo, một kẻ sĩ chân chính luôn tôn trọng đạo lý và lẽ công bằng. Quan niệm rằng tín đồ bất cứ đạo giáo nào chỉ nên trau giồi phần đạo đức và tâm linh, Tổng Thống Diệm luôn tích cực hỗ trợ cho công việc thiêng liêng đó. Nhưng không thể lợi dụng tôn giáo để bạo động và hùng cứ. Quân đội phải được hợp nhất thành một sức mạnh để bảo vệ đất nước. Ông cũng áp dụng quan niệm đó với lực lượng Phật giáo, nhưng đấy lại là một câu chuyện khác đầy rối rắm mang rất nhiều màu sắc chính trị, có sự nhúng tay của Mỹ và cộng sản để đánh đổ người.
Thứ sáu: Ngoài các thế lực Hòa Hảo, Cao Đài, chính quyền trung ương cũng chú ý đến thành phần người Thượng và người Miên. Người Thượng sống tập trung hầu hết trên vùng đồi núi cao nguyên Miền Trung, có đến hơn 40 chủng tộc, trong số này có rất nhiều chủng tộc rất gần cận với người Miên, nói với nhau và hiểu nhau được. Người Thượng không ưa người Kinh, cả quốc gia lẫn Việt cộng, vì họ chịu thuế má nặng nề từ hai phía thuở các vua Kinh và thời Pháp thuộc, cùng các triều Nguyễn, rồi thời Việt Minh. Phong trào FULRO (Front unifié de liberation des races opprimées) : Mặt Trận Liên Hiệp Những Dân Tộc Bị Áp Bức) trong những thập niên 1960 về sau, tập họp người Thượng, chủ yếu từ các sắc tộc lớn như Sedang, Rhade, Jarai, Ede, đòi thành lập một quốc gia riêng do người Thượng điều hành, về sau lại có thêm các sắc tộc Chàm và Khmer. Các thời Cộng Hòa Nhất và Nhị đều có thành lập Bộ Sắc Tộc để giải quyết các vấn đề người Thượng, song song với việc chăm lo quyền lợi cho họ.
Người Miên có khoảng 600 ngàn người sống tập trung ở Tây Ninh, Bình Dương, nhưng đa số quy tụ ở Miền Tây như Ba Xuyên, Vĩnh Bình, Châu Đốc và An Xuyên. Người Miên hận thực dân Pháp đô hộ, oán người Việt chiếm đoạt phần Thủy Chân lạp trong mấy trăm năm Nam tiến. Bị người Việt Nam coi thường, khinh chê họ là giống dân lạc hậu, nên mỗi khi có dịp dậy giặc Cáp Duồn (giết người Việt) ở những vùng biên giới, người Miên tàn sát người Việt rất dã man. Sau Thế Chiến Thứ Hai, một nhóm ngjời Miên thành lập lực lượng kháng chiến Khmer Kamphuchea Krom chống Pháp, đánh cả luôn Việt Minh và Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, với ý đồ đoạt lại vùng Thủy Chân Lạp. Năm 1956 là một năm binh lửa, khi Quân Đội VNCH mở nhiều mặt trận đánh các lực lượng võ trang Hòa Hảo, Cao Đài, và quân Khmer. Quân đội quốc gia đã gặp phải sự kháng cự quyết liệt của lực lượng Khmer Kampuchea Krom. Quân Việt tấn công dữ dội, tiêu diệt nhiều ngàn quân Miên, đẩy lùi quân Krom chạy dạt về bên kia biên giới. Sau cuộc chiến, người Miên cam chịu khuất phục, họ được chính phủ Việt Nam bảo vệ, được tự do làm ăn sinh sống, canh tác và sở hữu, thi hành nghĩa vụ công dân như bất cứ người công dân Việt Nam nào.
Thứ bảy : Người Thiên Chúa giáo Miền Bắc di cư vào Miền Nam khoảng 600 ngàn người trong số 700 ngàn đồng bào, thành phần còn lại là Phật giáo, cộng thêm 300 ngàn binh sĩ quốc gia và gia đình, các thành phần viên chức, công nhân, thương gia, và tất cả những ai tin rằng nếu ở lại sẽ bị cộng sản đày ải hay tàn sát. Lực lượng Quân Đội Quốc Gia giảm xuống còn 150 ngàn chiến sĩ, sau khi người Mỹ đề nghị Thủ Tướng Diệm cho giải ngũ một nửa quân số. Đồng bào di cư bao gồm nhiều thành phần trí thức, có một nền học vấn vững chắc, nói tiếng Pháp lưu loát, có kiến thức, siêng năng và cần mẫn, nên chẳng mấy chốc, khối Thiên chúa giáo đã trở thành một thế lực kinh tế, tài chính và chính trị lớn tại Miền Nam. Tổng Thống Diệm không chủ trương đưa Thiên Chúa giáo, hay Công giáo lên vị trí độc tôn, nhưng người ta tin rằng ông đã dành rất nhiều tin tưởng và tín nhiệm người Công giáo, vì khối người này có lập trường quốc gia chống cộng rất kiên quyết và hậu thuẫn ông trong mọi chủ trương. Nhưng nói ông Diệm dung túng, bênh vực người Công giáo thì không đúng. Ông là con người có cao kiến và rất thận trọng trong vấn đề này, bằng chứng là hầu hết những viên chức làm việc trong Phủ Tổng Thống chung quanh ông đều là tín đồ Phật giáo, thí dụ như ông Võ Văn Hải, Chánh Văn Phòng; ông Quách Tòng Đức, Đổng Lý văn phòng; ông Nguyễn Thành Cung, Tổng Thư Ký; ông Trần Sử, Bí Thư; ông Tôn Thất Thiết, nội dịch và ông Nguyễn Bằng, cận vệ. Những linh mục chăn dắt giáo xứ Bùi Chu và Phát Diệm là Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi, thủ lãnh Lực Lượng Đại Đoàn Kết là linh mục Hoàng Quỳnh không thích Tổng Thống Diệm, vì ông đã thẳng thắn bác bỏ nhiều yêu sách quá đáng của họ.
Con số người Công giáo từ Miền Bắc dần dần tăng trưởng đã lên đến hơn 1 triệu rưỡi người. Những người có tài năng và học thức đều được trọng dụng làm việc trong guồng máy quốc gia, những thành phần ưu tú trong quân đội đã trở thành những cấp chỉ huy cao nhất. Đối với đồng bào thường dân, chính phủ ông Diệm đã lập được kỳ công, thiết lập 319 xã định cư, phân phối đất canh tác cho, trợ cấp tài chánh đến khi đồng bào đã có thể tự sinh sống được. Chính phủ gởi 400 ngàn đồng bào xuống Miền Tây canh tác ở những vùng đất có người Miên dọc theo biên giới như khu vực Cái Sắn, Kiên Giang, vùng Kinh Thoại Ngọc Hầu và Kinh Vĩnh Tế ở Châu Đốc. Đồng thời, 100 ngàn dân di cư được đưa lên cao nguyên Quân Khu II nhận đất khai khẩn và canh tác ở khu vực các tỉnh Darlac, Lâm Đồng, Kontum, v.v.. bên cạnh các sắc tộc Thượng. Chúng ta thấy ngay cái thế chiến lược mà một con người nhìn xa trông rộng như Tổng Thống Diệm đã bố trí. Nửa triệu đồng bào di cư ở những khu vực đó hình thành những vòng cung làm phên dậu che chở cho nền an ninh của Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời mở rộng sản lượng nông nghiệp quốc gia, khai khẩn đất hoang hay đất rừng, góp phần tăng trưởng nền kinh tế.
Luôn luôn quan sát chính phủ và khối Công giáo bằng một nhãn quan nghi ngờ, là đại khối Phật giáo ở Miền Nam. Nói chính xác hơn, là thành phần ni sư ở cấp cao trong giáo hội Phật giáo. Với con số tín đồ chiếm đến 90% dân số (mặc dù trong hệ thống Phật giáo chẳng có bằng chứng nào ghi nhận sự quy y chính thức của mỗi tín đồ, người dân chỉ đơn giản thờ phượng chư Phật, đi chùa lễ Phật mỗi dịp lễ lạc quan trọng, song song với việc thờ phượng tổ tiên, ông bà), giáo hội Phật giáo luôn dè chừng nguồn tin rằng người Công giáo vận động chính phủ công nhận Công giáo là quốc giáo. Nhưng Tổng Thống Diệm, dù rất kính sợ anh mình là Ngô Đình Thục, Tổng Giám Mục giáo phận Vĩnh Long, rồi giáo phận Huế, ông không bao giờ cho phép chuyện đó xảy ra. Tất cả mọi tôn giáo đều có vị trí xứng đáng của mình trong lòng dân tộc. Nhưng khốn nỗi, những giáo phẩm cao cấp của các tôn giáo, vẫn còn rất nặng lòng sân si, chấp mê vinh quang phù phiếm và sắc tướng, đâu có được tấm lòng thánh khiết cao cả như người.
Năm 1957, giám mục Ngô Đình Thục cố vận động Tòa Thánh Vatican bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục Sài Gòn, nhưng Đức Giáo Hoàng Pius XII chỉ thỏa mãn một nửa, với trách vụ giáo phận Huế, một vùng đất tiềm tàng nhiều bất trắc. Dù Tổng Thống Diệm đã rất siêng năng đi thăm viếng khắp các chùa chiền, trò chuyện thân mật với sư sãi, nhưng cái khoảng cách thân tình giữa một vị lãnh đạo và những giới chức Phật giáo vẫn chưa thu ngắn được mấy. Một vị Tổng Thống đã hạ mình xuống ngang hàng với mọi thành phần dân chúng như thế, mà vẫn chưa nhận được sự hài lòng của mọi người, thật tội nghiệp cho ông. Người đã làm tất cả những gì phải làm để chứng tỏ ông là một con người của đại chúng, của mọi thành phần chính kiến, mọi tư tưởng, chứ ông không phải là của riêng một thế lực hay tôn giáo nào. Đó là sự thật, mà ngày nay mỗi năm đến ngày 2.11, người Việt quốc gia đều trang trọng làm lễ Cầu Hồn cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm để giải oan cho người và để tôn vinh một chiến sĩ quốc gia luôn nặng lòng tận tụy với tổ quốc và dân tộc đến giây phút cuối cùng của cuộc đời.TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM: KẺ SĨ CUỐI CÙNG
Thứ tám : Khi tất cả những lực lượng võ trang giáo phái đã được bình định, vẫn hãy còn một lực lượng ghê gớm mà sẽ khuynh đảo hai chế độ Cộng Hòa ở Miền Nam. Đó là lực lượng Việt Minh, rồi sau này được gọi là cộng sản. Về sau, với sự hiện diện của binh đội Bắc Việt, báo chí truyền thông Việt Nam Cộng Hòa đã phân biệt hai thành phần quân cộng sản. Thứ nhất, là Việt cộng, là những binh sĩ nằm trong lực lượng võ trang của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam do Hà Nội thành lập ngày 20.12.1960 ở xã Tân Lập, tỉnh Tây Ninh, đa số là dân gốc Miền Nam. Thứ hai, là cán binh Bắc Việt, để gọi những bộ đội xâm nhập từ miền Bắc vào, đa số chiến đấu trong những lực lượng chính quy.
Khi 100 ngàn bộ đội cộng sản Miền Nam tập kết ra Bắc sau Hiệp Định Geneva ngày 20.7.1954, thì vẫn còn 10 ngàn người nhận lệnh Hà Nội ở lại nằm vùng, kiên nhẫn chờ thời cơ nổi dậy, nếu chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không chịu tổ chức cuộc tổng tuyển cử trong năm 1956. Hà Nội đã tiên đoán đúng, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không ký vào bản văn Hiệp Định Geneva nên không có trách nhiệm thi hành hiệp định này. Quốc tế cũng hiểu như vậy, nên không ai có thể trách cứ chính phủ VNCH việc ấy. Từ cuối năm 1955 đến đầu năm 1960, Quân Đội VNCH vừa tiếp thu những vùng Việt Minh rút bỏ, vừa mở những cuộc hành quân tiêu diệt cộng phỉ. Tại sao gọi là cộng phỉ. Trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa có điều khoản không công nhận hoạt động cộng sản, loại chúng ra khỏi vòng pháp luật. Mọi hành vi ám sát, bắt cóc, khủng bố, nổ bom chợ búa, trường học, đào đường, phá cầu, thu thuế dân quê bằng cưỡng bách và giết chóc, nói chung những hành động phá hoại đều được gọi là phỉ và phải thụ án hình sự.
Ở Miền Trung, bộ máy mật vụ của ông Ngô Đình Cẩn truy lùng ráo riết Việt cộng nằm vùng, đồng thời với các thành phần chống đối. Bận rộn với công vụ ở Miền Nam, việc đón nhận và định cư gần một triệu người Miền Bắc vào, ông Diệm gần như khoán trắng công vụ Miền Trung cho ông em trong trách vụ Đại Biểu Chính Phủ ở Miền Trung. Bộ máy của ông Cẩn ở Miền Trung và mật vụ, cảnh sát ở Miền Nam làm việc hiệu quả đến mức cộng sản phải la làng lên, rằng quân đội quốc gia bắt bớ, đàn áp dân chúng “vô tội”. Thật buồn cười, anh phải làm cái gì đó vi phạm luật pháp quốc gia, thí dụ như anh làm giao liên, tiếp tế, chứa chấp phỉ cộng trong nhà, dấu súng làm du kích, nuôi quân cộng, ban đêm xách bị đi thu thuế dân lành, và nhiều tội ác mờ ám khác như bắt cóc, mổ bụng, cắt cổ những người theo về với phía quốc gia, anh bị bộ máy mật vụ và cảnh sát VNCH tóm đầu là đúng quá rồi, còn kêu ca nỗi gì. Tại sao người ta bắt ông A mà không bắt ông B. Là tại vì ông A vi phạm pháp luật, ông B không có làm gì, nên ban đêm ông B cứ ăn ngon ngủ kỹ. Thí dụ như bây giờ chúng ta về thành phố Hồ vẹm rải truyền đơn chống cộng, vẹm đương nhiên bủa lưới bắt, chứ chúng để cho chúng ta tà tà thảnh thơi được sao. Tấm gương của Đỗ Thành Công trong tháng 8.2006 đấy, chỉ mới về Phan Thiết nghỉ phép dung dăng dung dẻ với vợ con thôi, là đã bị tống vào nhà đá rồi.
Toàn Miền Nam, con số cán bộ nằm vùng từ 10 ngàn người giảm xuống còn 3 ngàn. Cán bộ cao cấp nhất còn ở lại Miền Nam là Lê Duẫn phải bỏ nhiều công sức và thời gian để gầy dựng lại cơ sở hạ tầng. Duẫn nhiều lần nài xin Hồ Chí Mính tấn công Miền Nam. Nhưng bản thân đảng Lao Động (tức cộng sản trá hình) còn nhiều khó khăn cần phải vượt qua và củng cố thành quả “cách mạng” ngoài Bắc, thêm cuộc khởi nghĩa Quỳnh Lưu, Nghệ An năm 1956, Hồ thấy chưa đủ sức và thời điểm chưa chín mùi. Điều mà Hồ có thể làm được là chỉ thị Lê Duẫn cho quân Việt cộng đấu tranh chính chính trị, song song với tổ chức những cuộc ám sát hàng ngàn viên chức xã ấp của quốc gia để gây khủng khiếp trong dân chúng và ngăn cản những người yêu nước làm việc cho chính quyền VNCH. Bầu không khí khủng bố bao trùm khắp thôn quê Miền Nam. Hầu như cứ qua một đêm, vào buổi sáng hôm sau, nằm trên một bờ đê hay trên một thửa ruộng cạn nước, hoặc ngập nước, người dân rùng mình hãi hùng trông thấy những cái thây người bị cắt cổ máu me đầm đìa, bụng bị mổ lòi ruột gan, trên ngực ghim một mảnh giấy với mấy hàng chữ : “Bản Án Dành Cho Bọn Làm Việc Cho Mỹ Diệm”.
Nhưng tất cả những thành phần dân tộc, tôn giáo, chính trị và cộng sản cũng chưa hội đủ điều kiện cần thiết để có thể làm sụp đổ nền Đệ Nhứt Cộng Hòa, nếu... không có sự nhúng tay và hậu thuẫn của người Mỹ. Trước những sự quấy nhiễu, gây rối, hách dịch và ngu dốt về lịch sử, dân tộc, văn hóa và chính tình Việt Nam của các yếu nhân Mỹ từ Tổng Thống cho đến các cộng sự viên, Tổng Thống Diệm càng lúc tỏ ra rất cứng rắn không chịu khuất phục. Ông đã nhận ra rằng sự có mặt của 3,000 cố vấn Mỹ do Kenndy gởi sang Miền Nam không phải là giúp chính thể VNCH xây dựng một quốc gia độc lập và hùng mạnh thật sự, mà cốt chỉ phục vụ cho quyền lợi của người Mỹ và nước Mỹ, giống một con đường đang tách dần ra hai hướng, càng lúc càng xa cách. Chính phủ VNCH đề nghị chính phủ Hoa Kỳ giúp xây dựng một nhà máy đúc đạn tiểu liên ở Gò Vấp. Lúc đầu phía Hoa Kỳ đã chấp nhận, nhưng một thời gian sau đã cho xếp lại dự án ấy, bởi người Mỹ theo đuổi một chính sách phòng ngừa và ngăn chận quân đội VNCH tấn công ra Bắc, họ sẽ không cung cấp bất cứ phương tiện gì để VNCH có được khả năng tấn công. Thời Đệ Nhị Cộng Hòa, chính phủ mở Ngân Hàng Kỹ Thương ký thác tiền tiết kiệm hàng tháng của mỗi quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ cuối những năm 1960, con số lên đến vài tỉ đồng, tương đương mấy trăm triệu đô la Mỹ. Người Mỹ e rằng chính phủ VNCH dùng số tiền này mua thêm súng đạn từ các quốc gia khác, hoặc thành công trong những kế hoạch phát triễn kinh tế để tự túc hoàn toàn, không nhận tiền Mỹ nữa, nên đã dàn dựng tấn kịch “tham nhũng” trong kế toán ngân hàng và Bộ Quốc Phòng, áp lực chính phủ VNCH phải bồi hoàn số tiền này cho mọi quân nhân, ngừng vĩnh viễn chương trình tiết kiệm quân đội. Nói một cách chính xác, vụ Kỹ Thương Ngân Hàng là một trong những dấu hiệu cho thấy chính phủ Hoa Kỳ đã ấn định và chuẩn bị cái chết của Việt Nam Cộng Hòa rất sớm. Người Mỹ không muốn VNCH thành công kinh tế, trở thành một cường quốc trong vùng Đông Nam Á, họ muốn dân tộc Việt mãi mãi đắm chìm trong nghèo đói, từ đó phát sinh nạn tham nhũng và phải chịu khuất phục, phụ thuộc người Mỹ.
Những cố vấn thân cận của Kennedy đã dùng trí tuệ siêu đẳng của họ để không phải chiến thắng kẻ thù một cách vinh quang, mà trời ơi, là để tháo chạy ra khỏi Việt Nam. Có hai khuynh hướng được cân nhắc : Thứ nhất, thay thế chính phủ ông Diệm bằng một chính phủ dễ nói chuyện và sai bảo hơn. Thứ hai, hất ông Diệm xuống và dựng lên, trời đất, một chính phủ có nhiệm vụ tuyên bố “đuổi” người Mỹ ra khỏi Miền Nam. Lúc ấy, người Mỹ danh chính ngôn thuận rời khỏi Miền Nam trong danh dự. Chúng ta sẽ thấy các đời tổng thống Mỹ đều rất gắn bó với hai khái niệm kỳ quái này. Càng kỳ quái hơn, khi người Mỹ đã tìm thấy một con người có khả năng thực hiện được hai kế hoạch ô nhục đó : Trung Tướng Dương Văn Minh của cuộc loạn binh 1.11.1963 và Tổng Thống Dương Văn Minh của cuộc “đuổi Mỹ” và đầu hàng ngày 30.4.1975.
Thật may mắn cho người Mỹ, vụ biến động Phật giáo xảy ra trong tháng 5.1963 là một cái ngòi nổ quá tốt để người Mỹ bê một trái mìn tới cho nó nổ sập chế độ Đệ Nhứt Cộng Hòa. Cuộc biến động đó thường được nhớ đến từ sự kiện “Treo Cờ Phật Giáo”. Cuộc oan nghiệt khởi đầu từ việc những viên chức đầu tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế cho phép treo nhiều cờ Công giáo ra khỏi khuôn khổ của một thông tư trung ương. Nhân ngày lễ Phục Sinh đầu tháng 4.1963, Tổng Thống Diệm có đi thị sát dân tình, ông đã chú ý đến việc treo cờ quốc gia và cờ đạo chưa được nghiêm chỉnh và đúng cách. Tổng Thống Diệm ký một thông tư lưu ý các tỉnh thành về thể thức treo quốc kỳ trong những này lễ đạo, không phân biệt tôn giáo nào. Cờ quốc gia phải được treo ở cổng nhà thờ, chùa chiền, đền thánh, chính giữa và cao phía trên, đúng kích thước; cờ đạo được phép treo phía dưới; phía trong được treo bao nhiêu đạo kỳ tùy ý. Đầu tháng 5.1963, để kỷ niệm lễ ngân khánh 25 năm thụ phong của Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục, tại Huế, nhiều cờ Vatican đã được treo trái với quy định trong thông tư của Tổng Thống Diệm. Thật bất hạnh cho nước Nam, tháng 5 trùng với mùa lễ Phật Đản, nên ngày 8.5.1963, Phật Tử Huế treo cờ đạo cũng trái quy định, giống như vụ cờ Vatican. Anh treo được thì tôi treo được.
Nếu sự việc ngừng ở đây thì đâu xảy ra thảm kịch đau lòng ngày 1.11.1963 và người Mỹ có đâu cái cớ để nhào vô đánh trống la làng. Vẫn những viên chức Huế thông báo đồng bào Phật Tử phải tuân theo thông tư chính phủ, treo đạo kỳ lùi vào bên trong chùa, gây nên một làn sóng phẫn nộ trong dân chúng. Ngay trong buổi chiều ngày 8.5.1963, một cuộc biểu tình phản đối tụ tập hàng ngàn Phật Tử trước Đài Phát Thanh Huế, là nơi đang đọc thông báo. Bầu không khí sôi sục nhưng vẫn còn có thể kiềm chế được, quân đội quốc gia được gởi đến nhưng không có một hành động nào sử dụng bạo lực. Đột nhiên có một trái bom nổ bùng lên giữa đoàn người đang hò hét, gây tử thương một số ít người, trong đó có 7 em bé. Như một cái ly nước đã quá đầy và tràn, không còn gì ngăn được lòng căm phẫn của dân chúng. Cán bộ cộng sản nằm vùng trong các chùa chiền, leo dần lên đến những vị trí đại đức, thượng tọa như Trí Quang, Thiện Minh,... đổ dầu thêm vào lửa, cố gây tình trạng hỗn loạn tại Huế, thay vì thể hiện tinh thần bất bạo động, cùng với chính quyền tìm những phương cách ôn hòa để giải quyết. Trong khi đó thì tất cả chùa chiền ở các tỉnh thành khác đều tuân thủ thông tư của chính phủ, không có biến động đáng tiếc nào.
Sự kiện 8.5.1963 đã được báo chí ngoại quốc đăng tải, dĩ nhiên thổi phồng, cố tạo cho thế giới có một cảm giác ngột ngạt đang diễn ra tại Việt Nam, chú tâm vào vấn đề Phật giáo, bỏ qua tất cả những thành quả khác đang trên đà tiến triễn của Việt Nam Cộng Hòa. Đó là cung cách của báo chí, truyền thông Tây phương và Hoa Kỳ. Sau năm 1975, James Scott, cựu Đại Úy quân đội Mỹ, từng là cố vấn Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 3, Sư Đoàn 1 Bộ Binh của VNCH, có nhiều liên hệ với CIA, công bố một bức thư thú nhận chính anh ta đã được lệnh gài một trái bom nổ chậm để gây ly gián giữa Phật tử và chính quyền. Kế lý gián ấy đã thành công, cộng với sự xách động của sư sãi Việt cộng mặc áo nhà tu, đẩy tình hình nội trị Việt Nam đến một sự căng thẳng giả tạo. Một phái đoàn Liên Hiệp Quốc xin được vào Miền Nam điều tra những cái mà báo chí ngoại quốc gọi là “đàn áp tôn giáo” của chính phủ ông Diệm. Phái đoàn điều tra được phép đi khắp nơi, phỏng vấn một số người, để cuối cùng công bố một kết luận làm Hà Nội và người Mỹ thất vọng : Tại Miền Nam chẳng có dấu hiệu nào chứng tỏ chính quyền Ông Diệm đàn áp tôn giáo cả. Song song đó, chính quyền đồng ý bồi thường thỏa đáng cho các nạn nhân trong tai nạn bom nổ ngày 8.5.1963, tiếp tục những cuộc thương thảo với các chức sắc lãnh đạo Phật Giáo. Muốn đốt lên ngọn lửa hận thù, người ta phải dựng nên một vụ chấn động nào đó tương đương với sự kiện 8.5.1963. Ký giả David Halbrestam của báo New York Times sáng ngày 11.6.1963 bỗng nhận được một cú điện thoại nặc danh bảo anh ta đến ngã tư Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng để chứng kiến một sự kiện quan trọng. Cùng hiện diện tại đó còn có nhiếp ảnh viên Malcolm Browe. Tấn bi kịch đã được dàn dựng với những nhân chứng ngoại quốc, để bảo đảm tin tức và hình ảnh được truyền bá khắp thế giới.
David và Malcolm đã chứng kiến được tấn bi kịch tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức, 66 tuổi. Cùng với hai nhà sư trẻ hơn, hòa thượng Thích Quảng Đức từ trên một chiếc xe hơi bước xuống ngồi tọa thiền trong vòng vây của nhiều tăng ni. Hai nhà sư đổ một thùng xăng lên người ông, người hòa thượng tự châm diêm quẹt tự thiêu. Tin tức và hình ảnh ghê rợn đó đã được truyền đi đúng như ý muốn của những người dàn dựng. Chính phủ Mỹ có cái cớ nhảy vào “cảnh cáo” chính quyền VNCH hãy thỏa mãn yêu sách của Phật giáo. Phản ứng cứng rắn của chính quyền đã làm tan đi những hy vọng hòa giải. Tháng 8.1963, quân đội được lệnh khám xét những chùa chiền, bắt nhiều sư sãi về thanh lọc thành phần cộng sản nằm vùng. Trí Quang ở chùa Ấn Quang nhanh chân chạy trốn được vào cơ quan USAID Mỹ ở Sài Gòn. Dĩ nhiên người Mỹ sốt sắng nhận che chở ngay. Ngày 2.11.1963, ông Ngô Đình Cẩn chạy đến Tòa Lãnh Sự Mỹ tại Huế xin ông Lãnh Sự John Helble cho tị nạn. Helble lạnh lùng từ chối. Ngày 5.11.1963, Cabot Lodge lệnh cho giải giao ông Cẩn về Sài Gòn trao cho Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Hai sự kiện này đã nói lên được chính sách phản trắc của chính quyền Hoa Kỳ. Gần đây nhất, đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội, ông Marine đã sống sượng phát biểu về những vụ tự thiêu của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo phản đối Việt cộng đàn áp tôn giáo như sau :”Những người tự thiêu là những người cực đoan. Hành động đó làm cản trở tự do tín ngưỡng của tín đồ”. Mẹ ơi, 43 năm trước cũng chính người Mỹ ca ngợi “Tự thiêu là hành dộng dũng cảm vì đạo pháp của các bậc bồ tát” . Thế là thế nào, cùng một miệng Mỹ mà phun ra tới hai luồng sulfur khác nhau. Nếu cho là lời ông Marine đúng thì hóa ra chế độ vẹm Hà Nội là một chế độ quá thánh thiện mất rồi. Ô hô !
Trong tình hình sư sãi như rắn mất đầu như thế, lẽ ra Trí Quang nên làm một cái gì to tát như hòa thượng Thích Quảng Đức để được vĩnh viễn lưu danh trong Phật sử, thì ông ta đã nhanh chân tẩu thoát trước. Nếu Trí Quang cùng ngồi tọa thiền trong tù với hàng ngàn sư sãi, thậm chí dẫn đầu một cuộc tuyệt thực trong đó, thì tác động “chiến tranh tâm lý” có phải lớn hơn không. Phải chăng đùn đẩy người vô tội chết thay cho mình, sẵn sàng bỏ chạy trước khi nguy biến là bản chất của người cộng sản. Sau 1975, những con bài tôn giáo chiến lược của Hà Nội như Trí Quang, Nhất Hạnh, Minh Châu, ... đều đã lộ diện, như là một yếu tố chính trị quan trọng trong màn kịch Phật giáo. Nhưng những biến cố đó vẫn chưa đủ liều lượng làm sụp đổ chế độ. Người Mỹ cần một yếu tố thứ ba : tướng lãnh VNCH. Vì thế ngay trong tháng 8.1963, Henry Cabot Lodge được lệnh khăn gói sang Việt Nam. Đến đây tấn thảm kịch 1.11.1963 và cái chết của anh em Tổng Thống Diệm được bắt đầu.
Ngày thứ Sáu 1.11.1963 oan nghiệt trùng với ngày Lễ Các Thánh, tức kế tiếp ngay sau ngày Halloween 31.10.1963. Bầu trời buổi sáng nắng đẹp, đột nnhiên lúc giữa trưa đã trở nên u ám, như báo trước một tấn bi kịch mà cho đến tận thời điểm hiện tại khi nhớ lại người ta vẫn còn rùng mình kinh hãi. Không phải vì cuộc đổi đời dâu bể, mà là ghê tởm cuộc tắm máu hai anh em Tổng Thống Diệm một cách dã man và không cần thiết của những người cầm đầu cuộc đảo chánh mà họ gọi là “cách mạng” và những cái gọi là “đồng minh” Hoa Kỳ. Nếu Tổng Thống Diệm cứng rắn kháng cự đến giây phút cuối cùng, ông có chết giữa vòng lửa đạn thì đó là cái chết phải đến và xứng đáng. Nhưng ông đã quá tin vào lời chấp nhận của Tướng Dương Văn Minh, người được Mỹ hậu thuẫn và là người đứng đầu Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, đồng ý đầu hàng và xin Hội Đồng cho phép ông và ông Nhu được sống lưu vong nước ngoài. Suốt cuộc đời Tổng Thống Diệm, ông chỉ ban bố tấm lòng nhân ái tận tụy cho dân tộc chứ chưa từng nhẫn tâm lừa gạt đối phương một cách trắng trợn như Tướng Minh.
Đúng 1 giờ ngày 1.11.1963 tiếng súng của quân đảo chánh bắt đầu nổ. Một lực lượng nhiều tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến làm nỗ lực chính khai tử nền Đệ Nhứt Cộng Hòa, cùng với những lực lượng hỗ trợ hỏa lực như Thiết Giáp, tăng viện chiến trường như Nhảy Dù, bao vây Sài Gòn như Sư Đoàn 5 Bộ Binh và Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Đại Tá Cao Văn Viên, Tư Lệnh Nhảy Dù đã khẳng khái khước từ tham gia đảo chánh, ông suýt bị hạ sát ngay tại Bộ Tổng Tham Mưu, nhưng được Trung Tướng Trần Thiện Khiêm can thiệp cứu thoát và cho người giam lỏng ông. Với lòng trung thành ấy, ông có đủ phẩm chất được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng tin tưởng giao cho ông tiếp tục chỉ huy binh chủng Nhảy Dù sau ngày 1.11.1963. Có lẽ trường hợp Đại Tướng Viên là một sự kiện kỳ lạ và độc nhất trong hàng tướng lãnh, một con người trung thành với Tổng Thống Diệm lạc lõng giữa đám Tướng, Tá phản loạn. Tuy vậy, ngày 28.4.1975, khi Tướng Minh nhận bàn giao chức vụ tổng thống từ Tổng Thống Trần Văn Hương, nhớ lại nỗi oan khuất và cái chết thảm của Tổng Thống Diệm, Đại Tướng Viên đã xin từ nhiệm, quyết không chịu cúi lòn dưới trướng của Minh.
1 giờ 05 phút. Quân Cọp Biển TQLC đã chiếm được Tổng Nha Cảnh Sát và Đài Phát Thanh Sài Gòn không gặp sức kháng cự đáng kể, Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Đặc Biệt bị tràn ngập. Hôm trước, vị Chỉ Huy là Đại Tá Lê Quang Tung đã bị hạ sát bằng súng lục tại nghĩa trang sau khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu cùng với anh ông là Trung Tá Lê Quang Triệu, vì cả hai thề giữ lòng trung thành với Tổng Thống Diệm. Tư Lệnh Hải Quân, Đại Tá Hồ Tấn Quyền cũng mất mạng. Mất người tư lệnh, các chiến sĩ áo rằn Lực Lượng Đặc Biệt cam chịu tan rã.
4 giờ 30 phút, suốt ba tiếng đồng hồ, tiếng súng giao tranh giữa hai lực lượng trung thành và đảo chánh nỗ dòn dã khắp thủ đô. Dân chúng náo động, xôn xao và chờ đợi tin tức từ Đài Phát Thanh Sài Gòn. Người ta nhớ lại ba năm trước, cũng vào thời điểm này, ngày 11.11.1960 Đài Phát Thanh Sài Gòn cũng đã phát thanh lời hiệu triệu của quân đảo chánh, cùng những bài nhạc hùng quân đội. Nếu một bài nhạc hùng phát lên trong lúc này, thì đó là dấu hiệu của một cuộc đảo chánh khác. Quả thật như thế, sau vài phút phát thanh một bản nhạc quân đội, dân chúng thủ đô và hầu hết các tỉnh Miền Tây qua các làn sóng tiếp vận đã được nghe lời hiệu triệu của Trung Tướng Dương Văn Minh như sau : “Đồng bào thân mến, Kể từ giờ phút này, Quân Đội nhất quyết đứng lên để giải thoát đồng bào ra khỏi ách thống trị độc tài... Ngày mà đồng bào chờ đợi đã đến, toàn thể Quân Đội nhận định, với chế độ hiện hữu, công cuộc chống Cộng và kiến quốc của toàn dân sẽ không có hiệu quả...”. Tướng Minh còn đọc tiếp, với chủ trương tuyệt đối tránh đổ máu, Hội Đồng Tướng Lãnh đã chấp nhận cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm từ chức và rời khỏi Việt Nam ngay lập tức, ông loan báo sẽ có lời từ giã của ông Diệm trên đài phát thanh với tư cách một công dân bình thường..
Từ dinh Gia Long, Tổng Thống Diệm gọi cho đại sứ Hoa Kỳ, ông Henry Cabot Lodge, vừa nhậm chức tại Sài Gòn chỉ mới hồi tháng 8.1963. Chân ướt chân ráo sang Sài Gòn, Cabot Lodge đã rủ rê Trung Tướng Minh, lúc này là Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống, đang ngồi chơi xơi nước và gãi... rốn, đi đánh tennis, rồi nhỏ to thủ thỉ những chuyện tày đình. Cũng cùng thời gian đó, Trung Tá CIA Lucien Conein đến gặp Trung Tướng Trần Văn Đôn, Tham Mưu Trưởng quân đội để nghe Đôn xác định kế hoạch đảo chánh đã được soạn thảo và sẵn sàng thi hành. Gần ngày đảo chánh, Conein có xách một cặp táp chứa 40 ngàn mỹ kim, khoảng hơn hai triệu đồng Việt Nam, trao cho ông Đôn, có lẽ để chi dùng chuyện cần thiết. Số tiền này sau ngày 1.11.1963, các tướng phản loạn đã chia nhau mỗi người một ít. Trời ơi, gần hai ngàn năm trước Judas bán Chúa chỉ với 40 mươi đồng bạc, hai ngàn năm sau, các Tướng bán vị nguyên thủ quốc gia VNCH cho ngoại bang chỉ với 40 ngàn mỹ kim. Một con số nhơ nhuốc, mà mỗi khi nhắc lại, hẳn những tướng đảo chánh phải cúi đầu hổ thẹn.
Cuộc nói chuyện với Cabot Lodge đã diễn ra trong một bầu không khí rất lạnh nhạt và đểu cáng từ phía người Mỹ :
Tổng Thống Diệm : Đang có một cuộc đảo chánh chống lại chính phủ, ông đại sứ có hay biết gì về việc này không và tôi muốn biết thái độ của Hoa Kỳ.
Cabot Lodge : Tôi nghĩ rằng tôi không được thông báo tin tức đầy đủ để có thể trả lời câu hỏi của ngài. Tôi có nghe thấy những tiếng súng nổ, nhưng không rõ thực hư. Vả lại bây giờ là 4 giờ rưỡi sáng Hoa Thịnh Đốn, chính quyền Mỹ có lẽ không thể đưa ra được một ý kiến về vấn đề này.
Tổng Thống Diệm : Nhưng chắc chắn ngài cũng có những ý niệm đại khái về vấn đề này. Dù sao, tôi cũng là một vị quốc trưởng, tôi đã cố gắng làm hết bổn phận.
Cabot Lodge : Dĩ nhiên ngài đã làm bổn phận của ngài. Không ai có thể lấy đi cái công của ngài đối với tất cả những gì ngài đã làm. Nhưng bây giờ tôi lo ngại cho sự an toàn của ngài. Tôi được báo cáo rằng những kẻ đảm trách những việc đang xảy ra đề nghị để cho ngài và em ngài bình yên ra ngoại quốc nếu ngài từ chức. Ngài có nghe biết chuyện đó không ?
Tổng Thống Diệm : Không....
Cabot Lodge : Vâng, nếu tôi có thể làm được điều gì cho sự an toàn của bản thân ngài, xin ngài cứ gọi tôi.
Tổng Thống Diệm : Tôi đang tìm cách lập lại trật tự, ngài có số điện thoại của tôi.
Tổng Thống Diệm cúp máy không muốn nói chuyện thêm nữa. Một con cáo già trong ngành nói láo như Cabot Lodge mà lại quá hớ hênh và ấu trĩ khi ở đầu cuộc đàm thoại chối leo lẻo không biết gì về cuộc đảo chánh, nhưng sau đó ông ta đã “nghe báo cáo” nói về ý định của các Tướng phản loạn sẽ để cho ông Diệm và ông Nhu ra đi. Một sự việc tầy trời như thế mà Cabot Lodge nhẩn nha nói rằng Hoa Thịnh Đốn hãy còn... ngủ. Cứ giả sử lúc ấy, ngay giây phút đó, một toán Vẹm xông vào tòa đại sứ Mỹ, để coi Henry Cabot Lodge có són trong... quần và khẩn cấp gọi về Hoa Thịnh Đốn la làng lên kêu cứu hay không, hay là cứ để cho Kennedy ngủ chán chê đã. Một kẻ sĩ đầy hào khí và lòng tự trọng như Tổng Thống Ngô Đình Diệm đời nào người chịu hạ mình van xin sự sống từ bọn người ngoại chủng bất nhân, bất nghĩa và bất trí ấy. Anh Hùng Tử Khí Hùng Bất Tử . Qua những giây phút đàm thoại ngắn ngủi với Cabot Lodge, Tổng Thống Diệm biết chắc người Mỹ đã nhúng tay vào âm mưu ghê tởm này. Chúng có thể giết được cái xác trần của người, chứ làm sao chúng xóa đi được thanh danh, cái phần linh hồn tinh túy của một người lãnh đạo chân chánh Việt Nam. Tôi tiến hãy theo tôi, tôi lùi hãy bắn tôi, tôi chết hãy trả thù cho tôi. Người đời sau càng phỉ nhổ Kennedy và Cabot Lodge bao nhiêu, càng trân trọng tôn vinh Tổng Thống Diệm bấy nhiêu.
Trong thời gian đó, Đài Phát Thanh Sài Gòn chính thức loan báo thành phần tướng lãnh và sĩ quan tham dự cuộc binh biến : Các Trung Tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Nguyễn Ngọc Lễ, Trần Văn Minh; các Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm, Mai Hữu Xuân, Trần Tử Oai, Lê Văn Kim, Phạm Xuân Chiểu, Tôn Thất Đính, Nguyễn Văn Là, Trần Thiện Khiêm, Trần Ngọc Tám và Nguyễn Giác Ngộ; các Đại Tá Đỗ Mậu, Nguyễn Khương, Dương Ngọc Lắm, Nguyễn Văn Thiệu; các Trung Tá Lê Nguyên Khang, Khổng Văn Tuyên, Đỗ Ngọc Nhận và Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Thiệt.
7 giờ 30 phút tối. Tướng Minh gọi điện thoại vào Dinh Gia Long xin nói chuyện với Tổng Thống Diệm, nhưng ông Diệm từ chối, Minh càng tức uất, sát khí đã bốc ngùn ngụt trong đầu ông ta.
8 giờ tối. Ông Cao Xuân Vỹ, một nhân vật lãnh đạo cao cấp của Đoàn Thanh Niên Cộng Hòa, đã tìm đâu ra được một chiếc xe màu đen cũ, có lẽ là chiếc Traction, chạy vào sau khuôn viên Dinh Gia Long rước Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Chính Trị Ngô Đình Nhu vượt qua được vòng vây quân đảo chánh. Hai anh em ông Diệm đã theo một đường hầm bí mật thoát ra ngoài. Chiếc xe cũ mèm không ai buồn để ý đến hóa ra lại vô cùng đắc dụng. Ông Vỹ chở Tổng Thống Diệm chạy vào Chợ Lớn trú ngụ trong nhà thương gia Mã Tuyên, một người Tàu có nhiều mối giao hảo tốt với gia đình ông Diệm. Được tin Tổng Thống Diệm đã tìm được chỗ ẩn lánh an toàn, các chiến sĩ thuộc Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống tổ chức vị trí kháng cự ở Dinh Gia Long và Thành Cộng Hòa, thề tử thủ và trung thành với chế độ đến cùng. Quân đảo chánh gặp rắc rối to, các tướng lãnh chủ chốt như Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim và Tôn Thất Đính sợ xạm cả mặt.
Tuy là trong một tình trạng căng thẳng ghê gớm như thế, những chiến sĩ đôi bên chỉ chỉa súng lên trời nổ lóc bóc ầm ĩ nghe cũng kinh khủng, xe tăng bao vây coi bộ hầm hừ dữ lắm, thiết giáp bên trong vòng rào dinh tổng thống cũng chỉa ra nghênh chiến. Tình thật thì chẳng người lính nào nỡ hạ súng xuống bắn vào những người cùng chung màu áo treillis. Cho nên khi cuộc đảo chánh thành công, con số thiệt hại nhân mạng thật ít ỏi, ngoại trừ một vài trường hợp rủi ro. Đến giờ phút này Tổng Thống Diệm vẫn còn hy vọng vào lực lượng cứu nguy từ Quân Khu II Cao Nguyên, ông đã liên lạc được với Trung Tướng Nguyễn Khánh kêu gọi ông đem quân về giải vây. Tướng Khánh lừng khừng trả lời, rằng ông muốn lắm nhưng đã trễ mà đường về thì xa diệu vợi. Thật tình thì Tướng Khánh đánh hơi thấy gió đã đổi chiều, nên 4 giờ sáng ngày 2.11.1963 ông đã đánh điện về Sài Gòn ủng hộ quân đảo chánh.
Vẫn không có báo cáo lạc quan nào từ phía Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù và Thiết Giáp, các tướng đảo chánh lệnh cho Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh tiến lên làm nỗ lực chánh tấn công Dinh Gia Long. Ngay từ đầu cuộc động binh, Đại Tá Thiệu thừa khôn ngoan, ông chùng chình án binn bất động, không muốn tay vấy vào chàm, từ tận thâm tâm ông còn nhớ rằng mình vẫn là một đảng viên Đảng Cần Lao của chính quyền (Nền Đệ Nhứt Cộng Hòa có hai lực lượng chính trị chánh phụ thuộc vào chính quyền là Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia và Đảng Cần Lao. Đảng Cần Lao là sáng kiến tư duy của ông Ngô Đình Nhu, được xem như một cái đối trọng của Đảng Lao Động của cộng sản Hà Nội). Nhận lệnh, Đại Tá Thiệu điều động quân bộ binh “đánh” vào chiến lũy của Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống. Vẫn chẳng ăn cái giải gì, vì đôi bên làm sao nỡ lòng bắn nhau. Súng vẫn nổ rền trời suốt đêm.
0 giờ 10 phút. Bộ Chỉ Huy của quân đảo chánh đặt tại đường Phạm Ngũ Lão, sau bến xe buýt Sài Gòn, quyết định tổ chức một cuộc hành quân liên binh đại qui mô. Nhiều chiến xa và thiết vận xa từ mạn Chợ Lớn theo đường Trần Hưng Đạo ầm ầm tiến ra Sài Gòn. Các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến được điều động dọc theo hai bên đường chạy theo chiến xa. Khi đến Công Trường Diên Hồng, tất cả đều dừng lại để chiến xa và M 113 chuẩn bị đội hình tấn công.
4 giờ sáng. Chiến xa và các đơn vị bộ binh tiến về hướng Dinh Gia Long theo những ngã Pasteur, Công Lý và Lê Thánh Tôn. Máy phóng thanh của quân đảo chánh không ngớt kêu gọi Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống đầu hàng.
5 giờ sáng ngày 2.11.1963.. Buổi sáng sớm, sau khi đã cùng ông Nhu sang Nhà Thờ Cha Tam cầu nguyện lần cuối cùng, Tổng Thống Diệm quyết định bỏ cuộc. Ông cảm thấy cô đơn và mệt mỏi lắm rồi. Điều mà người còn có thể làm được là gọi điện lệnh cho Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống buông súng để tránh thương vong cho các chiến sĩ trung thành của ông. Tổng Thống Diệm gọi điện thoại cho Tướng Minh loan báo ý định đầu hàng, với điều kiện cùng ông Nhu được ra ngoại quốc. Tướng Minh chấp nhận ngay, không phải vì lòng từ tâm, mà là muốn bắt được Tổng Thống Diệm càng sớm càng tốt, khỏi lo hậu họa về sau. Khi hai anh em ông Diệm đã nằm trong tay Tướng Minh rồi thì... cuộc báo oán trả hận sẽ dễ dàng biết bao nhiêu.
6 giờ 30 sáng. Tướng Minh chỉ định Tướng Mai Hữu Xuân, Đại Tá Dương Ngọc Lắm, Đại Tá Nguyễn Văn Quang, Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa, Đại Úy Nguyễn Văn Nhung lên 2 chiếc xe Jeep và một chiếc thiết vận xa M113 đi đón anh em Tổng Thống Diệm. Sự có mặt của Xuân dường như là để giám sát, bảo đảm công tác mật được hoàn thành. Tướng Đôn chuẩn bị một căn phòng tươm tất để anh em Tổng Thống Diệm tạm ngơi nghỉ. Đến Nhà Thờ Cha Tam, Đại Úy Nhung thô bạo chỉa súng vào Tổng Thống Diệm và ông Nhu buộc lên xe thiết giáp. Ông Nhu phản đối, đòi Nhung phải lễ độ với vị nguyên thủ, Nhung sừng sộ đấm ông Nhu một cái vào mặt, xô hai anh em ông vào lòng xe, rồi dùng dây thô bạo trói quặt tay hai người ra phía sau lưng.
Trong khoảng 8 giờ – 9 giờ sáng. Đoàn xe áp tải anh em Tổng Thống Diệm chạy đến gần đường rầy xe lửa, khoảng đường Phan Thanh Giản – Ngã Bảy Lê Văn Duyệt. Lợi dụng có một đoàn xe lửa đang ầm ầm chạy cắt ngang, Nhung bất ngờ móc súng bắn lén Tổng Thống Diệm và ông Nhu từ phía sau, súng kê vào màng tang phải Tổng Thống Diệm và sau ót ông Nhu. Hai cái xác oan khuất ngã nằm dài sóng soãi trên nền chiếc xe thiết giáp, một giòng máu đỏ tuôn ướt đẫm đầy mặt Tổng Thống Diệm. Vẫn chưa thỏa mãn cơn cuồng sát, Nhung rút lưỡi lê đâm thêm trên lưng ông Nhu nhiều nhát nữa. Khi đoàn xe chạy vào Bộ Tổng Tham Mưu, nơi đặt bản doanh của bộ chỉ huy đảo chánh, Đại Úy Nhung bước ra đứng nghiêm chào Tướng Minh đang nôn nóng đứng chờ :”Mission accomplie” (sứ mạng hoàn thành). Những nhân vật liên can đến cuộc áp tải và hạ sát Tổng Thống Diệm và ông Nhu đều được thăng một cấp. Tuy rằng với công trạng giết chúa ấy, Đại Úy Nhung được vinh thăng Thiếu Tá, nhưng chưa đủ thời gian để tiêu hóa cuộc vinh quang, thì Nhung đã bị chính quyền Quốc Trưởng Nguyễn Khánh bắt nhốt vào quân lao trong Bộ Tổng Tham Mưu, sau tháng 1.1964, khi ông Khánh đã làm “cách mạng” lật đổ ông Minh rồi cho ông ta đi Thái Lan. Tự biết tội nghiệt đã nhiều và hãi sợ lưỡi gươm công lý, Nhung cởi giây giày tự thắt cổ chết.
10 giờ 45 phút. Trung Tướng Minh ra lệnh cho Đài Phát Thanh đọc một bản tin ngắn, loan báo anh em Tổng Thống Diệm đã tự tử. Chỉ một khoảnh khắc ngắn sau, Tổng Thống Hoa Kỳ Kennedy ở Hoa Thịnh Đốn đã nhận được tin cái chết thảm thương của Tổng Thống Diệm. Mặt trắng bệch như một cái xác chết, Kennedy lặng lẽ đi vào văn phòng riêng đóng cửa, tự ngăn cách với thế giới bên ngoài. Phó Tổng Thống Lyndon Johnson, một người có rất nhiều cảm tình với nền Đệ Nhất Cộng Hòa và Tổng Thống Diệm, sau này đã kêu lên khi hồi tưởng lại giây phút ghê tởm đó : “Chúng ta đã nhúng tay vào vụ giết ông Diệm ”. Có phải chăng hung bạo và tàn nhẫn với bạn đồng minh, hèn nhát khiếp nhược trước “kẻ thù” là bản chất của những người làm chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Câu trả lời này ngày nay đã được giải đáp thật rõ ràng, chúng ta không cần phải dẫn giải thêm nữa.
Để điều hành guồng máy quốc gia trong thời gian chuyển tiếp, thành phần Ủy Ban Chấp Hành Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng được công bố như sau và được Tướng Minh ký hiệu lực ngày 5.11.1963 :
Chủ Tịch : Trung Tướng Dương Văn Minh.
Đệ Nhứt Phó Chủ Tịch : Trung Tướng Trần Văn Đôn.
Đệ Nhị Phó Chủ Tịch : Trung Tướng Tôn Thất Đính.
Ủy Viên Kinh Tế : Trung Tướng Trần Văn Minh.
Ủy Viên An Ninh : Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu.
Ủy Viên Quân Sự : Trung Tướng Trần Thiện Khiêm.
Ủy Viên Chánh Trị : Thiếu Tướng Đỗ Mậu.
Tổng Thư Ký kiêm Ủy Viên Ngoại Giao : Trung Tướng Lê Văn Kim.
Ủy viên : Trung Tướng Mai Hữu Xuân.
Ủy viên : Trung Tướng Lê Văn Nghiêm.
Ủy viên : Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thiệu.
Ủy viên : Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có.
Song song với Ủy Ban Chấp Hành Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ được chỉ định giữ chức Thủ Tướng của thành phần Chánh Phủ Lâm Thời kiêm Tổng Trường Kinh Tế và Tổng Trưởng Tài Chánh, hiệu lực từ ngày 4.11.1963.
Nói một cách thật công bằng, thì ông Nolting đại sứ tiền nhiệm, đương kim ngoại trưởng Dean Rusk, các thượng nghị sĩ Hubert Humphrey, Mansfield, Fulbright, Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara, nhiều yếu nhân trong các ngành lập pháp, hành pháp, tư pháp, tôn giáo và quân đội Hoa Kỳ dành rất nhiều thiện cảm đến cá nhân Tổng Thống Diệm, cùng những thành tích quân sự, kinh tế chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã kiến tạo được. Dù là một nước đang trong tình trạng chiến tranh, mà VNCH vẫn vươn lên được hàng cường quốc trong vùng Đông Nam Á. Nhưng những thành quả đó, những ý chí chống cộng của Tổng Thống Diệm và quân dân VNCH không nằm song hành với cái gọi là “quyền lợi của người Mỹ”. Tổng Thống Ngô Đình Diệm muốn thiết lập một đất nước dân chủ, độc lập và cộng hòa, theo đuổi lý tưởng tự do, bảo vệ chủ quyền dân tộc, kiến tạo một quốc gia thịnh vượng sánh vai với các cường quốc năm châu. Người Mỹ không đủ kiên nhẫn để nghĩ quá xa và quá nhiêu khê như thế, họ chỉ muốn ngăn chận ảnh hưởng cộng sản từ Hoa Lục tràn xuống khu vực Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương, củng cố vị thế của Mỹ ở Á châu, lấy VNCH làm bức tường thành mà được chất chồng bằng xương và máu của người Miền Nam.
Tổng Thống Diệm tỏ rõ chủ quyền quốc gia khi ông rất cứng rắn khước từ yêu cầu của Kennedy cho đổ quân Mỹ vào Việt Nam. Tổng Thống Diệm cho rằng người quốc gia đủ sức đương đầu và chiến thắng Hà Nội nếu nhận được viện trợ vũ khí và tài chánh đầy đủ từ Hoa Kỳ. Tổng Thống Diệm chỉ cho phép sự hiện diện của Quân Đội Mỹ, nếu chính quyền Hoa Kỳ chính thức ký một hiệp ước an ninh hỗ tương với Việt Nam Cộng Hòa, điều mà người Mỹ đã làm với Nam Hàn và Đài Loan. Nếu không, sự hiện diện bất hợp pháp của quân Mỹ ở Miền Nam hóa ra là một cuộc xâm lăng và phi nghĩa, là cái cớ để cộng sản cao rao sứ mạng “chốmg Mỹ xâm lược”. Tiên kiến của Tổng Thống Diệm đã được chứng minh chỉ hai năm sau, năm 1965, quân Mỹ đổ bộ lên bãi biển Đà Nẵng. Khi đã đạt được những thỏa thuận với Hoa Lục Trung Cộng rồi, chính quyền Mỹ trở mặt ngay với đồng minh và nhổ ngay nước bọt lên bia mộ của 58 ngàn tử sĩ cùng 300 ngàn thương binh Quân Lực Hoa Kỳ hy sinh hay thương tật tại Việt Nam.
Để bào chữa cho tội ác của mình, người Mỹ đã thực hiện một cuộc tuyên truyền rộng lớn mà ảnh hưởng sâu đậm của nó vẫn còn kéo dài đến tận ngày nay, với sự tham dự hùng hậu của nhiều giới trí thức, học giả, sử gia, truyền thông, báo chí cùng viết sách, viết báo, làm phim tài liệu giả tạo đổ vấy tất cả mọi tội lỗi không có thật lên chính quyền Đệ Nhứt VNCH , cá nhân Tổng Thống Diệm và anh em ông. Đến nay đã có hàng chục ngàn cuốn sách vu khống, bôi nhọ cả hai nền Đệ Nhứt và Đệ Nhị Cộng Hòa. Chỉ nói về nền Đệ I Cộng Hòa thôi, thì xin những thành phần nói trên trả lời với công luận thế giới tại sao Tổng Thống Kennedy có thể bổ nhiệm ông Robert Kennedy làm Bộ Trưởng Tư Pháp, mà Tổng Thống Diệm lại không thể bổ nhiệm ông Ngô Đình Nhu làm Cố Vấn Chính Trị.
Bốn mươi ba năm hồi tưởng lại một giai đoạn đen tối của lịch sử với cái chết bi thảm của Tổng Thống Diệm, để nhận ra rằng một con người mà đã dâng hiến trọn cuộc đời cho dân tộc và đất nước ấy, dù có bao nhiêu cuốn sách hay bài viết vu khống, bôi nhọ, nhưng hình ảnh một lãnh tụ kiệt xuất nhất của Việt Nam trong nửa sau thế kỷ 20 là Tổng Thống Diệm vẫn luôn là ánh sao chói chang trong lòng người hậu thế và trong lịch sử. Dĩ nhiên Tổng Thống Diệm đâu phải là một ông thánh, để không có những lỗi lầm đáng tiếc, nhưng ông chưa bao giờ có những hành động làm dân tộc ông hỗ thẹn. Trái lại, Tổng Thống Diệm đã để lại trong lòng thế hệ sau tấm gương bất khuất của một sĩ phu : Uy Vũ Bất Năng Khuất. Dân tộc Việt Nam luôn ngẫng cao đầu hãnh diện có một vị lãnh đạo không bao giờ chịu cúi đầu khuất phục trước ngoại bang, dù đó là người Pháp, người Tàu hay người Mỹ. Chúng ta và các thế hệ Việt Nam sau nên ghi khắc trong tim niềm kiêu hãnh này : Trong sử sách Đông, Tây và của cả cộng sản, chưa từng có sử gia nào dám gọi Tổng Thống Ngô Đình Diệm là bù nhìn của Pháp hay Mỹ. Sĩ khí của một nhà nho dân tộc trong con người ông trước những cơn phong ba bão tố như là một cây thông vươn cao ngạo nghễ. Thông chỉ có thể bị trốc gốc, chứ không thể bị bẽ gãy. Tổng Thống Diệm tin tưởng Thiên Mệnh đã chọn ông, đã trao cho ông trọng trách lèo lái con thuyền quốc gia. Người muốn thiết lập một chính thể và một chính quyền theo mô thức Vương Đạo mà người đã được thấm nhuần trong kinh sử Nho giáo từ thời niên thiếu. Chỉ tiếc rằng người là một nhà nho cô đơn ở giữa một thời thế nhiễu nhương, cả bạn lẫn thù đều kính sợ nhưng căm ghét ông, vì họ không thể so sánh được với ông. Một nhà biên khảo Hoa Kỳ đã kính trọng gọi Tổng Thống Diệm là The Last Confucian : Kẽ Sĩ Cuối Cùng trong thời đại của chúng ta.
Để trả lời những người đã viết sách, viết báo bôi nhọ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, hãy cứ nhìn hàng đoàn người Việt về nước mỗi năm vào dịp 1.11, đã đến hai nấm mộ nhỏ khiêm tốn, một tấm bia mang cái tên Huynh, tức Tổng Thống Diệm, và Đệ, tức ông Ngô Đình Nhu, lũ lượt vào lễ bái khói hương, trước những cặp mắt khó chịu và sự bất lực của chính quyền cộng sản ở Hốc Môn. Đó là câu trả lời rõ ràng nhất, rằng sự thật đã đứng về phía nào. Hàng năm, ở hải ngoại, vào ngày 2.11, nhiều đoàn thể bao gồm mọi thành phần, khuynh hướng chính trị hay tôn giáo, vẫn đều đặn trang trọng tổ chức những buổi lễ Chiêu Hồn và Truy Điệu Tổng Thống Diệm, để tri ân những gì người đã tận tụy hiến dâng cho đất nước và dân tộc của người.
Thời gian đã trả xong mối thù cho Tổng Thống Diệm, một mối hận không phải được vun tưới bằng bạo lực hay bằng máu, mà chỉ đơn thuần được bón bằng sự thật. Sự thật cao hơn tất cả mọi sự hận thù. Giờ đây, chắc ngài, Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà từ lâu trên Cõi Vĩnh Cửu luôn thanh thản nhìn xuống trần gian với tấm lòng bao dung thường hằng, đã tha thứ cho hết thảy con người cùng góp tay đưa đến cái chết của ngài, hay bôi nhọ ngài, vì họ không biết việc họ làm. Chỉ xin ngài hiển hiện ban cho người Việt Nam một phép mầu nhiệm, bởi ngài vẫn chưa hoàn thành công việc mà ngài tâm nguyện lúc còn sống. Là xin hãy đem ánh sáng, bình an, công bằng, tự do và no ấm đến cho 84 triệu người đồng bào đau khổ của ngài vẫn còn oằn oại trong địa ngục cộng sản.
Quân đội là một tập thể lớn nhất trong một quốc gia, được hình thành từ đủ mọi thành phần trong xã hội ở khắp mọi miền đất nước theo luật động viên hoặc tổng động viên ... Vì thế tập thể quân đội rất phức tạp nhưng sự phức tạp này đã được trui rèn trong những lò luyện thép để trở thành một tập thể kỷ luật nhất với trách nhiệm cao quý "Bảo Quốc-An Dân".
Quân Đội Quốc Gia Việt Nam được Quốc Trưởng Bảo Đại thành lập năm 1949 cho đến khi chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa ra đời ngày 26/10/1955, Vị Tổng Thống dân cử đầu tiên của nước Việt Nam, Tổng Thống Ngô Đình Diệm với tư cách là nguyên thủ quốc gia kiêm tổng tư lệnh tối cao đã cải danh Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, danh xưng thân thương này được trân quý giữ cho đến ngày hôm nay và mãi mãi.
Từ sau cuộc chính biến ngày 01/11/1963, cuộc chỉnh lý tháng 01/1964 cho đến năm 1965, tình hình chính trường Miền Nam Việt Nam thật sự rối ren, bất ổn bởi những cơn lốc chính trị ... tên đồ tể Hồ Chí Minh và bọn CSBV đã lợi dụng tình trạng này để gia tăng đánh phá trong mưu đồ thôn tính MNVN. Trước những cơn phong ba chính trị với cơn bão lửa chiến tranh lan dần và sau nhiều phiên họp của Thượng Hội Đồng Quốc gia ... Chính phủ dân sự do Thủ Tướng Phan Huy Quát lãnh đạo đã quyết định trao quyền lãnh đạo đất nước lại cho quân đội.
Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương được thành lập và trình diện trước quốc dân ngày 19/06/1965. Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu với tư cách là Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, đã thay mặt đại gia đình quân đội nhận lãnh trọng trách lèo lái con thuyền Quốc Gia trong cơn nghiêng ngả của đất nước, vì thế ngày 19/06 được gọi là ngày Quân Lực chớ không phải là ngày thành lập Quân Lực VNCH như một số người đã hiểu sai.
Kể từ giờ phút lịch sử này, QLVNCH vinh dự gánh vác thêm trọng trách nặng nề hơn đối với quốc gia, dân tộc ... Người Lính VNCH ngoài trách nhiệm "Bảo Quốc-An Dân", họ còn phải chèo chống con thuyền Quốc Gia trong cơn bão lửa chiến tranh trên dòng sông lịch sử.
Nói đến quân đội là phải nói đến Người Lính, những người đã đem cả cuộc đời, một phần thân thể và sinh mạng để bảo vệ hai chữ Tự Do cho Miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến tang thương kéo dài 20 năm bởi cuồng vọng nhuộm đỏ cả quê hương do tên tội đồ Hồ Chí Minh và bọn CSBV gây nên.
Nhân dịp lễ kỷ niệm Ngày Quân Lực lần thứ 46, người viết xin được trải lòng mình trong những dòng chữ hạn hẹp, kính cẩn Vinh Danh-Tri Ân Người Lính VNCH, những người đặt Tổ Quốc_Dân Tộc lên trên hết, những người trân quý Tổ Quốc-Dân Tộc hơn cả mạng sống của mình.
Trước khi gói trọn cuộc đời trong chiếc áo trận phủ dày bởi khói lửa sa trường, họ là những thanh niên sống dưới khung trời Tự Do của Miền Nam Việt Nam, ý thức được trách nhiệm của người trai trong thời loạn ... Họ từ giã học đường, xếp lại con đường công danh khoa bảng vào trang vở thơm mùi giấy học trò, giã biệt người yêu trong tiếng ve ngân ngày tháng Hạ, những cành phượng vỹ đỏ thắm nhẹ đong đưa trong gió như vẫy tay tiễn người đi khoác chinh y, bạn bè kẻ ở người đi nâng chén quan hà chúc tụng nhau những gì đẹp nhất. Họ hy sinh tình cảm cá nhân, gia đình, người thân, người tình ... đặt bước chân vào cuộc sống quân ngũ bảo vệ, gìn giữ quê hương.
Sau những tháng ngày dài chạy đều bước 1, 2, 3, 4 ... hát vang "chân cứng đá mềm", mũi thở ra khói nơi "thao trường đổ mồ hôi", người thanh niên tuổi trẻ ngày nào đã gột rửa nét thư sinh bằng những giọt mồ hôi của mình ... Mái tóc ba phân, ánh mắt cương nghị, thân thể cường tráng khỏe mạnh được phủ bởi làn da sạm nắng cháy quân trường với lời thề "Vị Quốc Vong Thân" trong ngày lễ mãn khóa ... Người thư sinh ấy đã trở thành đứa con yêu của Tổ Quốc với tên gọi thân thương "Người Lính VNCH".
Người Lính VNCH đem tấm thân được trui rèn từ lò luyện thép, kiến thức quân sự được đào tạo từ mái trường Tổ Quốc mang hành trang "Bảo Quốc -An Dân" hiện diện trên mọi nẻo đường đất nước, gìn giữ quê hương bằng chính sinh mạng của mình.
Người Lính VNCH không đi chinh chiến xây đắp tương lai cho cá nhân mình ... Người Lính VNCH không đem sinh mạng vào vùng lửa đạn đánh đổi quyền cao chức trọng ... Người Lính VNCH không mang giòng máu thắm đổi lấy huy chương trên ngực áo ... Người Lính VNCH không đem một phần thân thể làm nấc thang binh nghiệp ... Người Lính chỉ biết đi chiến đấu cho đất nước yên vui.
Hai mươi năm chinh chiến ... Người Lính VNCH đi miệt mài không ngừng nghỉ, đôi giày trận mòn gót từ miền địa đầu giới tuyến nắng cháy da người ... vùng cao nguyên khô cằn sỏi đá, bụi đỏ mịt mờ ... miền Tây sình lầy nước đọng, rừng già âm u, núi đồi lộng gió cho đến cao vút không gian bao la vương dấu giày trên vùng mây trắng mênh mông ... xa ngút ngàn trùng khơi sóng vỗ lắc lư chiến hạm ... Người Lính đi trong lửa khói mịt mờ, đi trong mưa đạn pháo của quân thù, đi trên xác giặc xâm lăng, ẩn hiện như những bóng ma đi vào mật khu của giặc, âm thầm làm người chiến sĩ vô danh trong công tác đặc biệt "vượt tuyến" ... không nơi nào thiếu vắng bóng dáng Người Lính VNCH, những người đem sinh mạng che chắn cơn bão lửa chiến tranh để mang niềm vui cho đời.
Người Lính đi từ lúc mặt trời còn say ngủ, sương đêm buốt lạnh đôi vai cho đến khi quả cầu lửa khổng lồ chiếu ngay trên đỉnh đầu, bộ chinh y đẫm ướt mồ hôi, thân thể bốc khói ... Người Lính tạm dừng chân lấy nước từ sông hồ, kinh rạch, từ dây rừng đổ vào bọc gạo sấy, nuốt vội vã, hớp ngụm nước mát từ lòng đất mẹ, phì phà vài hơi thuốc lá rồi tiếp tục lên đường ... Hoàng hôn buông phủ, đơn vị tạm dừng quân ... sau khi lót lòng bằng phần lương khô, Người Lính dành chút thì giờ quý báu "từ KBC giá lạnh rừng sâu" trong cái lều vải cá nhân vội vàng viết lá thư tiền tuyến gởi về thăm gia đình ... Kẻ thì thăm hỏi, kính chúc sức khỏe mẹ già vạn an, khói lửa chiến tranh vẫn còn phủ kín quê hương nên con chưa thể về bên mẹ để làm tròn chữ "Hiếu", mong mẹ thứ lỗi cho con. Con vẫn khỏe mạnh, bình an ... Thương nhớ mẹ nhiều ; Người thì cặm cụi bên chiếc balô làm bàn nên nét chữ không ngay, trải nỗi lòng nhung nhớ vợ hiền, con thơ trên trang giấy nhỏ bé ... Thương nhớ em và con thật nhiều. Anh khỏe và an lành ; Người thì nắn nót từng nét chữ yêu thương gởi về người yêu nơi phố thị ... đã từ lâu chưa một lần về thăm ... hẹn ngày hoa giăng đầu ngõ ... Hôn Em ; Kẻ thì nguệch ngoạc đôi dòng thăm bạn bè đang ghìm súng ở một KBC nào đó. Xếp vội những lá thư còn thơm mùi mực, Người Lính vừa chợp mắt thì có lệnh lên đường ... Người Lính tiếp tục bước quân hành, âm thầm khuất vào màn đêm đen tăm tối dưới cơn mưa lạnh buốt để canh giữ quê hương cho người dân tròn giấc ngủ.
Hai mươi năm chinh chiến, hầu như Người Lính không có dư thì giờ nhiều để tắm gội nhưng họ lại là những người tắm nhiều nhất ... họ tắm trên bước quân hành dưới những cơn mưa tầm tả ngày đêm, vừa đi vừa tắm bằng giòng suối mát ngọt ngào nơi núi cao dốc thẳm, sông hồ kinh rạch, họ tắm bằng những giọt nước từ chiếc biđông nhỏ giọt trên đầu dưới sức nóng gay gắt của mặt trời và họ tắm bằng những giòng biển mặn thoát ra từ cơ thể của họ.
Hơn bảy ngàn ngày đêm, Người Lính chưa bao giờ có một lần tròn giấc, Người Lính ngủ trong thức, thức trong từng giấc ngủ ... Người Lính có thể ngủ bất cứ giờ phút nào, bất cứ nơi đâu dù chỉ năm ba phút, ngủ trong lúc di hành, ngủ trong lúc ăn, ngủ trong lúc đang nói chuyện với đồng đội, ngủ dưới cơn mưa tầm tả nơi giao thông hào, ngủ trong lúc đang đánh răng, ngủ ngay cả lúc đang đại hay tiểu tiện ... Có người đã thiếp đi vài phút dưới cơn mưa pháo của quân thù vì họ quá mệt mỏi trong một trận chiến dài nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, trận chiến 510 ngày đêm trên ngọn đồi Tống Lê Chân. Người Lính rất thèm ngủ nhưng Người Lính tự ban "quân lệnh" cho mình không được ngủ khi quê hương còn thao thức vì tiếng súng đạn xâm lăng ... Hầu như Người Lính đi và thức gần trọn cuộc đời khoác chinh y.
Hai mươi năm chinh chiến ... có biết bao nhiêu Người Lính VNCH đã ngủ quên trên chiến địa, trên vùng trời Tổ Quốc Không Gian, dưới lòng Tổ Quốc Đại Dương mãi mãi không trở về với đồng đội ... Bao nhiêu Người Lính VNCH trở về bằng mỗi một tấm thẻ bài lạnh giá hoặc ngủ im lìm trong hòm gỗ cài hoa, không bao giờ biết mặt đứa con thơ vừa cất tiếng khóc chào đời, không được nhìn thấy những giòng lệ trào tuôn trên khuôn mặt người vợ hiền đầu vừa chít vội mảnh khăn tang ... không được vuốt mái tóc người tình hay vị hôn thê mới vừa đeo chiếc nhẫn đính hôn tháng rồi nay tan nát tâm hồn quấn chiếc khăn tang đang gục đầu trên quan tài gỗ được phủ lá quốc kỳ ... không được tự tay lau những giọt lệ từ giòng nước mắt khô cạn của người mẹ già yêu quý.
Hai mươi năm chinh chiến ... bao nhiêu Người Lính VNCH trở về không nguyên vẹn hình hài ... kẻ trở về với một hoặc hai ống tay áo dư thừa ... người thì vĩnh viễn không bao giờ mặc lại được cái quần dài vì đôi chân đã gởi lại chiến trường ... người thì mãi mãi sống trong bóng tối suốt quãng đời còn lại vì họ đã hiến dâng cặp mắt cho hai chữ Tự Do của Miền Nam Việt Nam. Trong thời chiến, họ đem tấm thân gầy chống đỡ giang san ... ngày tàn cuộc chiến, họ lê tấm thân phế tàn chống đỡ tang thương, bất hạnh phủ trùm lên thân phận người thua cuộc kéo dài hơn một phần ba thế kỷ.
Chinh chiến triền miên không biết bao giờ chấm dứt ... Anh miệt mài đi mãi ... đem sinh mạng đi canh giữ quê hương ... lấy máu hồng đi dập tắt ngọn lửa chiến tranh ... đi cho đến khi nào người dân không còn kinh hoàng, hốt hoảng dìu dắt, bồng bế nhau chạy loạn trong khói lửa ngút trời bởi thảm họa chiến tranh do lũ cộng sản gây nên ... đi cho đến khi không còn thảm cảnh đứa bé thơ đang ngậm bầu sữa khô, nút những giọt máu rỉ ra trên xác người mẹ vừa chết bên ven đường bởi đạn thù, pháo giặc ... đi cho đến khi đất nước thật sự thanh bình, người dân được sống an vui, hạnh phúc, tiếng cười đùa của trẻ thơ rộn rã khắp nơi nơi, tiếng ê a hồn nhiên tuổi thơ vang lên dưới mái trường làng rợp bóng mát thanh bình, tự do.
Đường quân hành dịu vợi mù xa ... đôi chân nhỏ bé của Người Lính đã vượt qua ngàn ngàn cây số, bao nhiêu sông hồ kinh rạch, núi thẳm rừng sâu, sình lầy nước đọng, muỗi đỉa bám đen cả thân mình ... gian nan trên mỗi bước đi, hiểm nguy trong từng hơi thở, tử thần lảng vảng bên cạnh, cái chết có thể đến bất chợt trong buổi ăn, giấc ngủ ... Nhưng Người Lính VNCH, những người nguyện hiến dâng cuộc sống cho đời nào có xá chi hiểm nguy, chết chóc khi quê hương còn vang rền tiếng súng xâm lăng. Người Lính VNCH ơi ... Anh thật là cao cả.
Hai mươi năm lao vào vùng lửa đạn do tên Hồ Chí Minh và bọn CSBV gây nên ... Hằng ngàn ngàn quân lệnh ban ra ... phải chiến thắng, phải dứt điểm mục tiêu, phải giải quyết chiến trường không để một tấc đất quê hương, một căn nhà người dân lọt vào tay quân giặc ... Lá Quốc Kỳ màu Vàng Ba Sọc Đỏ thân yêu phải tung bay phất phới trên xác giặc trong thời hạn bắt buộc. Người Lính VNCH nghiêm chỉnh chấp hành quân lệnh không một lời than van, hiên ngang bước vào vùng tử địa, đem máu đào và sinh mạng của mình giành lấy chiến thắng mang về dâng lên Tổ Quốc.
Trước khi đi vào chốn hiểm nguy, lao mình vào vùng lửa đạn, Người Lính VNCH không nghĩ đến gia đình mà chỉ nghĩ đến sự an nguy của quê hương dân tộc ; Trong vùng lửa đạn mịt mờ ... Người Lính VNCH vừa chiến đấu vừa bảo vệ người dân, dù Người Lính bị thương thân thể đẫm máu, họ vẫn cố gắng dìu dắt người dân, bồng bế trẻ thơ, cõng ông lão, bà cụ thoát khỏi vùng hiểm nguy ... Người Lính VNCH chẳng những bảo vệ người dân mà còn chăm sóc, chữa trị vết thương cho những tù binh cộng sản bị bắt trên chiến trường, Người Lính VNCH tự tay băng bó vết thương cho tù binh, đút cho họ ăn từng muỗng cơm, từng ngụm nước, gắn lên môi họ điếu thuốc sau đó tải thương giao họ lại cho các cơ quan thẩm quyền đưa về điều trị vết thương, khai thác và giáo huấn họ trở về con đường chính nghĩa của quê hương dân tộc. Đây là tánh nhân bản của Người Lính VNCH trên con đường lý tưởng "Bảo Quốc-An Dân".
Người Lính VNCH chèo chống con thuyền quốc gia trong cơn bão lửa chiến tranh, cắm ngọn cờ chiến thắng khắp mọi nơi từ giòng sông Bến Hải miền địa đầu giới tuyến dài xuống tận mũi Cà Mau phần đất cuối cùng của quê hương. Sau trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, quân đội CSBV đã kiệt quệ, chiến tranh lắng dịu, quê hương hồi sinh, nắng ấm thanh bình tạm trải dài muôn nơi sau trận chiến kinh hồn, máu và lửa đỏ cả quê hương suốt năm tháng rưỡi trong cuộc chiến tang thương dài triền miên.
"Cờ bay, cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu ...". Trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa kết thúc, Người Lính VNCH đã dùng máu và sinh mạng tạo một chiến công lẫy lừng làm cả thế giới nghiêng mình kính phục ... Lá Quốc Kỳ tung bay khắp mọi miền đất nước dưới tia nắng ấm thanh bình vừa ló dạng nơi chân trời thì cũng là lúc Người Lính VNCH bắt đầu bị trói tay trên bàn cờ chính trị thế giới, để rồi đưa đến cái chết tức tưởi của chính thể VNCH, Người Lính VNCH bị bức tử gãy súng ... Con thuyền quốc gia chuyên chở "Tự Do-Hạnh Phúc" cho người dân Miền Nam Việt Nam trong suốt hai mươi năm đã bị người bạn đồng minh nhẫn tâm nhận chìm vào giòng sông máu của cộng sản ngày 30/04/1975.
Năm vị tướng lãnh cùng một số Quân Cán Chính VNCH các cấp đã quyên sinh theo con thuyền quốc gia nhưng họ không chìm vào giòng sông máu của cộng sản ... Họ miên viễn đi vào lòng đất mẹ, linh hồn quyện vào Lá cờ Hồn Thiêng Sông Núi ... Họ đã hiên ngang, can trường đi bước quân hành cuối cùng trong sự uất nghẹn "gãy súng" để bảo vệ danh dự cho đại gia đình QLVNCH, bảo toàn chính nghĩa Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, để lại ngàn đời sau nhắc nhớ và thương tiếc.
Ngay sau khi Miền Nam Việt Nam lọt vào tay CSBV ... Hằng ngàn Quân Cán Chính VNCH đã bị lũ quỷ đỏ mạo danh "chống Mỹ, cứu Nước" khoan hồng bằng những loạt đạn AK47 hận thù nơì pháp trường thù hận. Hằng trăm ngàn đã được "hòa hợp, hòa giải" bằng gông cùm xiềng xích, biệt giam ngục tối, bằng những cực hình tra tấn dã man, bị bỏ đói, cưỡng bức lao động trong thủ đoạn thâm độc giết dần mòn nơi các trại tù khổ sai, khắc nghiệt mang ba chữ hoa mỹ "Trại Cải Tạo" trên hai miền Nam Bắc.
Những người TPB.VNCH bị lũ quỷ đỏ chà đạp, lết lê hít thở khói xe, bụi đường bên lề cõi sống. Họ uống nước mắt uất nghẹn kéo lê kiếp sống vong quốc hơn nửa cuộc đời ngay chính trên mảnh đất quê cha mà họ đã hy sinh giòng máu, một phần thân thể để gìn giữ.
Lũ cộng sản vô thần không tim óc, độc ác, dã man cũng không buông tha những người đã chết. Chúng tàn phá nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa, tàn nhẫn giẫm lên những nắm xương tàn vô tri, những thân xác mục rã không còn lòng thù hận.
Người Lính VNCH dù đặt bước chân trên con đường vong quốc trước hay sau đều trở thành những người lính già xa quê hương, đã ổn định cuộc sống nơi xứ lạ. Người thì buồn bã khép mắt ra đi vĩnh viễn trong nỗi uất nghẹn không nguôi ... Người thì đã về hưu sau những năm dài tạo lập cuộc sống mới nơi quê người, ngày ngày trông về cố quốc với ánh mắt xa xăm, hơi thở mỏi mòn, chiếc bóng đời đang ngã dần về Tây trên đất khách ... Người thì vẫn tiếp tục cày trả nợ áo cơm ...
Người Lính VNCH đã đi trên đoạn đường chiến binh dài bằng một phần ba đời người ... Sau ngày "gãy súng", họ vẫn cố gắng tiếp tục đi nốt quãng đường quân hành còn lại bằng con đường đấu tranh trong thời gian hạn hẹp của chiếc bóng hoàng hôn trên con đường vong quốc. Họ tranh đấu cho ai ... Họ đã có tự do, cơm no áo ấm, con cái lớn khôn thành đạt, cuộc sống ổn định thì chắc chắn một điều là họ không tranh đấu cho bản thân hay gia đình họ ... Trong thời chiến, họ không đem sinh mạng đi chiến đấu vì danh vọng, địa vị, quyền uy, chức tước thì ngày nay họ không đem tuổi già ra tranh đấu vì bất cứ một tham vọng gì ... Họ chỉ muốn đóng góp những chuỗi ngày còn lại vào công cuộc đấu tranh giải thể lũ bạo quyền CSVN, cho quê hương dân tộc không còn ngập chìm trong bể máu cộng sản ... Họ tranh đấu cho những thế hệ mai sau được hít thở không khí tự do, không còn bị nhồi sọ, cai trị bởi chủ nghĩa cộng sản bệnh hoạn, vô thần, khát máu. Hai mươi năm chinh chiến ...Ba mươi sáu năm vong quốc ... bây giờ họ là những người lính già lưu vong ... con đường chiến binh dang dở năm xưa vẫn chưa thấy đoạn cuối nhưng hơi thở của họ ... đã cạn ...
Hai mươi năm chinh chiến ... Người Lính VNCH không bao giờ đòi hỏi Tổ Quốc bất cứ một điều gì. Người Lính chỉ mong đem cuộc đời của mình đổi lấy hai chữ Tự Do cho quê hương dân tộc cho dù phải trả cái giá đắt nhất là mạng sống.
Hai mươi năm miệt mài đi canh giữ quê hương ... Người Lính VNCH không yêu cầu người dân bất cứ một điều gì cho lợi ích cá nhân. Người Lính chỉ mong muốn nhìn thấy người dân được sống những tháng ngày an vui, hạnh phúc, cơm no, áo ấm dưới nắng ấm thanh bình trên quê hương mến yêu mang tên Việt Nam.
Những năm dài bị lũ giặc thù tra tấn dã man, chết đi sống lại bao nhiêu lần trong các trại tù khổ sai, khắc nghiệt sau ngày "gãy súng" ... Người Lính VNCH không quỵ lụy, lòn cúi kẻ thù để được tồn tại. Người Lính VNCH trước sau vẫn thủy chung với con đường "Lý Tưởng" mà mình đã chọn, vẫn giữ được khí khái , "Danh Dự" của Người Lính VNCH khi bị bức tử trở thành kẻ thua cuộc.
36 năm vong quốc ... bao nhiêu năm đem phần đời còn lại miệt mài tranh đấu ... "Người Lính già xa Quê Hương" không có bất cứ một tham vọng chính trị nào ... Người Lính Già chỉ mong sao đất nước thoát khỏi gông cùm, xiềng xích của lũ cộng sản bạo tàn, độc ác để người dân Việt Nam có được nụ cười "Tự Do-Hạnh Phúc" mãi mãi nở trên môi.
Thanks: 47 times
Was thanked: 110 time(s) in 94 post(s)
Tưởng Niệm Các Chiến Sĩ Hải Quân VNCH (*)
Đã Hy Sinh Tại Hoàng Sa (19 - 01 - 1974)
Mường Giang
Ngay từ thời thượng cổ , người Hán đã kính nể dân Việt vì "họ tuy ở núi mà rất thạo thủy tánh, láy thuyền làm xe, lấy chèo làm ngựa. Ðến thì như gió thoảng, đi thì khó đuổi theo. Tính tình khinh bạc, hiếu chiến, không bao giờ sợ chết và luôn luôn quật khởi với kẻ thù." Bởi vậy suốt dòng lịch sử, Hải quân Việt đã ba lần oanh liệt chiến thắng quân Tàu trên Bạch Ðằng Giang và sông Như Nguyệt cũng như nhiều đia danh khác như Sông Lô, Hội An, Rạch Gầm, Vàm Cỏ.. Cho nên trong Trận Hải Chiến Hoàng Sa vào ngày 19-1-1974 với Trung Cộng, dù bị Hoa Kỳ phản bội và bán đứng nhưng Hải quân VNCH đã anh dũng chiến đấu với giặc Tàu một cách oanh liệt tới giờ phút cuối cùng được lệnh rời bỏ phòng tuyến mới chịu lui quân.
Tháng 7-1954, ngay khi chữ ký trên văn bản ngưng bắn tại Genève chưa ráo mực, thì Hồ Chí Minh đã nghĩ ngay tới chuyện chiếm miền Nam. Do ý đồ trên, Hồ đã gài lại một số lớn cán binh bộ đội nằm vùng khắp lãnh thổ VNCH, khi có lệnh tập kết. Ðể chuyển quân cũng như tiếp tế, Hồ mở con đường chiến lược Trường Sơn trên bộ, xuyên qua lãnh thổ Lào và Kampuchia . Về mặt biển, Hồ thành lập đường 559B giao cho Ðồng văn Cống chỉ huy. Để được an toàn, đầu tiên là phải nhổ tuyệt hai tiền đồn của QLVNCH trấn đóng trên quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, đất đai thuộc lãnh thổ từ lâu đời của dân tộc Ðại Việt, đã được tổ tiên bảo toàn từ thời Hậu Lê, Cá vị Chúa Nguyễn Nam Hà, Nhà Tây Sơn và Nhà Nguyễn.. nằm trong Ðông Hải.
Theo bản tin của UPI-AFB ngày 23-9-1958, được báo chí của Trung Cộng lẫn Việt Cộng đăng tải. Những tài liệu này, hiện vẫn được lưu trữ tại các thư viện quốc tế như Luân Ðôn, Paris, Hoa Thịnh Ðón, Bắc Kinh... kể cả Hà Nội. Nhờ đó, ta mới biết được, vào ngày 14-9-1958, Phạm Văn Ðồng lúc đó là thủ tướng,theo lệnh của chủ tịch nước và đảng VC là Hồ Chí Minh, đả cam kết với Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Cộng, bằng văn kiện xác quyết như sau "Chính phủ VNDCCH, tôn trọng quyết định, lãnh hải 12 hải lý cũng như hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, là Tây Sa-Nam Sa, của Trung Cộng." Ngày 22-9-1958, Ðại sứ VC tại Bắc Kinh là Nguyễn Khang, dâng văn kiện xác nhận điều trên, do Phạm Văn Ðồng ký, lên Thiên Triều.
I-QUẦN ÐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA CỦA VN:
Về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, theo chính sử cũng như những tài liệu của ngoại quốc như Ðại Nam thực lục, Ðại Nam nhất thống chí của Quốc Sử quán triều Nguyễn, Hoàng Việt địa dư chí thời vua Minh Mạng, Quảng Ngãi tỉnh trí của các Tuần Vũ Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Ðình Chi, Quảng Ngãi nhất thống chí của Lê Ngại.đều đề cập tới và xác nhận đó lãnh thổ lâu đời của Ðại Việt. Với các tác phẩm ngoại quốc, có nhiều thiên ký sự của các giáo sĩ Thiên Chúa trên tàu Amphitrite, viết năm 1701, của Ðô Ðốc Pháp tên là D’Estaing viết năm 1768 rằng: "Sự giao thông giữa đất liền và các đảo Paracel (Hoàng Sa) rất nguy hiểm, khó khăn nhưng Người Ðại Việt chỉ dùng các thuyền nhỏ, lại có thể đi lại dễ dàng."
Nhưng quan trọng nhất, là tác phẩm viết về Hoàng Sa của Ðổ Bá tự Công Ðạo, viết năm Chính Hòa thứ 7 (1686), trong đó có bản đồ Bãi Cát Vàng:
"Ðảo phỏng chừng 600 dặm chiều dài và 20 dặm bề ngang. Vị trí nằm giữa cửa Ðại Chiêm và Quyết Mông. Hằng năm vào cuối mùa đông, các chúa Nguyễn Ðàng Trong, cho Hải Ðội Hoàng Sa gồm 18 chiến thuyền đến nơi tuần trú."
Năm 1776, trong tác phẩm "Phủ Biên tạp lục", Lê Quý Ðôn đã viết một cách rõ ràng :
"Trước đây, các Chúa Nguyễn đã đặt Ðội Hoàng Sa 70 suất, tuyển lính tại Xã An Vĩnh, cắt phiên mỗi năm vào tháng 2 ra đi, mang theo lương thực 6 tháng. Dùng loại thuyền câu nhỏ, gồm 5 chiếc, mất 3 ngày 3 đêm, từ đất liền tới đảo."
Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ của VN ngay khi người Việt từ đàng ngoài tới định cư tại Phủ Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi vào khoảng thế kỷ thứ XV sau tây lịch. Hai quần đảo trên nằm ngoài khơi Ðông Hải : Hoàng Sa ở phía bắc và Trường Sa nằm về cực nam gần Côn Ðảo.
1-QUẦN ÐẢO HOÀNG SA:
Nằm giữa hai kinh tuyến đông 111-112 độ và vĩ tuyến bắc 15 độ 45 ố 17 độ 05. Ðây là một chuổi đảo gồm 120 hòn lớn nhỏ nhưng qui tụ thành bốn nhóm chính. Muốn tới đảo, nếu khởi hành từ Ðà Nẳng, bằng tau của Hải quân phải mất 10 giờ (chừng 170 hải lý), theo hướng 083. Bốn nhóm đảo chính là :
a - NHÓM NGUYỆT THIỀM (CROISSANT):
Gồm các đảo:
- Cam Tuyền hay Hửu Nhật (Robert), hình tròn, diện tích om2032, là đảo san hô nên có nhiều phốt phát. Toàn đảo chỉ có chim hải âu trú ngụ , tuyệt nhiên không có bóng người.
- Ðảo Quang Hòa Ðông (Duncan), diện tích 0 km2 48, phía đông đảo là rừng cây phốt phát và nhàn nhàn, phía tây toàn san hô là mơi trú ngụ của chim hải âu.
- Ðảo Quang Hòa Tây (Palon Island), hình tròn, diện tích 0km241, trên đảo toàn cây nhàn nhàn và phốt phát , đảo toàn san hô chỉ có chim ở.
- Ðảo Dung Mộng (Drummond) hình bầu dục, diện tích 0km241, toàn đảo chỉ có nhàn nhàn và phốt phát. Giữa đảo có một vùng đất rộng, thời Ðệ 1 Cộng Hòa trước tháng 11-1963, Tiểu Ðoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến trấn đóng tại đây để bảo vệ lãnh thổ. Hiện trên đảo vẫn cò hai ngôi mộ lính VNCH và 3 ngôi mộ cổ khác với mộ bia viết bằng chử Hán.
- Trong số này quan trong nhất vẫn là đảo Hoàng Sa (Pattle) có hình chữ nhật, chu vi 2100m, diện tích 0km230. Ðảo nay đã được khai phá từ lâu đời, nên có nhiều công trình kiến trúc như Ðồn quân trú phòng, Sở khí tượng, Hải đăng và cầu tàu để các chiếm hạm Hải quân/VNCH cập bến. Trên đảo có một ngôi miếu cổ thờ Bà Chúa Ðảo và do một Trung đội Ðịa Phương Quân thuộc Tiểu Khu Quảng Nam trấn đóng.
b - Ðảo Vỉnh Lạc hay Quang Ảnh (Money) nằm biệt lập không thuộc nhóm đảo Nguyệt Thiềm, hình bầu dục, diện tích 0, 50 km2. Trên đảo toàn nhàn nhàn, phốt phát và một loại cây cao trên 5m, có trái như mít. Toàn đảo không có người ở.
c - Ðảo Linh Côn (Lincoln) cũng năm biệt lập và đã bị Ðài Loan cưởng chiếm vào tháng 12-1946 khi Trung Hoa Dân Quốc, được lệnh LHQ tới đảo giải giới quân Nhật đang trú đóng trên đảo.
d - NHÓM TUYÊN ÐỨC (AMPHITRITE):
Cũng bị Ðài Loan chiếm năm 1946, nằm về phía bắc đảo Hoàng Sa, gồm 16 đảo nhỏ , trong số này quan trong nhất có đảo Phú Lâm (Woody Island) , dài 3700m, rộng 2800m. Trên đảo có nhiều cây ăn trái như dừa, được Nhật Bổn khai thác phốt phát từ thời Pháp thuộc. Năm 1950, Trung Cộng đánh đuổi Tưởng Giới Thạch chạy ra đảo Ðài Loan, chiếm lục địa và luôn các hải đảo của VN, xây phi trường, làm đường xá, lập căn cứ quân sự. Ðây là nơi giặc Tàu phát xuất, tấn công chiếm các đảo của VN sau này.
2 - QUẦN ÐẢO TRƯỜNG SA:
Gồm chín đảo lớn nhỏ, nằm giữa hải phận của cac nước VN, Phi Luật Tân, Srawak(Brunei) Trong số này đảo lớn nhất là Trường Sa (Sparley), dài 700m, ngang 200m, nằm ở kinh tuyến 114 độ 25 và vĩ tuyến 19 độ 10 bắc. Ðảo cấu tạo bởi san hô, có nhiều hải âu trú ngụ, đẻ trứng rất to. Trên đó có nhiều loại cây ăn trái vùng nhiệt đới như dừa, bàng, mù u, nhàn nhàn, rau sam.
3 - TRUNG CỘNG CƯỚP CHIẾM HOÀNG SA *
Thật sự người Tàu chỉ chú ý tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VN từ đầu thế kỷ XX vì dầu hỏa, khí đốt và vị trí chiến lược của hai đảo trên. Sự tranh dành cướp chiếm bắt đầu từ thời VN bị thực dân Pháp đô hộ, vì mất chủ quyền nên không vòm binh lực để bảo vệ lãnh thổ riêng của mình.
- 1907 Tổng đốc Quảng Châu đòi chủ quyền trên đảo Hoàng Sa.
- 1909 Hải quân Nhà Thanh tới Hoàng Sa hai lần, cắm cờ trên đảo và bắn 21 phát đạn đại bác để thị oai.
-Ngày 30-4-1921 chính quyền Quảng Ðông, ký văn thư số 831 tự động sáp nhập quần đảo Hoàng Sa của VN vào đảo Hải Nam nhưng đã bị Triều đình Huế phản đối dữ dội vào năm 1923.
- Năm 1933 , Pháp vì bị báo chí trong nước phản đối dữ dội, nên đã đem hải quân ra đánh đuổi quân Tàu, chiếm lại quần đảo Hoàng Sa, lập đồn binh, cầu tàu, đài khí tượng trên hai đảo chính Hoàng Sa, Trường Sa.
- Tháng 12/1946 Ðài Loan lợi dụng việc giải giới Nhật, đã chiếm đảo Phú Lâm trong nhóm Tuyên Ðức trong quần đao Hoàng Sa. Ðảo này lại lọt vào Trung Cộng khi Mao Trạch Ðông chiếm lục địa Trung Hoa.
- Ngày 4/12/1950 Chu Ân Lai lớn tiếng đòi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VN.
- Năm 1956 Trung Cộng lén lút chiếm thêm đảo Linh Côn trong quần đảo Hoàng Sa, đang thuộc chủ quyền VNCH.
- Ngày 21/12/1959 Hải quân VNCH với sự trợ chiến của Tiểu đoàn 1 Thủy Chiến Lục Chiến, đã đánh Tàu Cộng, chiếm lại các đảo Cam Tuyền, Duy Mộng, Quang Hòa trong nhóm Nguyệt Thiềm, bắt giữ 84 tù binh và 5 thuyền binh nguy trang tàu đánh cá. Ngày 27/2/1959 Trung Cộng sau khi thua trận, đã ra thông cáo mạt sát Chính phủ VNCH xâm phạm chủ quyền của Tàu, vì chính Hô Chí Minh cũng như Pham văn Ðồng đã chính thức xác nhận bằng văn kiện, là hai quần đảo trên qua tên Tây Sa, Nam Sa là lãnh thổ của Trung Hoa. Tuy nhiên để giữ hòa khí giữa hai nước, Tổng Thống Ngô Ðình Diệm đã thả hết số tù binh trên về nước.
Từ ngày 4-9-1958, Trung Cộng vẽ bản đồ mới và tuyên bố lãnh hải của mình là 12 hải lý. Bản tuyên cáo này chỉ có Bắc Hàn công nhận đầu tiên. Tại Bắc Việt, Hồ Chí Minh họp đảng để nhất trí và ban lệnh cho Phạm Văn Ðồng , ký nghị định công nhận ngày 14-9-1958.
Ngày 9-1-1974, Kissinger tới Bắc Kinh mật đàm với Mao Trạch Ðông, được cho coi văn kiện mà Phạm Văn Ðồng đã ký xác nhận , hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VNCH, chính là hai đảo Tây Sa-Nam Sa của Tàu. Theo văn kiện và tuyên cáo lãnh hải 12 hải lý, thì chính VNCH đã chiếm đất của Trung Cộng, từ năm 1958, do VC làm chứng và xác nhận. Ðược cơ hội vàng ròng, tên cáo già Kissinger tương kế tựu kế, nhân danh Nixon, bật đèn xanh, cho Mao đánh VNCH, đề thu hồi lãnh thổ.
Tính đến năm 1974, khi xảy ra trận hải chiến Hoàng Sa, Hải quân VNCH rất hùng hậu với quân số trên 40.000 người (sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ) , phân thành 5 vùng duyên hải và 2 vùng sông ngòi. Hải quân có một hạm đội gồm 83 chiến ham đủ loại. Ðể bảo vệ các sông ngòi, kênh rạch ở Nam phần, Hải quân đã thành lập 4 Lực lượng dặc nhiệm hành quân lưu động, gồm LL tuần thám 212, LL thủy bộ 211, LL trung ương 214 và LL đặc nhiệm 99. Ngoài ra còn Lực lượng Duyên phòng 213, Liên đoàn Tuần giang, 28 Duyên đoàn, 20 Giang đoàn xung phong, 3 Trung tâm Huấn Luyện Hải quân và nhiều căn cứ yểm trợ khắp nơi. Khi xảy ra cuộc hải chiến, Ðề đốc Trần Văn Chơn là tư lệnh Hải quân. Tóm lại Hải quân VNCH rất hùng mạnh trong vùng Ðông Nam Á.
Sau khi đạt được thắng lợi ngoại giao với Hoa Kỳ qua cặp Nixon-Kissinger, đồng thời với sự đồng lỏa của Việt Cộng, nên giặc Tàu quyết tâm chiếm cho bằng được hai quần đảo ngoài Ðông Hải của VNCH. Dã tâm càng lớn từ năm 1973, sau khi được tin các hảng dầu thăm dò cho biết vùng này có trử lượng rất lớn về dầu khí. Lúc đó VNCH cũng đã bắt đầu ký nhiều hợp đồng, cho phép các hảng dầu tới hai vùng đảo trên khai thác.Thế là ngày 11-1-1974, Trung Cộng lại tuyên bố chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa. Ngày 19-1-1974, bất thần Trung Công tấn công Hoàng Sa , gây nên trận hải chiến, tuy ngắn ngủi nhưng đẫm máu. Trung Cộng dù chiếm được đảo nhưng thiệt hại gấp 3 lần VNCH.
Quần đảo Hoàng Sa thời Ðệ I Cộng Hòa (1955-1963) thuộc tỉnh Quảng Nam. Cũng trong thời kỳ này, chính phủ đã ban hành sắc lệnh số 134/NV ban hành năm 1956, sáp nhập quần đảo Trường Sa, vào tỉnh Phước Tuy. Nghị định số 241/BNV ban hành ngày 14-12-1960, do chính Tổng thống Diệm bổ nhiệm Nguyễn Bá Thước làm Phái viên hành chánh Hoàng Sa. Lại phối trí Tiểu đoàn 1 TQLC trú đóng khắp các đảo, để bảo vệ lãnh thổ VNCH.
II - HẢI CHIẾN HOÀNG SA GIỮA HẢI QUÂN VNCH VÀ TRUNG CỘNG:
Như thường lệ, vào ngày 18-1-1974 gần tới Tết Âm Lịch Nhâm Dần. Lúc đó Tuần Dương Hạm HQ.16 Lý Thường Kiệt, khởi hành từ Ðà Nẳng với công tác chuyển vận Ðơn vị Ðịa Phương Quân của Tiểu khu Quảng Nam , ra Hoàng Sa hoán đổi định kỳ. Trong chuyến công tác trên, còn có một Phái đoàn khảo sát điạ chất , gồm 7 sĩ quan công binh và hải quân. Ngoài ra còn có một người Mỹ tên Gerald Kosh, là nhân viên tùng sự tại Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ Vùng I Chiến thuật. Trước khi vào đảo đổi quân, tàu HQ.16 đã vòng các đảo để kiểm soát, nên đã phát hiện được nhiều tàu chiến của Trung Cộng sơn màu xanh ô liu, ngụy trang như các tàu đánh cá, trang bị toàn vũ khí nặng. Trong lúc đó còn có nhiều tàu chiến khác đang di chuyển từ đảo Phú Lâm, tiến về các đảo Quang Hòa, Duy Mộng và Hoàng Sa.Do tình hình quá khẩn cấp, nên HQ.16 đã báo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Chiến thuật, nên được tăng cường thêm các Chiến hạm như Khu trục hạm Trần Khánh Dư, Tuần dương hạm Trần Bình Trọng và Hộ tống hạm Nhật Tảo. Tuy nhiên tất cả đã được lệnh Trung ương, chỉ phòng thủ không được tấn công trước khi địch chưa khai hỏa.
Theo sử liệu, trong trận hải chiến này, lực lượng hải quân của Trung Cộng rất hùng hậu vì đã chuẩn bị trước. Thành phần tham chiến gồm:
- Hộ tống hạm 271 Kronstadt, Ðại Tá Vương Kỳ Uy là hạm trưởng, tử thương.
- Hộ tống hạm 274 Kronstadt, Hạm trưởng là Ðại Tá Quan Ðức. Ðây cũng là Soái hạm, chỉ huy trận chiến, gồm Tư lệnh là Ðô Ðốc Phương Quang Kính, cũng là Phó tư lệnh của Hạm Ðội Nam Hải. Sau trận đánh, toàn bộ chỉ huy của Trung Cộng trên Soái Hạm này, gồm 2 Ðề Ðốc, 4 Ðại Tá, 6 Trung Tá, 2 Thiếu tá và 7 Sĩ Quan Cấp uý, đều bị trúng đạn đại bác tử thương.
- Trục lôi hạm 389, hạm trưởng là Trung Tá Triệu Quát tử thương.
- Trục lôi hạm 396, Hạm trưởng là Ðại Tá Diệp Mạnh Hải, tử thương.
- Phi Tiễn Ðỉnh 133 Komar, có hỏa tiễn địa điạ Styx, Hạm trưởng là Thiếu tá Tôn Quân Anh.
- Phi tiễn đỉnh 137 Komar, có hỏa tiễn địa địa Styx, Hạm trưởng là Thiếu Tá Mạc Quang Ðại.
- Phi tiễn đỉnh 139 Komar có hỏa tiên, Hạm trưởng là Thiếu tá Phạm Quy.
- Phi tiễn đỉnh 145 Komar có hỏa tiễn, Hạm trưởng là Thiếu Ta Ngụy Như
- và 6 Hải Vận Hạm chở quân chiến đấu.
- Ngoài ra còn một lực lượng trừ bị gồm 2 Tuần Dương Hạm, 4 Pháo Hạm, 4 Khu trục Hạm , trang bị hỏa tiễn Kiangjiang, 2 Phi đội Mig 19 và 2 phi đội Mig 21, do tư lệnh Hạm Ðội Nam Hải, tổng chỉ huy.
Bên VNCH, lực lượng tham chiến gồm
- Khu Trục Hạm HQ4 Trần Khánh Dư, Hạm Trưởng Trung Tá HQ.Vũ Hữu San.
- Tuần Dương Hạm HQ5 Trần Bình Trọng , Hạm trưởng Trung Ta HQ Phạm Trọng Quỳnh.
- Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10, Hạm Trưởng Trung Tá HQ.Ngụy Văn Thà. Trong khi giao chiến, HQ10 bị trúng đạn, toàn thể thủy thủ xuống xuồng nhỏ, thì Hạm Trưởng ở lại tuấn quốc với chiến hạm.
- Tuần Dương Hạm HQ16, Hạm Trưởng là HQ.Trung Tá Lê Văn Thư.
- Về lực lượng trừ bị,, có Tuần Dương Hạm HQ6 Trần Quốc Toản,
- Hộ Tống Hạm HQ11 Chí Linh và Phi Ðoàn F5-A37, nhưng vì ở cách xa chiến trường, nên khi chưa tới nơi, thì chiến cuộc đã tàn...
Kết quả, phía VNCH, các chiến hạm 4, 5 và 16 bị hư hại nặng nhưng chạy được về Ðà Nẳng sửa chữa và tiếp tục hoạt động sau đó. Chỉ có Chiến Hạm HQ10 bị chìm, Hạm trưởng Ngụy Văn Thà, bị thương nhưng quyết ở lại chết với tàu.
Về phía Trung Cộng, Tư Lệnh Mặt Trận, Bộ Tham Mưu và 4 Hạm Trưởng tử thương. Hộ Tống Hạm 274 bị chìm, Hộ Tống Hạm 271 và 2 Trục lôi hạm 389-396 bị hư nặng và phá hủy cùng với 4 ngư thuyền bị bắn chìm.
Có một điều bi thảm mà hiện nay ai cũng biết, là hầu hết các Chiến hạm mà Hoa Kỳ đã viện trợ cho Hải Quân VNCH, đều được hạ thủy năm 1940 loại phế thải được tân trạng. Bốn Chiến hạm tham chiến năm 1974 được coi là tối tân nhất, vì HQ4 hạ thủy năm 1943, HQ5 hạ thủy năm 1944, HQ10 hạ thủy năm 1942 và HQ16 hạ thủy năm 1942. Riêng các vũ khí trên tàu, các loại súng liên thanh đều được gở bỏ , khi cho VNCH. Nhưng dù quân lực Miền Nam ít, chiến hạm vừa cũ kỹ lại nhỏ, vũ khí trang bị, chỉ có đại bác nhưng vì Các Sĩ Quan Hải Quân VNCH đều được huấn luyện như Âu Mỹ, rất thiện chiến và tài giỏi. Cho nên đã tác xạ rất chính xác, làm nhiều tàu giặc cũng như Hạm trưởng tử thương. Tệ nhất là người Mỹ, lúc đó vẫn còn là đồng minh của QLVNCH, vẫn đang có hiệp ước hỗ tương chiến đấu và bảo vệ cho nhau. Vậy mà khi cuộc chiến xảy ra, Hạm Ðội 7 Hoa Kỳ đang tuần hành gần đó, chẳng những đã không lên tiếng, không can thiệp mà ngay thủy thủ VNCH bị chìm tàu,, cũng không thèm cứu vét, theo đúng luật hàng hải quốc tế.
Theo các nhân chứng đã tham dự cuộc hải chiến kể lại, thì lúc đó các chiến hạm của Hải quân/VNCH , đã chống trả với giặc rất dũng mãnh, nên chỉ trong mấy phút đầu, đã có nhiều tàu chiến của Trung Cộng đã bị bắn chìm. Về phía VNCH, Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HO.16, bị bắn trúng bánh lái và sườn tàu, được HQ.11 dìu về Ðà Nẳng. Trên chiến trường lửa máu, chỉ còn HQ.10 và Hộ tống hạm Nhật Tảo, vùng vẩy chiến đấu vời hằng chục chiến hạm của Trung Cộng, được Không quân từ các căn cứ trên dảo Hải Nam tới yểm trợ.
Cuối cùng Hộ tống hạm Nhật Tảo đã bị bắn cháy và chìm giữa biển Ðông. Hạm trưởng chiến hạm này là Trung Tá HQ. Ngụy Văn Thà, tốt nghiệp khóa 12 sĩ quan hải quan Nha Trang, sinh năm 1943 tại Trảng Bàng, Tây Ninh. Khi tàu lâm nạn, với tư cách là chỉ huy trưởng, Trung Tá Thà đã ra lệnh cho Hạm Phó là Thiếu Tá HQ. Nguyễn Thành Trí, sinh năm 1941 tại Sa Ðéc, Tốt nghiệp khóa 17 sĩ quan hải quân/Nha Trang, hướng dẫn số quân nhân còn sống sót, trong tổng số 80 người trên tàu, dùng bè cao su về đất liền. Riêng Ông ở lại chết với tàu.
Trên biển, Thiếu tá Trí vì bị thương nặng nên đã chết trên bè, trước khi các quân nhân còn lại, được thương thuyền Skopionella của Hòa Lan, trên đường từ Hồng Kông đi Tân Gia Ba, cứu sống vào đúng đêm giao thừa Tết âm lịch Nhâm Dần (1974). Sau đó 22 quân nhân này được một chiến hạm cũa Hải Ðội 1 Duyên Phòng, đón về đất liền. Còn 16 Biệt Hải của Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt, có lệnh giữ đảo Vĩnh Lạc, sau khi Hòang Sa thất thủ, đã dùng bè cao su vượt biển về đất liền. Lênh đênh nhiều ngày trên sóng nước, nắng mưa gió lạnh, cuối cùng cũng được một Tàu đánh cá cứu thoát đưa về điều trị tại Quân Y Viện Qui Nhơn, 2 người chết vì đói lạnh, số còn lại may mắn thoát được tử thần.
Cuộc hải chiến chấm dứt, các chiến hạm của VNCH đều rút lui, vì Hoàng Sa đã thất thủ. Bấy giờ giặc Tàu mới bắt đâu thu dọn chiến trường và xua quân chiếm đóng tất cả các đảo. Về phía VNCH còn kẹt lại trên đảo, gồm Trung đội DQP.Quảng Nam, các quân nhân Hải quân, 7 Sĩ quan công binh trong toán khảo sát địa chất, 4 nhân viên sở khí tượng và 1 người Mỹ làm việc ở Tòa lãnh sự Hoa Kỳ thuộc Quân đoàn 1. Tổng cộng là 42 người, đều bị giặc bắt làm tù binh, giải về thành phố Quảng Châu và giam trong một trại tù, cạnh dòng sông Sa Giang. Ðây cũng chính là nơi mà hơn mấy chục năm về trước, anh hùng Phạm Hồng Thái đã gieo mình tự vẫn, để không bị sa vào tay giặc Pháp, sau khi ném bom ám sát hụt Merlin, toàn quyền Ðông Dương đang có mặt tại Hồng Kông vào năm 1924.
Lúc đó đúng 8 giờ sáng ngày mồng một tết nguyên đán, thời gian hạnh phúc nhất của các dân tộc Á Ðông vui xuân theo âm lịch, trong đó có VNCH. Riêng 42 tù binh VN liên tục bị bọn an ninh Trung Cộng, tra vấn, bắt buộc phải nhận tội là đã chiếm đóng bất hợp pháp lãnh thổ của Tàu. Nhưng rồi không biết vì sao, Ðặng Tiểu Bình ra lệnh phóng thích tất cả, đưa tới Hồng Kông để mọi người hồi hương.
Lịch sử lại tái diển, ngày 14-3-1988, Trung Cộng lại nổ súng vào Hải quân Việt Cộng, tại quần đảo Trường Sa. Trong cuộc hải chiến ngắn ngủi này, vì VC chỉ phản ứng có lệ, nên tài liệu cho biết phía Trung Cộng, không có ai bị tử thương cũng như tàu chìm. Ngược lại, bên VC có nhiều tàu chiến bị chìm, gồm : Chiến Hạm Thượng Hải của Tàu viện trợ, 1 Tuần Dương Hạm củ của VNCH để lại, 1 Hải Vận Hạm của Nga Sô viện trợ và trên 300 lính Hải quân bị thương vong.
Thương biết bao những anh hùng vị quốc, trong đó có những chiến sĩ Hải quân/VNCH năm nào, đã anh dũng chống giặc Tàu xâm lăng, như tổ tiên ta đã bao đời banh thây đổ máu để có "Nam quốc sơn hà, nam đế cư" nhưng ngày nay đã bị CSVN hũy diệt gần như tận tuyệt từ đất liền ra tới biển đảo !
NGHICH CẢNH LÀ ĐỘNG LỰC THỨC ĐẨY CON NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH
Hãy để tổn thương thành dinh dưỡng cho ta trưởng thành, bởi không có điều gì là vô cớ xuất hiện trong đời bạn
Trong dòng người vội vã, rất nhiều người đều là có duyên với bạn mà tới. Dù chỉ là ngồi chung một chuyến xe, trú mưa cùng một chỗ, hay chỉ nhìn thoáng qua nhau, tất cả đều là vì “hữu duyên” mà “tương ngộ”.
Có một người chủ trang trại nọ, để tiện cho việc chăn bò, liền buộc dây sắt lên một cây du trong trang trại. Theo thời gian, cây du càng lớn lên, chiếc vòng sắt buộc quanh cũng ngày một bó chặt vào thân cây hơn, lâu dần lưu lại một vết thương sâu hoắm, hằn lên thân cây.
Năm nọ, trong vùng xuất hiện một loại nấm kỳ lạ ký sinh trên thân cây, làm những cây du trong vòng hàng chục cây số quanh đó đều chết hết. Duy chỉ có cây du với chiếc vòng sắt kia là có thể sống sót.
Tại sao cây du đó lại có thể sống sót kỳ diệu như vậy? Lấy làm kỳ lạ, các nhà thực vật học liền tổ chức nhóm nghiên cứu tới tới tìm hiểu nguyên nhân. Người ta phát hiện rằng chính chiếc vòng sắt gây ra những vết thương trên thân cây lại đã cứu mạng nó.
Bởi có thể hấp thụ một lượng lớn thành phần sắt thông qua các vết rỉ sét của chiếc dây mà cây du này đã có được khả năng miễn dịch đặc biệt, đủ sức kháng lại loại nấm kỳ lạ kia.
Đây là câu chuyện có thật xảy ra vào thập niên 50 tại một trang trại ở Mỹ. Đến ngày nay, cây du đó vẫn đang tràn trề sức sống trong trang trại gần Ventura County, bang Michigan Hoa Kỳ.
Câu chuyện về cây du già ở trên có thể sẽ truyền cảm hứng cho tất cả chúng ta. Trong kiếp nhân sinh này, dù ít dù nhiều ai cũng sẽ phải gặp những tổn thương khác nhau. Tuy nhiên, đôi khi chính những tổn hại ấy lại trở thành chất dinh dưỡng cho sinh mệnh của chúng ta, khiến ta trở nên kiên cường, giàu nghị lực hơn.
Vấp ngã không phải là bi kịch. Bi kịch chính là chúng ta không thể đứng dậy sau những vấp ngã ấy. Những tổn thương có khi chính là lời cảnh tỉnh giúp ta thoát khỏi mê mờ. Vậy nên, đừng nên để tâm hồn mình bị những thương tổn ấy giam hãm quá lâu.
Bạn biết đấy, dù sao thì ngày mai mặt trời vẫn mọc, gió sẽ vẫn thổi trên những bình nguyên xanh ngát, chim vẫn hót ca và con người ta vẫn sẽ phải sống và đi về phía trước.
Người xưa cũng có câu:
Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ
Vô duyên diện kiến bất tương phùng
Tô Tần và Trương Nghi, sống vào thời Chiến Quốc, vốn là bạn đồng môn, học trò của Quỷ Cốc Tử. Hai người cùng học nghề du thuyết, xuống núi đi chu vu khắp thiên hạ, tìm minh chủ để thực thi kế sách của mình. Tô Tần sớm thành công với kế sách “Hợp tung”, triệu hồi liên minh các nước cùng đánh Tần, cầm ấn tướng 6 nước, quyền nghiêng thiên hạ.
Trương Nghi trái lại phải long đong, vất vả hơn, bôn ba du thuyết không thành, có lần còn suýt mất mạng. Trương Nghi tìm đến phủ của Tô Tần nương nhờ một thời gian. Chẳng ngờ Tô Tần không nhớ đến tình bạn xưa, đối xử lạnh nhạt, đem cơm thừa canh cặn ra tiếp, lại mắng nhiếc, nhục mạ Trương Nghi.
Trương Nghi tức giận bỏ đi, cố công tìm đến nước Tần để du thuyết. Sau bao nhiêu vất vả cuối cùng cũng được gặp Tần vương và trọng dụng, trở thành tướng quốc nước Tần.
Trong suốt thời gian Trương Nghi ở nước Tần thường có người theo sau giúp đỡ, chu cấp tiền lương cho. Sau này Trương Nghi muốn trả ơn, người đó liền nói rõ sự thật rằng từ khi Nghi ra đi thì Tô Tần đã sai mình đi theo ngầm giúp đỡ. Và trên thực tế, việc Tô Tần mắng nhiếc cũng chỉ là để khích tướng Trương Nghi, khiến ông có thêm quyết tâm lập nghiệp.
Trương Nghi nghe xong ngửa mặt lên trời mà cảm thán: “Thực là mắc mưu Tô quân mà không biết, rõ ràng ta không bằng Tô quân“. Ngoài mặt, có thể thấy rõ ràng rằng Tô Tần xử tệ, làm tổn thương Trương Nghi đến thế là quá tệ. Nhưng ai biết nếu không làm theo cách ấy thì Trương Nghi sao có thể thành danh, trưởng thành?
Không ai vô duyên vô cớ xuất hiện trong đời bạn. Ai đến, ai đi đều là có nhân duyên và nguyên do cả. Dù họ mang lại hạnh phúc, nụ cười hay nỗi buồn, thương tổn, họ đều là một mảnh ghép hoàn thiện trong tâm hồn bạn.
Người yêu quý bạn sẽ cho bạn sự ấm áp và tự tin, sẽ khiến bạn cảm động.
Người mà bạn yêu quý sẽ cho bạn học được cách yêu thương và sự kiềm chế.
Người mà bạn không thích sẽ cho bạn bài học về sự tha thứ, khoan dung và tôn trọng.
Người không thích bạn sẽ khiến bạn tự xét lại mình và trưởng thành hơn.
Có thể xem nhẹ thì có thể vui vẻ, bởi vì xem nhẹ cho nên hạnh phúc. Cuộc đời chính là có một nguyên lý ấy. Vì vậy nếu bạn từng bị ai đó làm tổn thương, từng bị ai đó xúc phạm, hãy cảm ơn họ …
Hết thảy đều là tùy duyên, duyên sâu đậm bao nhiêu thì càng tụ họp bấy nhiêu, duyên hời hợt thì cũng dễ dàng tan vỡ.
Kiên Định
Quote:
Lynn Ly chú thích :
Theo tôi thì "Tôi không thích ai, thì người đó hoàn toàn không tồn tại trong tâm trí của tôi ... bởi vì "Diện kiến bất tương phùng" . Tôi đoạn dứt muôn duyên vì tôi biết rõ ràng tôi làm chủ được chính thân tâm mính!!! Tâm thế nào thì cảnh thế đó !!!
NHÂN SINH CẢM NGỘ
Đọc Và Suy Nghẫm Những Câu Chuyện Nhỏ ...
Hãy đọc và suy ngẫm những câu chuyện nhỏ dưới đây, bạn sẽ nhận ra mọi điều xảy ra trong cuộc đời đều có lý do của nó, và có những đạo lý đơn giản mà chúng ta không thể tự hiểu ra được.
1. Một ngày, trên đường về nhà cùng với vợ, tôi đi ngang qua một thị trấn tương đối giàu sang, “xa xỉ” với rất nhiều căn hộ đẳng cấp. Tôi hân hoan nói rằng: “Anh chỉ muốn sống cả đời ở nơi như thế này“. Thế rồi, vợ tôi nhẹ nhàng nói với tôi: “Đúng là nơi đây rất tuyệt vời, nhưng em chắc rằng vẫn có những người khi trông thấy ngôi nhà của chúng ta, họ cũng sẽ nói điều tương tự.” Tôi chợt giật mình và cảm thấy nên quý trọng những gì mà mình đang có.
Mỗi chúng ta khi được sinh ra đều có vận mệnh của riêng mình. Hãy quý trọng những gì đang thuộc về bạn, vì nếu một khi chúng mất đi, bạn sẽ thực sự nuối tiếc. Vật chất, hay những điều tốt đẹp mà bạn đang sở hữu, dù ít hay nhiều, đều có thể là niềm ao ước của rất nhiều người.
2. Tôi mắc một căn bệnh hiểm nghèo mà ít có khả năng chữa trị thành công. Một ngày, tôi tới gặp bác sỹ và ra sức nài nỉ ông hãy dự đoán cho tôi biết về kết quả điều trị. Bác sỹ trị liệu đã nói với tôi rằng: “Nếu tôi có thể vẽ ra một viễn cảnh chắc chắn về những gì mà bạn có thể đạt được sau khi chữa trị, thì bạn sẽ không quan tâm đến việc nỗ lực và cố gắng nữa. Tôi không thể làm thế, vì vậy bạn chỉ cần tin vào tôi, và kiên định nhẫn nại thì ngày đó sẽ đến.”
Không trải qua những nỗi đau và chờ đợi thì sẽ không biết thế nào là hạnh phúc. Đôi khi, bạn buộc phải bị tổn thương và cảm thấy muộn phiền để hiểu ra giá trị cuộc sống. Trên đoạn đường vươn tới ước mơ, những chông gai và thử thách là để tôi luyện ý chí và niềm tin của con người, chứ không phải để chúng ta chùn bước.
3. Cuộc hôn nhân đổ vỡ khiến tôi vô cùng tuyệt vọng. Nỗi đau chưa kịp nguôi ngoai thì ngày sinh nhật của tôi đã đến, nhưng tôi chẳng muốn nhắc đến nữa, chỉ muốn ngủ vùi cả ngày. Mẹ tôi bước vào phòng lặng lẽ đặt lên bàn một tấm thiệp chúc mừng sinh nhật. Trong đó viết: “Có thể con không phải là một chú ngựa chiến thắng trong lúc này, nhưng con là chú ngựa duy nhất mà mẹ sẽ đặt cược trong một cuộc đua dài.”
Tất cả những mối quan hệ nhân duyên đến và đi trong cuộc đời mỗi chúng ta đều có lý do. Sự nuối tiếc không khiến chúng ta cảm thấy tốt hơn, mà trái lại, chúng khiến ta đắm chìm trong tuyệt vọng. Chúng ta nên nhìn nhận và đối mặt với vấn đề “được, mất” với một tâm thái nhẹ nhàng. Mỗi giai đoạn, mỗi con người đi qua cuộc đời chúng ta đều dạy cho ta một bài học quý giá để ta hiểu bản thân mình qua các mâu thuẫn và trở nên tốt đẹp hơn.
4. Ngày trước, anh trai tôi và tôi vẫn thường tranh cãi rất lâu hệt như những đứa trẻ con cho rằng mình luôn đúng. Tôi không nhớ chúng tôi đã tranh cãi với nhau về những điều gì, nhưng một ngày anh tôi gọi tôi lại và nói với tôi rằng: “Anh thấy em tử tế, không cáu gắt với tất cả mọi người, nhưng anh cho phép em lớn tiếng với anh bởi vì anh biết em cần xả bỏ những cơn nóng giận, rồi sau đấy em sẽ không còn cảm thấy bực bội nữa.” Nghe thấy câu nói ấy, nước mắt tôi chảy dài. Hóa ra tôi chẳng hiểu anh mình đủ, rằng anh luôn để tâm tới cảm xúc của tôi và yêu thương tôi hết mực. Tôi cũng nhận ra những lần nổi nóng với anh đều chỉ vì tôi muốn lấn át anh và giận dữ với chính bản thân mình. Từ đó trở đi, tôi không bao giờ muốn trách móc, nổi cáu với bất kỳ ai nữa. Anh em tôi cũng trở nên hòa đồng hơn, và không còn cãi nhau như xưa.
Có thể nói rằng, Nhẫn là một đức tính đáng quý mà bất kì ai cũng nên có. Khi con người ta thực hiện được Nhẫn, khiêm nhường, không tranh đấu thì nội tâm sẽ trở nên an hòa và cơ thể cũng trở nên khỏe mạnh nhờ nhân tâm được tu sửa.
5. Người bạn thân John từ thời “nối khố” của tôi đã chết vì căn bệnh ung thư quái ác. Trước đó, tôi đã bên cạnh và giúp đỡ John mỗi ngày để anh có thể chống chọi với chứng bệnh nan y. Anh ấy đã rất nhiều lần nói với tôi rằng: “Mike à, anh đừng lo lắng về bất kỳ thứ gì quá, bởi vì biết đâu anh có thể sẽ rơi vào tình trạng như tôi, và lúc đó anh sẽ thấy tất cả mọi buồn phiền hay đau khổ chẳng còn quan trọng nữa.”
Mọi cảm giác lo lắng, sợ hãi hay tuyệt vọng cho một điều gì đó đã xảy ra hoặc sắp sửa xảy ra chỉ khiến chúng ta thêm tiêu cực hơn. Con người đều nằm trong sự an bài của định mệnh vốn đã rất công bằng cho mỗi sinh mệnh. Vì vậy, bất kể điều gì xảy đến đều mang một ý nghĩa nhất định.
6. Người cậu mà tôi rất mực yêu quý đã phải sống trong nhà tế bần với căn bệnh ung thư…Tôi cảm thấy xót xa khi chứng kiến sự đau đớn vô cùng của ông cách đây vài tháng… Trước lúc ông ra đi, tôi đã kịp đến bên cạnh ông thủ thỉ. Và cậu tôi đã cố gắng dùng chút sức lực cuối cùng để nói hết những lời trăng trối dành cho tôi: “Ta thương con rất nhiều…”
Hãy nói lời yêu thương và đối xử tốt với những người xung quanh, vì biết đâu cho đến những giây phút cuối cùng của cuộc đời mình, bạn không còn cơ hội để bày tỏ nữa.
7. “Lòng vị tha không thể thay đổi quá khứ, nhưng nó có thể thay đổi được tương lai.” Mẹ tôi từng nói rằng bà nhận được thông điệp đó trên một chiếc bánh quy may mắn. Nó đến thật đúng lúc vì bố tôi sắp được trả lại tự do sau khi ra khỏi tù. Thay vì giận dữ và khiến mọi người đau khổ, bà đã quyết định thay đổi con người mình và trở nên bao dung hơn. Như một phép màu, tương lai của bố mẹ tôi dần có nhiều ánh sáng và hy vọng. Họ đã giữ được một cuộc hôn nhân tốt đẹp và bền chặt sau rất nhiều đổ vỡ và mất mát. Bà chia sẻ với tôi điều này khi tôi đang trải qua một khoảng thời gian rất khó khăn với người chồng của mình. Tôi thừa nhận đã không mấy vị tha với anh nhưng tôi chưa bao giờ quên đi sức mạnh của nó.
Dù trong bất kì hoàn cảnh nào, hãy chọn làm người lương thiện, và bao dung với tất cả các mối quan hệ. Tha thứ là một hành động cao đẹp và là bản tính tốt đẹp mà con người nên khôi phục lại bên trong mình để thế giới này tràn ngập ‘hương thơm và trái ngọt’.
Quote:
Và bạn nên nhớ:
“Hãy bước đi và trải nghiệm khi còn có thể. Nếu không, bạn sẽ cảm thấy tiếc khi không còn có thể bước đi.” Thời gian là vô cùng trân quý, người biết quý tiếc thời gian của mình sẽ dùng nó với mục đích có ý nghĩa. Hãy thoát ra khỏi vùng an toàn và cảm nhận về mọi điều xung quanh. Hãy hướng sâu vào bên trong tâm hồn mình để tĩnh lặng nhìn thế giới với vô vàn những điều bao la huyền diệu, và hãy khám phá và tìm được chính mình trong vũ trụ rộng lớn!
“Cuộc sống không hề ngắn, mà nó sẽ trở nên dài hơn nếu chúng ta biết sống một cách có ý nghĩa.” Không có gì là quá trễ cả. Nếu chúng ta cứ biện minh rằng không có thời gian cho việc gì, thì chúng ta mãi mãi không thể hoàn thành nó. Thời gian trôi đi sẽ không lấy lại được; chúng là vô giá. Hãy làm thật nhiều việc có ý nghĩa bằng tất cả thời gian bạn có. Đừng bỏ lỡ một giây phút nào và đừng quan tâm những gì người khác nghĩ về bạn, vì họ không phải là bạn. Mỗi con người đều có một cuộc đời riêng của mình, chúng ta đều có sứ mệnh khác nhau. Vì vậy, hãy luôn lắng nghe tiếng vọng bên trong mình và sống theo những gì mình tin tưởng…
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.