Nhớ 'một câu nhịn chín câu lành', người Việt sẽ không hung dữ
Hơn nhau không phải ở nắm đấm mà là ở khả năng học tập, làm việc, chia sẻ, thương yêu, tử tế với mình, với người trong mối quan hệ với cuộc sống xung quanh!
Hạ cẳng tay, thượng cẳng chân sau khi va chạm giao thông - Ảnh do bạn đọc cung cấp
Cách đây mấy bữa, trên đường đi làm về, tôi thấy một đám đông ở Hàng Xanh (Q.Bình Thạnh, TP.HCM), nghĩ là có kẹt xe. Tới gần mới phát hiện là vừa có vụ va quẹt và hai tài xế đang cãi nhau, người đi đường ngang qua ai cũng lắc đầu.
Chuyện va quẹt trên phố đông như Sài Gòn giờ tan tầm là chuyện cơm bữa, nếu cảm thông và chia sẻ được thì có lẽ người ta sẽ nhẹ nhàng cho qua, tôi nghĩ vậy!
Môi trường nhiều mầm mống bạo lực
Thường người ta sẽ nổi nóng khi gặp một chuyện bất như ý nào đó, như vừa bị sếp la, ra cổng cơ quan bảo vệ đùa một câu, liền sân si. Nỗi buồn, sự bực bội là thứ năng lượng chi phối hành xử khiến người ta không thể kiềm chế được cơn tức dâng lên, lây sang người khác.
Vì vậy, có người dễ nổi nóng đã cảnh báo: "Thấy tôi ‘khó ở’ là tránh xa xa giùm, không ăn mắng ráng chịu". Theo đó, người nóng lâu ngày họ cũng biết tính khí của mình nên có "chống chỉ định" chuyện nói đùa, tiếp xúc lúc họ đang không vui, căng thẳng. Thực ra, khi quá mệt mỏi, phiền muộn trong lòng, ta không còn giữ được mình.
Có người bạn của tôi bình thường hiền queo, ai nói gì cũng cười. Bỗng một ngày, tôi hỏi "sao buồn dữ rứa?" lại bị bạn nạt cho một câu nghe chưng hửng. Trời, bạn mình đây sao? Mới đầu tôi phản ứng vậy, nhưng chợt dừng lại vì nhớ ra, đây không phải là bản chất của bạn. Có thể bạn đang có một nỗi niềm, áp lực từ cuộc sống, gia đình, tình yêu hoặc bản thân đang trải qua bệnh tật, sự cố…
Ai cũng có lúc nóng giận, nếu mình hiểu thì sẽ không khiến ngọn lửa trong họ cháy phừng. Tôi im lặng và không bỏ mặc, cuối cùng cũng nghe được thổ lộ từ bạn. Bạn bị nhiều áp lực trong công việc: sếp chèn ép, đồng nghiệp tìm cách chơi khăm, lương không cao, phải chật vật trang trải cuộc sống…
Tất nhiên, nhiều người khó khăn hơn nhưng họ không nổi nóng. Đó là tính cách và sức chịu đựng của từng người. Sự nóng tính là một thói quen được huấn tập hằng ngày theo nguyên lý:
"Thói quen tạo nên tính cách, tính cách tạo nên số phận".
Vì thế, các chuyên gia tâm lý khi chia sẻ với tôi về thói vũ phu của chồng vẫn thường lưu ý, có thể anh ấy từng bị bạo hành lúc nhỏ, từng sống gần những gia đình lớn tiếng, ồn ào đánh cãi nhau như cơm bữa.
Sự tác động của cuộc sống xung quanh lên tính cách con người theo hướng đó được ông bà xưa đúc kết rằng "gần mực thì đen". Cái đen đó cần có thời gian thanh lọc để dần trắng, nhưng nếu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng trong môi trường đen hơn thì sẽ đen đậm hơn.
Ngày nay các văn hóa phẩm mang tính bạo lực vẫn đầy rẫy trên mạng và tồn tại trong cuộc sống, giải trí của nhiều người: từ game online đến phim ảnh. Thường ngày tiếp xúc với sự đánh đấm, máu me trong các "thức ăn tinh thần" đó khiến não quen với những "mùi vị" của bạo lực, từ đó hành xử theo.
Những kẻ "giang hồ mạng" được ngưỡng mộ và thu tiền trăm triệu cũng chính là một "hình tượng" khiến người ta thay đổi suy nghĩ: cần gì học hành, tử tế, chỉ cần có "số má" là có thể lên đời.
Môi trường bên ngoài đã vậy, trong nhà trường, gia đình cũng đầy mầm mống bạo lực, tránh sao người trẻ không hoang mang và hành xử theo cách tương tự. Đây mới là điều đáng lo, và người lớn muốn thay đổi không khí bạo lực lan tràn thì chính bản thân phải nỗ lực để ứng xử nhẹ nhàng với nhau trước.
Nhẫn để yêu thương
Không thể có kết cục tốt với những người nóng nảy. Nhân vật Trương Phi trong Tam Quốc Chí là hình mẫu của nóng tính dẫn đến hư sự và mang họa sát thân. Ai cũng nóng nảy trong hành xử thì chiến tranh sẽ nổ ra, thương vong là tất yếu.
Một câu nói đùa cũng thành chuyện lớn vì con người ta quá nóng, quá hung dữ; đi nhậu lo hát karaoke cũng bị đánh chết thì… ôi thôi, cuộc sống quá kinh khủng. Pháp luật cần nghiêm minh để trừng trị việc vô cớ đánh, giết người nhưng đó là xử lý phần ngọn, còn cái gốc vẫn là giáo dục.
Làm sao để con người có thể chậm lại để phân tích kỹ hơn từng câu nói, từng biểu hiện của người khác, trong đó có thân nhân, bạn bè mình để không chụp mũ rồi hành xử như người điên, người say?
Sống thiền hay bình tĩnh sống, sống chậm, sống có chánh niệm… là những cách sống theo tinh thần "nhẫn để yêu thương". Đầu tiên là thương mình. Một người chỉ được người khác tin tưởng, nể trọng và giao việc khi có sự chín chắn, điềm tĩnh trong xử lý. Như vậy, người sống có lý trí, điềm tĩnh chính là cách sống lợi lạc tự thân.
Còn cái lợi cho người xung quanh, nhất là người thân - thương thì cũng dễ dàng để thấy. Con cái sẽ học được nhiều điều hay ho từ bố mẹ có cách sống nhẹ nhàng, tình cảm. Đó mới là gia tài quý giá để lại cho con.
Hành xử nóng tính dẫn tới hư việc, hại người thì vòng lao lý chờ mình là chắc chắn. Một khi đã gây ra sự cố mới hối thì đâu còn kịp. Nhiều người bình luận thiếu niên 16 tuổi rút dao đâm chết người nhắc mình chuyện chạy xe chính là "anh hùng rơm", chứng tỏ với bạn gái nhưng rồi được gì sau lần ra tay đó? Tù tội và có thể mất luôn bạn gái.
Ai đợi và ai chấp nhận một người giết người làm người yêu, người chồng, người cha tương lai?
Thực ra, sân si - ai cũng có. Cái chính là cách quản lý năng lương tiêu cực đó để những năng lượng tích cực phát triển. Để làm được điều đó, phải xây dựng lối sống nhân văn từ chính mỗi gia đình, người lớn dạy trẻ nhẫn nhịn để an lành như ông bà mình nhắc "một câu nhịn chín câu lành".
Khi tâm từ xuất hiện thì lòng sân hận, ác ý, thù oán không thể phát sinh. Đức Phật dạy chỉ có tâm từ mới dập tắt được lòng sân. Không những dập tắt được lòng sân, tâm từ còn diệt được các mầm tư tưởng bất thiện. Nhìn thái độ của loài người đối với hận thù, Đức Phật đưa ra nhận xét là tình thương sẽ chinh phục được lòng sân hận.
Để giảng hòa một cuộc tranh chấp giữa hai tiểu bang đang giành nhau nước dưới con sông làm ranh giới, Đức Phật dạy (Kinh Pháp Cú):
(Pháp Cú 197) Ở ngay giữa đám nhân sinh Dù người hờn oán, nếu mình thảnh thơi Sống không thù hận cùng người Thật là sung sướng, cuộc đời thơm hương.
Nhưng có lòng từ ái đối với người khác không có nghĩa là phải quên mình. Lúc Đức Phật sắp nhập Niết Bàn, các đệ tử từ bốn phương xa gần tấp nập về đảnh lễ Ngài. Chỉ có một thầy Tỳ kheo, thay vì làm như các vị khác, lại rút về tịnh thất chuyên cần hành thiền. Khi được hỏi về thái độ ấy, thầy trả lời vì trong ba tháng nữa Đức Phật sẽ nhập diệt nên thầy nghĩ rằng để tỏ lòng quý trọng Ngài, việc làm tốt đẹp nhất là thành tựu đạo quả A La Hán lúc Ngài còn tại tiền.
Đức Phật ngợi khen thầy và nhấn mạnh là “Không nên vì mục tiêu của người khác mà lãng quên mục tiêu, sự an lành của chính mình. Hãy nhận định rõ ràng mục tiêu của mình và lập tâm thành đạt mục tiêu ấy”:
(Pháp Cú 166) Chớ vì lợi ích cho người Mà quên lợi ích cho nơi chính mình Mục tiêu giải thoát tử sinh Ai lo lợi ích cho mình chớ quên Quyết tâm đạt được cho bền.
Không nên hiểu lầm là Đức Phật dạy ta nên ích kỷ, chớ có phục vụ kẻ khác một cách vị tha, bất cầu lợi. Trái lại Đức Phật chỉ nhấn mạnh rằng trong khi phục vụ lợi ích cho người cũng đừng quên mục tiêu tự giải thoát cho chính mình. Mình có giác ngộ và giải thoát rồi sau đó đi giúp kẻ khác mới hữu hiệu được hơn.
“Bi” là lòng thương xót cứu khổ, Tâm bi hay lòng bác ái có đặc tính làm rung động những tâm hồn trắc ẩn cao thượng trước cảnh khổ của người khác, thương dứt trừ đau khổ cho hết thảy chúng sinh. Bi là động lực làm cho tâm rung động trước sự đau khổ của kẻ khác. Đặc tính của “tâm bi” là ý muốn giúp người khác thoát khỏi cảnh khổ.
Tâm bi tương tự như tình thâm của một bà mẹ hiền thương xót đứa con đang bị bệnh hoạn ngặt nghèo. Bao nhiều tâm trí, lời nói và hành động đều tập trung lại để chuyên chú tìm phương thế làm cho con đỡ đau khổ.
Tâm bi là vị thuốc có thể tiêu trừ bệnh hung bạo, tàn ác. Lòng của người có tâm bi thật là mềm dịu. Lắm khi người có tâm bi không ngần ngại hy sinh đến cả tính mạng. Chính do nơi tâm bi mà con người có thể hoàn toàn vị tha trong khi phục vụ kẻ khác, giúp mà không bao giờ mong đền ơn, đáp nghĩa.
Đối tượng của tâm bi là những kẻ nghèo đói, túng thiếu, đau ốm, cô đơn dốt nát, hư hèn và cả những người có đời sống buông lung, phóng đãng tội lỗi. Tâm bi không bị hạn định trong một quốc gia, một tôn giáo, một giai cấp hay một loại chúng sinh nào. Tình thương mà có giới hạn thời không phải là tâm bi. Tâm bi phải bao trùm tất cả chúng sinh đau khổ, rất bao la và bình đẳng.
Như Đức Phật xưa kia đã từng tế độ cho một người phụ nữ lạc bước giang hồ và cho cả một tên sát nhân tàn ác, toan hại Ngài. Về sau, cả hai đều theo Ngài và hoàn toàn đổi tính. Bên trong mỗi người, dù xấu xa thế nào cũng ngầm có những tính tốt. Đôi khi chỉ có lời nói phải, đúng lúc, cũng có thể làm đổi hẳn con người. Như vua A Dục ngày xưa, tàn bạo đến nỗi, người đời bấy giờ gọi là “A Dục, con người tội lỗi”. Thế mà, khi nghe được lời nói phải của một thầy Sa di trẻ tuổi, ông đổi hẳn lại tính tình, mạnh tiến trên con đường tự giác và trở thành “A Dục, con người hiền đức”. Ta nên nhận định rằng, tâm bi của Phật giáo không phải là giọt nước mắt nhỏ suông gọi là thương xót. Kẻ thù gián tiếp của tâm bi là “âu sầu, phiền não”.
Tâm từ và tâm bi thường đi chung với nhau. Trước hết phải dùng tâm bi để trừ giùm đau khổ cho chúng sinh, rồi kế đó dung tâm từ mà cho họ niềm vui. Như thế, cái vui mới được hoàn toàn. Vậy “bi” là nhân mà “từ” là quả. Người sống có tâm từ bi, có tình thương thì mọi hận thù trên thế gian này sẽ tiêu tan.
Một người có hai bà vợ. Một bà có con và một bà không. Bà không con đem lòng ganh tị, trộn thuốc độc vào thức ăn của bà kia, hại bà kia hai lần hư thai. Đến lần thứ ba, thuốc độc làm cho bà kia đang có mang cùng chết với đứa bé. Bà kia khởi tâm cương quyết báo oán và thực hành ý định. Bà không con bị trả thù, cũng quyết tâm trả thù lại. Thù oán trả qua trả lại, hết bà này đến bà kia, qua lại trong hai kiếp sống liên tục. Tuy nhiên, đến kiếp tái sinh thứ ba, cơ hội đưa đẩy hai bà cùng đến gặp Đức Phật và sau đó nhờ Ngài khuyên giải mà hận thù được chấm dứt
(Pháp Cú 5) Khắp nơi trong cõi dương gian Hận thù đâu thể xua tan hận thù Chỉ tình thương với tâm từ Làm tiêu oán hận, giải trừ hờn căm Đó là định luật ngàn năm.
Cô hầu nhỏ của một ông chồng nọ bất chợt đem lòng ganh tị bà vợ lớn. Một lần cô đem đổ bơ nóng lên đầu bà nhưng bà không giận mà còn giải lòng từ bi đến cô, nguyện rằng mình không sân hận, khiến cho bơ nguội lạnh, bà không bị phỏng.
Về sau, cô hầu nhỏ ăn năn hối hận và xin sám hối. Bà bảo cô phải lên xin sám hối với Đức Phật trước bà mới bằng lòng quên lỗi. Cô làm theo lời bà và được Đức Phật khuyên rằng “Hãy lấy tình thương mà chế ngự tâm sân, lấy chân thật khắc phục giả dối”:
(Pháp Cú 223) Lấy từ bi, lấy ôn hòa Thắng cơn nóng giận bùng ra thét gầm Lấy hiền lành, lấy thiện tâmThắng lòng hung ác bất nhân khó lường Lấy tâm bố thí cúng dường Thắng hàng keo kiệt, thắng phường tham lam Lấy chân thật để đập tan Những trò hư ngụy, dối gian ở đời.
Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng từng dạy rằng: “Khi có kẻ gây ra tổn thương cho mình thì hãy tha thứ cho họ mà không nên do dự một chút nào cả. Lý do là vì nếu nghĩ đến những gì đã thúc đẩy họ hành động như vậy thì chúng ta tất sẽ thấy rằng đấy chính là những thứ khổ đau mà họ đang phải gánh chịu, chứ không phải là do họ quyết tâm và cố tình làm tổn thương và gây tai hại cho chúng ta. Tha thứ là một cách xử sự tích cực dựa vào sự suy nghĩ, chứ không hề là một việc bỏ qua cho xong chuyện. Tha thứ là một hành động ý thức, căn cứ trên sự hiểu biết và chấp nhận thực trạng của những tình huống xảy ra với mình (“108 perles de sagesse du Dalai-Lama pour parvenir à la sérénité”)
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Photos show victim’s mother forgive killer, halt hanging in Iran
By Josh Levs and Azadeh Ansari, CNN
Updated 5:42 AM ET, Fri April 18, 2014
(Pháp Cú 5) Khắp nơi trong cõi dương gian Hận thù đâu thể xua tan hận thù Chỉ tình thương với tâm từ Làm tiêu oán hận, giải trừ hờn căm Đó là định luật ngàn năm.
Cô hầu nhỏ của một ông chồng nọ bất chợt đem lòng ganh tị bà vợ lớn. Một lần cô đem đổ bơ nóng lên đầu bà nhưng bà không giận mà còn giải lòng từ bi đến cô, nguyện rằng mình không sân hận, khiến cho bơ nguội lạnh, bà không bị phỏng.
Về sau, cô hầu nhỏ ăn năn hối hận và xin sám hối. Bà bảo cô phải lên xin sám hối với Đức Phật trước bà mới bằng lòng quên lỗi. Cô làm theo lời bà và được Đức Phật khuyên rằng “Hãy lấy tình thương mà chế ngự tâm sân, lấy chân thật khắc phục giả dối”:
(Pháp Cú 223) Lấy từ bi, lấy ôn hòa Thắng cơn nóng giận bùng ra thét gầm Lấy hiền lành, lấy thiện tâmThắng lòng hung ác bất nhân khó lường Lấy tâm bố thí cúng dường Thắng hàng keo kiệt, thắng phường tham lam Lấy chân thật để đập tan Những trò hư ngụy, dối gian ở đời.
Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng từng dạy rằng: “Khi có kẻ gây ra tổn thương cho mình thì hãy tha thứ cho họ mà không nên do dự một chút nào cả. Lý do là vì nếu nghĩ đến những gì đã thúc đẩy họ hành động như vậy thì chúng ta tất sẽ thấy rằng đấy chính là những thứ khổ đau mà họ đang phải gánh chịu, chứ không phải là do họ quyết tâm và cố tình làm tổn thương và gây tai hại cho chúng ta. Tha thứ là một cách xử sự tích cực dựa vào sự suy nghĩ, chứ không hề là một việc bỏ qua cho xong chuyện. Tha thứ là một hành động ý thức, căn cứ trên sự hiểu biết và chấp nhận thực trạng của những tình huống xảy ra với mình (“108 perles de sagesse du Dalai-Lama pour parvenir à la sérénité”)
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Photos show victim’s mother forgive killer, halt hanging in Iran
By Josh Levs and Azadeh Ansari, CNN
Updated 5:42 AM ET, Fri April 18, 2014
Trong cuộc sống, ai cũng mong mình sẽ được điều này, được điều khác.
Người giàu thì mong sẽ giàu hơn, người nghèo thì mong mình được như người giàu… để rồi họ tìm về chốn tâm linh để cầu xin.
Sự cầu xin này cũng như là ăn mày với các đấng thần linh, mà họ không hiểu các đấng thần linh này có giúp cho họ được không?
Chuyện kể về một bác nông phu, kéo xe chở hàng rất nặng nhọc. Vào một ngày, bác kéo xe quá nặng nên bị đổ ra đường. Buồn rầu, bác ngồi xuống và nhìn thầy dòng người đi xe hơi tìm đến cửa chùa làm lễ.
Bác ngồi nghĩ: Ông trời thật không công bằng, người thì sinh ra đã có tất cả, còn kẻ làm lụng vất vả thì chẳng có gì. Sau đó có một bà đến nói: “Ông đã đến cửa Phật sao ông không vào thành tâm kêu cầu mà ngồi đây than thân trách phận”.
Ông lão liền đi vào chùa, ông thấy người ta cầu khấn rất đông, người lớn người nhỏ, kẻ già người trẻ…
Lúc đó ông nghe thầy trụ trì hỏi: “Thí chủ lần đầu đến đây phải không? Ông đáp: “Vâng! Lần đầu con đến cửa Phật nên không biết kêu cầu thế nào, ra làm sao? Mong thầy chỉ dạy.”.
Thầy trụ trì hỏi: “Thí chủ thỉnh cầu điều gì?".
Ông đáp: “Con cầu xin đức Phật ban phát sự công bằng. Con sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, bần hàn, không được học hành tử tế. Từ bé đã phải tự mưu sinh. Lớn lên lấy một người vợ nghèo và nai lưng làm lụng như trâu bò để nuôi một bầy con nheo nhóc.
Cuộc đời khốn khổ cơ hàn cứ theo con đằng đẵng trong khi có biết bao người khác sinh ra trong 1 gia đình giàu sang, chẳng cần cố gắng mà vẫn sống suốt đời trong nhung lụa. Như vậy là không công bằng, nếu đức Phật linh thiêng xin người hãy ban phát cho con một chút may mắn của những người kia”.
Thầy trụ trì hỏi: “Những người kia ư!”.
Ông đáp: “Vâng! Chỉ cần nhìn họ là đủ biết họ giàu sang quý phái cỡ nào. Những người nghèo khổ như con không thể hiểu nổi họ làm gì mà giàu sang như vậy”.
Thầy trụ trì đáp: “Cái đó ta không biết, nhưng khi đã tới đây họ cũng chỉ là ăn mày cả thôi”.
Ông ngạc nhiên hỏi: “Ăn mày ư thưa thầy!”.
Thầy trụ trì trả lời: “Đúng! Ăn mày cửa Phật…”
Ông vội hỏi: “Nhưng nhìn họ giàu sang quý phái, có thiếu gì đâu mà phải đi ăn mày”.
Thầy trụ trì chầm chậm trả lời: “Sống trên cõi đời này, mấy ai thỏa mãn với những điều mình đang có, không tin thí chủ cứ lại gần họ mà xem”.
Khi ông lão vào thì nghe người này xin đừng bị phá sản, người xin khỏi bệnh, người xin có người yêu…
Ông bước ra và nói: “Họ cầu xin rất nhiều điều, hóa ra họ toàn là ăn mày thật, con cứ tưởng trên đời này ai cũng hạnh phúc hơn con. Biết đâu được họ cũng có nhiều nỗi khổ đau đến thế, ngẫm ra con còn nhiều điều hơn họ, như sức khỏe, vô tư chẳng hạn.".
Thầy trụ trì trả lời: “Đúng vậy, cuộc đời công bằng với tất cả mọi người, an phận với thực tại và cố gắng hết mình để tự mình hóa giải những khó khăn trong cuộc sống, đó mới là một cuộc đời hoàn mỹ”.
Nhiều người cho rằng cứ có việc khổ, đau... thì tìm đến cửa Phật để cầu xin.
Qua câu chuyện, chúng ta có thể thấy rằng: Cuộc đời này ai cũng muốn cầu xin những điều mà mình không có. Họ không thỏa mãn được điều đã có, luôn tìm kiếm những cái cao hơn, ngon hơn… Đôi khi họ cứ nghĩ các đấng thần linh có thể ban phát mà không hiểu rằng, phải cố gắng và làm lụng thì mới có kết quả. Đừng có quá tâm linh mà quên mất thực tại của mình.
Chính ngay trong quá trình tu tập, đức Phật cũng không hề nói: "Ta sẽ cho con cái này, ta sẽ ban cho con cái khác..." mà giáo lý Ngài luôn dạy: "Hãy tự thắp đuốc mà đi!".
Ngài đã tìm ra con đường chân lý, giải thoát đến được cõi an vui tự tại. Ai muốn được như Ngài thì hãy làm theo điều Thế Tôn chỉ dẫn thì sẽ đạt được. Ngài không ép phải làm mà hãy tự biết để làm. Đây là chân lý đức Phật đưa ra cho các hàng đệ tử của Ngài.
Cuộc đời tuy là giả tạm vì bản chất của nó là vô thường, khổ, vô ngã nhưng nó cũng chính là bài học duy nhất để giác ngộ giải thoát. Tất cả chân lý đều ở trong cuộc sống này, khi sống với tham sân si thì đó là luân hồi đau khổ, khi đoạn tận tham sân si thì đó là Niết-bàn tịch tịnh. Vậy bài học là thấy ra đâu là đau khổ, đâu là Niết-bàn và nguyên nhân của nó ngay trong chính mình và cuộc sống chứ không phải cố gắng để đạt đến một trạng thái lý tưởng ở tương lai...Lắng nghe, quan sát lại chính mình trong tương giao với cuộc sống, sẽ thấy ra (vipassati) mọi chân lý mà chư Phật đã chứng ngộ.
Viên Minh
“ Sức mạnh của trẻ thơ là tiếng khóc. Sức mạnh của đàn bà là phẩn nộ. Sức mạnh của người ăn trộm là vũ khí. Sức mạnh của vua chúa là quyền uy. Sức mạnh của kẻ ngu là áp đảo. Sức mạnh của bậc hiền trí là cảm hóa. Sức mạnh của người đa văn là thẩm sát. Sức mạnh của sa môn là nhẫn nhục.”
Dalai Lama
Phần lớn chúng ta vì muốn được thường, lạc, ngã mà khổ. Như vậy khổ là do không thấy tính vô thường, khổ, vô ngã trong vạn pháp. Trong vô thường mà muốn thường hằng, trong khổ đau mà muốn hạnh phúc, trong các pháp vô ngã mà muốn đó là ta, của ta và tự ngã của ta thì gọi là điên đảo tưởng.
Các pháp do duyên sinh đều có biến đổi, có thành hoại, có sinh diêt. Do đó ai muốn chúng thường còn thì tự chuốc lấy khổ . Ví dụ như hoa Mai có nở có tàn nhưng ai muốn hoa Mai nở mãi không tàn thì sẽ khổ đau thất vọng.
Các pháp do vô minh ái dục hay do tham sân si tạo tác mà thành thì đều đưa đến sầu bi, khổ não. Ví dụ như đời người có sinh, già, đau, chết nhưng ai tham sống sợ chết thì sẽ khổ đau phiền muộn.
Các pháp vốn tồn tại trong sự vận hành theo quy luật tự nhiên của chúng, còn ý niệm "ta, của ta, tự ngã của ta" được gán ghép vào đó chỉ là ảo tưởng. Và chính ảo tưởng này đem lại khổ sầu. Ví dụ như mắt thấy mà cho là "ta thấy", tai nghe mà cho là "ta nghe"... rồi "đây là con ta", đây là "tài sản của ta"... nên mới khổ.
Viên Minh
“Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới xung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ”
“Ra đời hai tay trắng. Lìa đời trắng hai tay. Sao mãi nhặt cho đầy. Túi đời như mây bay.”
“Thành thật đối diện với mâu thuẫn và khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình”.
Dalai Lama
Thiên Đàng, Cực Lạc, chỉ là cách gọi tên thôi. Phật giáo, Thiên Chúa giáo chỉ là hệ thống tổ chức Tôn giáo và Giáo lý thôi. Trên thực tế Chân Lý vẫn là một đối với người đã giác ngộ. Giống như người miền Trung gọi là củ sắn thì người miền Nam gọi là củ mì, còn người nào ăn củ đó rồi thì mới thấy chỉ là một củ thôi ...khi còn tranh cãi nhau về cách lập ngôn hay còn chấp giữ hệ thống lý thuyết riêng của mình thì vẫn còn chưa thấy Chân Lý... Chính ý niệm của con người chia cắt manh mún Sự Thật thành cái của tôi và của anh mà thôi.
“Sự khác biệt giữa con người là do mức tiến hóa khác nhau qua các kiếp sống. Có khi nào ta thù ghét một kẻ kém ta đâu? Suy luận rằng. “ vạn vật đồng nhất”, ta sẵn sàng tha thứ cho kẻ khác, vì họ không hiểu biết, không ý thức hành động của mình, vả lại họ và ta nào có khác nhau đâu. Khi ta hiểu rằng:”nhất bổn tám vạn thù”, ta nhìn vạn vật như chính mình, từ loài người qua loài thú, thảo mộc, kim thạch, và ý thức rằng mọi vật đều có sự sống, đều có Thượng đế ngự ở trong, ta sẽ cởi bỏ thành kiến, mở rộng lòng thương đến muôn loài.
Dalai Lama
Có hai cách biết: Một là biết thực tánh chân đế (paramattha), hai là biết khái niệm chế định (paññatti). Khi biết thực tánh thì không qua khái niệm và không phản ứng tạo tác (không làm: vô vi, hoặc làm mà không tạo tác: duy tác). Khi biết khái niệm chế định thì có hai cách: Một là làm thiện theo nhu cầu cần thiết, hai là làm bất thiện theo tà kiến và tham ái. Vậy biết là chính còn làm hay không là tùy theo cách thấy biết đúng theo bát chánh đạo.
Viên Minh
“Là con Phật, nếu không nói được những gì Phật nói, hãy im lặng như chánh pháp, đừng nói những lời ác, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, làm tổn hại kẻ khác, nếu không làm được những gì Phật làm, hãy im lặng và lắng nghe, quán sát, học hỏi những thiện tri thức, đừng vọng động làm những điều thương tổn đến tha nhân”.
Dalai Lama
Trí tuệ không có nghĩa là thấy Pháp như thế nào mà trí tuệ là trả Pháp lại cho Pháp. Trí tuệ là không để bản ngã xen vào để có ý kiến này ý kiến kia, giải quyết kiểu này kiểu nọ đối với Pháp mà hoàn toàn trả Pháp lại cho Pháp, để tự nó vận hành. Thực ra khi trả Pháp lại cho Pháp để tự Pháp vận hành thì mình mới thực sự học được sự vận hành của Pháp. Khi học được sự vận hành của Pháp thì lúc đó mới là Minh. Chỉ có Minh mới chấm dứt được toàn bộ tiến trình của bản ngã, luân hồi sinh tử.
Viên Minh
“Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Anh càng nguyền rủa họ, tâm anh càng bị nhiễm ô, anh hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của anh”.
Dalai Lama
Trong lành là tuyệt đỉnh của Giới. Định tĩnh là tuyệt đỉnh của Định. Sáng suốt là tuyệt đỉnh của Tuệ. Thực ra, chỉ có buông ra mới đạt được tuyệt đỉnh của Giới Định Tuệ mà thôi...
“Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác”.
“ Khi trong tay anh nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì anh chỉ có mỗi thứ ấy, nếu anh chịu buông xuống, thì anh mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác. Nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì trí huệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi.”
Dalai Lama
Hãy tin vào tất cả nhưng cũng đừng tin vào điều gì cả, hay nói chính xác hơn là đừng bám víu vào bất cứ điều gì. Tin vào mọi sự, mọi người, mọi vật… vì tất cả điều gì đến với mình đều có nhân duyên với mình, đều là bài học giúp mình học ra cái đúng cái sai, cái xấu cái tốt, cái chân cái giả… Do đó phải biết ơn và phải học cho thật nhiệt tình, tận tâm và chuyên chú… chứ không nên chểnh mảng.Nhưng cẩn thận đấy, đừng bám víu vào điều gì, vì bám víu là dính mắc, dính mắc là trói buộc, trói buộc là đau khổ, là không còn thong dong tự tại...
Viên Minh
"Hạnh phúc không phải là thứ có sẵn, Nó đến từ chính hành động của bạn...
Tín ngưỡng của tôi rất đơn giản. tín ngưỡng của tôi là lòng tốt
Không cần có các chùa chiền, không cần các triết lý cao siêu. Tim và óc của tôi là các chùa chiền; triết lý của tôi là lòng tốt.
Sau cơn mưa vào ngày xuân hôm ấy, người/bạn tốt của tôi ngỏ lời từ giã. Tôi kiên trì đòi đưa bạn ấy ra đến trạm xe.
Chỉ có thể đi cùng nhau một đoạn đường.
Du Vũ Minh (soạn văn)
Sau cơn mưa vào ngày xuân hôm ấy,
người bạn tốt của tôi ngỏ lời từ giã.
Tôi kiên trì đòi đưa bạn ấy ra đến trạm xe.
Bạn ấy ngăn cản tôi:
"Tống quân thiên lý, chung hữu nhất biệt"
Đưa người ngàn dặm, cuối cùng rồi cũng cách biệt,
dù thế nào đi nữa thì bạn cũng chỉ có thể đưa tôi đi chỉ một đoạn đường,
thôi thì chỉ đưa tôi đến cửa thì ngừng bước nhé."
Tôi đành tôn trọng theo ý kiến của bạn ấy.
Mỗi con người đều chỉ đan xen vào một đoạn trong cuộc sống của người khác.
Điều chắc chắn vĩnh viễn là chỉ có thể đưa người đi cùng một đoạn đường.
Bạn thương yêu cha mẹ mình, hy vọng họ sống lâu trăm tuổi,
nhưng trong lúc bạn đang rất hiếu thuận với cha mẹ mình, thì họ cũng sẽ rời xa trước mặt bạn,
bạn cũng chỉ có thể đi cùng cha mẹ mình chỉ một đoạn đường mà thôi.
Bạn yêu thương con cái của mình ư, từng giờ khắc bạn mong rằng mình có
thể vì chúng mà ngăn gió chắn mưa, vậy mà bạn đang lớn tuổi từng ngày, rồi cũng có một ngày,
trước mặt các con bạn cũng phải bỏ chúng mà đi, bạn chỉ có thể cùng đi với con cái chỉ một đoạn đường.
Bạn có người vợ tâm đầu ý hợp, nhưng hai mươi mấy năm trước cô ấy thuộc về cha mẹ,
vài mươi năm sau cô ấy cũng bị con cái, vận mệnh mà chia cách,
bạn cũng chỉ có thể đi cùng với nàng chỉ một đoạn đường.
Bạn xem trọng trong tình nghĩa bạn bè, nhưng mà nếu không phải là bạn bè lìa xa bạn,
thì cũng chính là bạn sẽ lìa xa bạn bè, bạn chỉ có thể cùng đi với bằng hữu một đoạn đường.
Cũng vì chỉ có thể cùng đi với nhau một đoạn đường,
Nên bạn càng thêm quí trọng tiếc thương.
Lúc mà người ta cơ nhỡ đói rách,
sự quan tâm của bạn nên trở thành một quả táo
Lúc mà người ta giá rét,
thì sự giúp đỡ của bạn nên biến thành một cái áo bông.
Lúc mà người ta vui vẻ hạnh phúc,
thì sự tươi cười của bạn đáng lẽ nên sáng lạn nhất;
Lúc mà người ta gặp chuyện thương tâm,
thì sự vỗ về an ủi của bạn đáng lẽ nên thật là chân thành thiết tha mới phải...
Cuộc đời vốn dĩ lập đi lập lại những ấn chứng:
Ban đêm thì có thể vì việc thêm vào cái lồng lửa mà có được ánh sáng.
Việc đẩy lùi tuyết lạnh không vì sự tham dự của gió lạnh mà hóa thành ấm áp.
Bởi vì chỉ có thể cùng người ta đi chỉ một đoạn đường,
Bạn đáng lẽ cũng nên học cách từ bỏ.
Cha mẹ chỉ có thể vỗ về nuôi nấng bạn trưởng thành,
không nên kỳ vọng cha mẹ là cái quải trượng (cây gậy) vĩnh viễn của bạn,
để có thể chống đỡ toàn bộ cuộc đời của bạn.
Con cái cũng chỉ là cùng liên quan huyết nhục với bạn,
chứ không phải là vật phẩm phụ thuộc của bạn,
Bạn cần phải biết tôn trọng sự lựa chọn cuộc đời của chúng.
Vợ con vì bạn mà cung phụng dâng hiến hết tình ái,
nhưng sinh mệnh của nàng không phải là vật phẩm thế chấp của ái tình,
nên dành cho nàng những khoảng không gian riêng tư cần thiết.
Bằng hữu có thể cho bạn sự ấm áp, nhưng loại ấm nồng này là loại tình cảm mở,
bạn không thể cưỡng hành độc chiếm tình hữu nghị của người khác...
Bạn chỉ là người khách qua đường trong cuộc đời của người khác,
chỉ có thể cùng người đi cũng chỉ một đoạn đường đời.
Điều đó chính là tính hữu hạn mà bạn cho người khác,
vậy thì làm sao có thể mong cầu người khác cho đi sự vô hạn được?
Những ngày giáp tết giữa thập niên 1950, người dân khu Hòa Hưng bắt gặp những cụ đồ già người bắc vừa di cư vào nam ngồi trên vỉa hè đường Chason (Phạm Hồng Thái) gần chợ Hòa Hưng. Họ bày bán những liễn đối chữ Hán viết sẵn trên giấy điều.
Ban hợp ca Thăng Long nổi tiếng tại Sài Gòn trước 1975 gồm các nghệ sĩ từ miền Bắc vào
như Hòa Bắc, Hoài Trung, Thái Thanh đã chinh phục khán giả miền Nam
với các ca khúc bất hủ của các nhạc sĩ tiền chiến và của Phạm Đình Chương, Phạm Duy
ẢNH: ĐINH TIẾN MẬU
Thấp thoáng trong số liễn đối có những câu chúc phúc bằng chữ Việt viết theo Hán tự. Họ ngồi buồn vì ế khách. Cho đến lúc đó, dân Sài Gòn – Gia Định không còn mấy ai chơi liễn đối như hồi “đàng cựu” (thời Pháp chưa qua), hoặc nếu có thì đã quen vào Chợ Lớn mua liễn viết sẵn. Những ông đồ già ngồi trầm ngâm dưới nắng tháng chạp vàng ươm dễ chịu, nhưng trời đất xung quanh vẫn không phải mùa xuân xứ bắc với mưa xuân phơi phới bay mà họ mới rời xa.
Đó là một hình ảnh trong câu chuyện trên tờ báo xuân xưa tôi còn nhớ. Lớp người miền ngoài, vì hoàn cảnh đã rời quê hương vào sống trên đất Sài Gòn. Vượt qua những dị biệt ban đầu và cả nỗi nhớ quê dậy sóng mỗi đêm, họ thành cư dân miền Nam, cư dân Sài Gòn… Họ cảm nhận cuộc sống trên đất mới, tuy xô bồ nhưng dễ sống, tuy ồn ào nhưng thật lòng, tuy thiếu hoa mỹ nhưng biết thưởng thức những điều đẹp đẽ và còn tạo điều kiện cho nó thăng hoa. Tuy vậy, lòng hoài niệm của họ vẫn đầy ăm ắp, nên mới có những vần thơ nhớ bắc của Lê Minh Ngọc, ông chủ quán bánh mì Hòa Mã ở đường Cao Thắng:
“Ngoài ấy trời xuân lạnh/rét căm lòng cỏ hoa/em nhìn mây không cánh/bay về phương trời xa/nghẹn ngào em thầm hỏi/người đi có nhớ nhà…”.
Mới có những tản văn tuyệt tác của Vũ Bằng trong Thương nhớ Mười Hai với tháng hai nhớ hoa đào, tháng ba cảm nhận “trời chuyển bất ngờ, đương nắng thành râm, và chỉ trong khoảnh khắc, rét của cuối chạp, đầu xuân đã trở về trên cánh gió, giữa một khoảng trời tháng ba nắng ấm”.
Văn hóa mở cõi của đất miền Nam trù phú đã được tiếp thêm màu cổ điển từ những người con đất tổ ngàn năm, tạo dựng nên chất sinh động, đa dạng, thể hiện rõ nhất ở Sài Gòn, thành phố của hội tụ nhân tài tứ xứ.
Họa sĩ Tú Duyên, người con của làng cổ Bát Tràng, Bắc Ninh, từng theo học Trường
cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Từ năm 1939, gia đình ông chuyển vào Sài Gòn
sinh sống và đóng góp sắc màu Bắc bộ qua các họa phẩm,
trong đó có nghệ thuật sáng tác riêng gắn với tranh dân gian là “thủ ấn họa”
ẢNH: TƯ LIỆU
“Chín giờ mới ra phố”
Tuy nhiên, thuở ban đầu luôn là khó khăn. Giống như tâm tình của những cụ già xứ bắc viết liễn ngày giáp tết ở lề đường sát chợ Hòa Hưng. Có nhiều khác biệt, và có lúc không chịu nổi.
Người mới vào đã có nhiều điều quá bỡ ngỡ trước vùng đất mới đầy nắng gió này. Họ ngạc nhiên khi thấy thuốc lá không được bóc ra ở phần trên bao thuốc, mà dùng tay khoét một lỗ ở phía gần đáy rồi rút điếu thuốc ra; khi uống cà phê lại đổ ra đĩa rồi húp từng ngụm; tờ bạc 1 đồng xé làm hai để thành 5 cắc cho tiện; nữ sinh kẹp tóc cao đến gáy, mặc quần trắng ống rộng gấp đôi bình thường và đi guốc mộc.
Phóng sự Sài thành xài tiền của Hà Việt Phương báo Đời Mới số 68 ra đời tháng 7 năm 1953, có kể một ông ngoài bắc vừa vào Sài Gòn. Khi biết ông định đi thăm người quen lúc 7 giờ sáng, bà chủ nhà trọ liền can ngăn, bảo lúc đó còn sớm quá, phải “chín giờ trở đi thì những người như ngài mới ra phố”. Bà này từ Huế vô nam đã lâu, nói rằng ai ở ngoài bắc vô cũng dậy sớm, đi chơi sớm và ngủ sớm. Nhưng người trong này thức khuya, đời sống về đêm nhiều hơn. Bà lớn giọng:
“Tối, ngài ra các tiệm các chợ mà coi, cứ chật nức người là người, phần lớn là anh chị em lao động, kiếm được đồng nào thì xào ngay đồng nấy. Trong này không biết dành dụm chi cả. Bây giờ mới có người biết vá áo, biết nhặt rau, chứ trước thì dùng cái gì cũng là nguyên chất cả, hơi hỏng là “đổ bỏ” không hề chữa chạy bao giờ… Ban ngày kiếm được bao nhiêu tiền đến tối xài cho kỳ hết, mai sẽ kiếm tiền nữa. Lo chi. Không lụt lội, không mất mùa, không thất nghiệp…”.
Bà chủ còn hướng dẫn ông khách: Phu xích lô ở Sài Gòn, ai hay bận quần “cộc” (quần ngắn) thì người ấy phải là người “ngoài ta” (tức là bắc hay trung vào làm việc). Người trong này hoang phí, cái gì cũng ra tiệm. Ăn bận toàn quần áo vải lụa mỏng tanh. Người lao động trong này tiện là ngồi bệt xuống đất không sợ hư áo quần, rách là quăng đi may cái khác, hoang phí đến cả mồ hôi, vì có sẵn quần áo để thay…
Các tờ giới thiệu chương trình của đoàn Kim Chung. Đoàn Kim Chung, một đoàn cải lương của người bắc vào nam
năm 1954 và cuối cùng đã có vị trí sáng giá trong làng cải lương miền Nam, thành lập tới sáu đoàn Kim Chung
từ 1 đến 6, hòa nhập vào đời sống văn nghệ miền Nam, tranh thủ sự ủng hộ của đồng bào vừa từ miền Bắc vào
và “Nam hóa” dàn diễn viên, mời các cây bút viết tuồng người miền Nam tiếp tay trong việc cung cấp tuồng tích
ẢNH: SƯU TẦM CỦA LÊ HOAN HƯNG
Người Sài Gòn hào hiệp
Những người trong giới trí thức, nghệ sĩ miền Bắc chuyển vào Sài Gòn ấp ủ bao nhiêu hoài bão để thực hiện ở quê hương mới. Tuy nhiên, dù có nổi tiếng thì họ cũng phải đối diện với bao khó khăn để hòa nhập vào đô thị mà họ sẽ sống lâu dài này. Báo Đời Mới năm 1954 đã làm một chuỗi phóng sự Hồi mới vào của các văn nghệ sĩ, có nhiều chuyện cảm động đáng suy gẫm về những gì họ đã gặp.
Nhà văn Thượng Sỹ, một nhà văn nổi danh từ thời tiền chiến mà trong cuốn Bốn mươi năm nói láo, nhà văn Vũ Bằng thường nhắc tới. Gia đình ông vào Sài Gòn định cư chỉ có bốn người, gồm hai vợ chồng, đứa con nhỏ và chị giữ em. Tuy nhẹ gánh gia đình, tên tuổi từng nổi tiếng là nhà phê bình văn chương, cả nhà ông cũng gặp những khó khăn ban đầu. Mới vào, ông bị lên cơn sốt rét vào nằm Bệnh viện Bình Dân. Vợ con ông và chị giúp việc lên xe xích lô máy chạy vòng vòng Sài Gòn – Gia Định tìm kiếm bà con họ hàng. Tìm mãi không ra, thấy trời đã tối, anh xích lô máy bèn đề nghị về tạm nhà anh ở Vườn Lài. Vừa về tới nhà, anh liền bảo vợ:
“Má bầy trẻ đâu, tôi đón được một người làng xóm cũ đây!”.
Anh là người bắc, lấy vợ nam và đã lanh trí nhận “người làng” để thêm thân tình, mong vợ trọng đãi khách. Chị vợ, người chất phác, lăng xăng đi quét bộ ván cho ba vị khách nằm nghỉ, đi nấu nước châm trà và còn ra tiệm mua thêm 10 đồng thịt quay về đãi cơm khách nữa. Vợ anh xích lô trong lúc ăn cơm không ngần ngại hỏi:
Chưa hiểu tiếng Sài Gòn nên chị Thượng Sỹ ngồi yên, anh xích lô đáp thay:
“Anh ấy làm “nhật chình”!” (nhật trình: cách gọi báo chí cách nay trên dưới nửa thế kỷ ở miền Nam). Chị vợ gật gù:
“Ờ, tốt lắm. Có phải như các ông nhà báo ở Sài Gòn thường viết bài bênh vực nhà lá bị đuổi đất không?”.
Chị vợ anh xích lô có thiện cảm ngay với vợ người làm báo mới quen. Sáng hôm sau, anh xích lô tiếp tục chở cả nhà đi thăm nhà văn đang nằm bệnh viện. Ông Thượng Sỹ cảm động về câu chuyện này lắm. Vài ngày sau, ông khỏe nên cả nhà tiếp tục nhờ anh xích lô chở đi tìm bà con. Ông gặp một nhà văn quen biết nên tá túc nhờ vài hôm. Một bữa, ra chợ mua đồ, bà vợ ông gặp một chị không quen, hỏi thăm qua lại thế nào mà chị nói ngay:
“Thôi, chị cứ theo tôi về nhà ba má tôi. Chị nhận là bạn cũ của tôi, thế nào ông bà cũng cho ở đậu”. Cả nhà lại đến đó ở, một căn nhà lá rộng rãi ở đường Quang Trung, Gò Vấp. Ông bà chủ nhà đã lớn tuổi, còn làm việc được, chuyên nghề đúc ống cống xi măng. Ông bà nói ngay với khách lạ:
“Thầy cô cứ ở đây với tôi, khỏi phải mua giường chiếu, mùng mền, đồ bếp, tôi có sẵn cả. Tôi để thầy cô dùng chung. Gạo củi, mắm muối, cứ tự nhiên nấu cơm mà ăn!”.
Bà chủ còn nói là bà không lấy một xu nhỏ.
Gia đình Thượng Sỹ ở đó, không muốn lạm dụng lòng tốt của ông bà chủ nhà nên bà Thượng Sỹ xin tự lo ăn uống, chỉ ở nhờ thôi. Ông chủ nhà nói lên điều xuất phát từ đáy lòng:
“Cô Hai chớ nề hà. Con gái tôi nói cho tôi hay thầy Hai làm báo, nên tôi quý thầy lắm. Vì bấy lâu nay đọc báo, tôi thấy các ông nhà báo luôn bênh vực anh em lao động chúng tôi. Tôi có phải nhịn ăn mà giúp thầy cô, tôi cũng vui lòng!”.
Sau này, nhà văn Thượng Sỹ nói với tác giả bài tường thuật này:
“Tôi cứ tưởng xảy nhà ra thất nghiệp… nào ngờ tôi lại hai lần “sa” vào hai cảnh gia đình lao động. Ấy cũng là tôi hái quả của một cây mà các anh vun bón cho tươi tốt…”.
Ắt hẳn trong thâm tâm, ông biết rằng còn do tính hào hiệp của người Sài Gòn, luôn sẵn sàng giúp người gặp khó khăn. Như khi xưa họ hoặc cha ông chân ướt chân ráo đến thành phố này đã được người ở đây giúp đỡ. Điều đó khiến ông nói lên ý nghĩ:
"Nếu được tiếp tục nghề cầm bút ở đây, tôi sẽ quyết dùng ngòi bút phục vụ cho đời sống người bình dân lao động”.
Đúng như vậy, chỉ một thời gian ngắn sau, ông tiếp tục đi làm tại một tờ báo chứ không đi dạy học như ý định ban đầu.
Nhà văn Tam Lang, tác giả phóng sự nổi tiếng Tôi kéo xe, khi vào miền Nam cũng ấp ủ nhiều mộng ước. Trước khi vào sống hẳn tại Sài Gòn, ông từng vào đây để tĩnh tâm viết hai vở chèo cổ, theo như bài báo trên báo Đời Mới. Viết xong, ông bay ra bắc lập một gánh hát chèo. Theo tác giả Trương Thọ Phú, Tam Lang khi vào nam vẫn muốn làm sống lại chèo cổ ở Sài Gòn. Ông nói:
“Chèo cổ là âm thanh thuần túy của đất nước, không như tuồng cổ là điệu hát bắt chước điệu tuồng Tàu, cũng không như tân nhạc bắt chước điệu hát của Tây. Đây là thứ âm thanh đặc biệt Việt Nam…”.
Đây là tâm huyết của vua phóng sự đất bắc, mong phục hồi vốn văn hóa dân tộc trên vùng đất mới Sài Gòn. Tuy nhiên, chuyện đó đã không thực hiện được như chúng ta đã thấy. Trước kia, ông cũng không thực hiện được điều đó ở Hà Nội ngàn năm văn vật, lúc đó lại đang mê tân nhạc và… cải lương miền Nam.
Câu chuyện hội nhập vào cuộc sống Sài Gòn là một câu chuyện dài nhiều tập, nhiều chương. Trong đó, có nước mắt và nụ cười, có sự rộng rãi bao dung và cũng có những khắt khe, thiếu thông cảm và hiểu biết trong cư xử. Qua thời gian và yêu cầu của cuộc sống một đô thị lớn, tính bảo thủ bị pha loãng dần, sự chấp nhận lẫn nhau ngày càng mạnh mẽ và người ta tìm cách dung hòa những dị biệt, hợp lực xây dựng cuộc sống yên ổn và phát triển. Sự dung hòa đó đã tạo nên chất Sài Gòn, cá tính Sài Gòn ngày hôm nay.
Ngày xưa, tại quảng trường của một thành phố nọ, có một nhà hiền triết xuất hiện
và tuyên bố giải đáp được tất cả mọi thắc mắc của bất cứ ai đến vấn kế.
Một hôm, giữa đám người đang say mê lắng nghe nhà hiền triết, có một mục tử
từ trên núi cao đến. Nghe tiếng đồn về sự thông thái và khôn ngoan của nhà hiền triết, anh muốn chứng kiến tận mắt, nghe tận tai và nhất là để hạ nhục nhà hiền triết giữa đám đông.
Anh tiến đến gần nhà hiền triết, trong tay bóp chặt một con chim nhỏ. Anh đặt câu hỏi như sau: "Thưa ngài, trong tay tôi có cầm một con chim. Ngài là bậc thông thái biết được mọi sự. Xin ngài nói cho tôi biết con chim tôi đang cầm trong tay sống hay chết?".
Nhà hiền triết biết đây là một cái bẫy mà người mục tử tinh ranh đang giăng ra.
Nếu ông bảo rằng con chim đang còn sống, thì tức khắc người mục tử sẽ bóp cho nó chết trước khi mở bàn tay ra. Còn nếu ông bảo rằng con chim đã chết thì lập tức con người khôn manh ấy sẽ mở bàn tay ra và con chim sẽ bay đi.
Sau một hồi thinh lặng, trước sự chờ đợi hồi hộp của đám đông, nhà hiền triết mới trả lời như sau: "Con chim mà ngươi đang cầm trong tay ấy sống hay chết là tùy ở ngươi. Nếu ngươi muốn cho nó sống thì nó sống, nếu ngươi muốn cho nó chết thì nó chết".
Ai trong chúng ta cũng khao khát hạnh phúc. Ai trong chúng ta cũng mong ước được cuộc sống an bình, vui tươi. Nhưng lắm khi chúng ta chạy theo chiếc bóng mờ ảo của hạnh phúc hơn là hưởng nếm hương vị chính hạnh phúc đang trong tầm tay của chúng ta.
Hạnh phúc ấy còn hay mất tùy ở mỗi người chúng ta, tùy sự hiểu biết và cách cư xử trong cuộc sống hàng ngày với tất cả mọi người chung quanh.
Chúng ta được hạnh phúc, chúng ta được an bình hay không là do chính chúng ta quyết định, không do bất cứ ai, bất cứ thánh thần thiên địa nào ban cho.
- Tại sao vậy?
- Bởi vì, nếu thực có đấng nào đó có quyền năng ban phước cho - tại sao không ban cho ai khác, lại ban cho mình. Mình có xứng đáng được hưởng hơn người khác chăng? Suy nghĩ ban phước cho chính mình như vậy, chỉ vì cái bản ngã, ích kỷ, không vị tha, làm sao có được hạnh phúc?
Hạnh phúc đích thực của chúng ta, niềm vui đích thực của chúng ta chính là chúng ta quên mình vì người, cứu đời giúp người, dù cho hoàn cảnh thế nào vẫn cảm thấy an bình, hạnh phúc.
Ý thức được sự xả kỷ vị tha, quên mình vì người trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta sẽ có được niềm vui hạnh phúc đích thực do chính mình quyết định, chính mình làm chủ, không làm nô lệ.
Đức Phật đã chỉ dạy: "Sự sân giận là ngọn lửa thiêu đốt hết cả mọi công đức!". Và "Người nào ngăn được cơn giận dữ nổi lên như dừng được chiếc xe đang chạy mạnh, mới là kẻ chế ngự giỏi; ngoài ra chỉ là kẻ cầm cương hờ"
Có lẽ tất cả mọi người đều đã biết, thuộc lòng câu tục ngữ rất đơn giản này: "No mất ngon, giận mất khôn".
Bụng đã no ứ rồi, thì dầu có con tôm xuất khẩu giá trên hai chục ngàn đồng một con ăn vào cũng chẳng thấy ngon lành gì!
Cũng vậy, khi cơn giận nổi lên thì người dầu đã già trên bảy mươi, hay có các bằng cấp đại học, trên đại học, cũng dễ trở nên người... ngu như thường! ("mất khôn" có nghĩa là ngu si, ám muội, vô minh rồi!).
Đức Phật cũng đã chỉ dạy: "Sự sân giận là ngọn lửa thiêu đốt hết cả mọi công đức!". Và "Người nào ngăn được cơn giận dữ nổi lên như dừng được chiếc xe đang chạy mạnh, mới là kẻ chế ngự giỏi; ngoài ra chỉ là kẻ cầm cương hờ" (1).
Tục ngữ phương Tây cũng có câu: "Sự giận dữ là cơn gió lớn làm tắt ngọn đèn thông minh".
Ngày xưa, vợ chồng chủ một hiệu bán bánh bất hòa, cãi nhau - từ nhỏ tiếng đến to tiếng.
Người ta nghe tiếng chị vợ hét lên:
- Anh đòi giết tôi hả? Tôi không sợ anh đâu!
Tiếng người chồng:
- Được rồi, tui nhất định sẽ giết bà!
Ông già bên hàng xóm chạy sang khuyên can họ:
- Này hai bác ơi, làm gì mà đòi giết nhau dữ vậy? Có việc gì khhông nên, không phải hai bác hãy bình tĩnh mà chỉ bảo nhau, chứ đừng nên làm thế người ta chê cười - làm sao mà dạy bảo con cháu được ?
Họ không thèm nghe lời ông già. Người vợ lại to tiếng hơn:
- Cứ giết tôi đi! Tôi thách anh đó...
Người chồng cũng chẳng nhịn:
- Hôm nay tôi nhất định sẽ giết bà!
Ông già liền đến các sạp bánh của họ, thu hết tất cả các loại bánh,đem phân phát cho những người đang bu lại xem họ cãi cọ, đánh nhau.
Hai vợ chồng thấy thế, lập tức không đánh nhau nữa, vội chạy ra hỏi:
- Ô kìa! Ông làm cái gì vậy? Nhà người ta buôn bán sao tự nhiên ông lại đem lấy của chúng tôi cho không mọi người?
Họ trừng mắt nhìn ông già, hấp tấp ngăn cản.
Ông già thản nhiên nói:
- Vừa rồi, bác trai nói nhất định giết bác gái; tôi nghĩ, bác gái mất rồi, thì bác trai cũng sẽ không sống được, vì hối hận và buồn. Vậy cả hai người đều chết, và tiệm bánh này cũng sẽ vô dụng, nên tôi đem bố thí để gây chút công đức, tiếng thơm cho hai bác đấy chứ! Làm người khó được, mà chết như thế thì không biết đến kiếp nào được làm lại người đây?
- Không được, nếu ông đem cho hết thì ngày mai chúng tôi lấy gì mà ăn đây?
"Cơn gió lớn" thổi tắt đi ngọn đèn thông minh, làm cho tâm địa con người tối tăm, không còn trí khôn, sự sáng suốt, để hướng dẫn hành động: dễ xảy ra bao việc đáng buồn, đáng tiếc; đang và sẽ nổi lên trong lòng mọi người...
Vậy có cách gì ngăn trở, dập tắt "Cơn gió lớn" hung ác, gây bất hạnh cho nhiều gia đình, tạo sự bất an, rối loạn trong xã hội hay không?
Có nhiều phương cách để hóa giải, tiêu trừ "Cơn gió lớn" (hay ngọn lửa) nguy hại ấy; nhưng tựu trung cũng bắt nguồn từ bốn tâm lớn : Từ, Bi, Hỷ, Xả. Người đã có bốn tâm vô lượng diệu kỳ ấy rồi, thì mọi trận cuồng phong cũng sẽ tiêu tan.
Ngày xưa, Thầy tôi có dạy : "Khi cảm nhận có điều bất bình, không được như ý, có thể đem lại sự sân giận; con hãy nhớ, đọc ngay câu này : "Nói là ngu, im lặng là khôn"... Đó là đức nhẫn nhục rất cao quý sẽ mang lại cho ta cho người sự an bình, hạnh phúc...".
Thầy giảng dạy cho tôi về giá trị to lớn của chữ "Nhẫn nhục": Tục ngữ cũng có câu "Một câu nhịn, chín câu lành". Người có đức tính "nhẫn nhục" là người có tâm hồn rộng lớn, có tình thương yêu chân chính, bao la. Đức hạnh "nhẫn nhục" là hạnh thứ 3 trong 6 hạnh mà Chư Bồ Tát luôn hành trì để tế độ (lục độ) cho mình cho người.
Và Thầy đã kể cho tôi nghe về sự tích của câu "Bách nhẫn hóa thiên kim" (100 nhẫn hóa ngàn vàng) : Ngày xưa, ở làng nọ, có ông lão nổi tiếng về đức "nhẫn nhục". Cả huyện ai ai cũng mến phục. Bữa nọ, trong ngày làm lễ thành hôn cho cậu con trai út, có một ông già hành khất, đến ăn xin. Ông không chịu ngồi ăn chung với quan khách, cũng chẳng chịu ngồi ăn riêng một cỗ, mà lại đòi ngồi ăn trong bàn họ.
Ông lão gia chủ cũng vui vẻ chấp thuận sau khi xin phép hai họ. Buổi chiều , tiễn họ về, quan khách đã vắng; ông già khất thực chưa chịu ra đi! Lão gia chủ vui vẻ dọn cơm. Đến tối, ông già đòi ngủ lại. Lão ta sốt sắn cho người nhà dọn riêng một phòng tươm tất. Ông già không chịu ngủ ở phòng ấy, lại đòi vào ngủ ở phòng "tân hôn" được trang hoàng lộng lẫy!
Lão gia chủ đưa con sang phòng khác, dành phòng "tân hôn" cho ông ta theo ý muốn của ông.
Hơn 8 giờ sáng chưa thấy ông già khất thực dậy ăn điểm tâm, lão gia chủ khẽ đẩy cửa bước vào: không thấy ông già xin ăn đâu cả, mà lại thấy nguyên một pho tượng bằng vàng ròng óng ánh! (3)
"Cơn gió lớn" sẽ nổi dậy trong ta bất cứ lúc nào, vì điều bất như ý luôn luôn xảy ra trong đời sống thường nhật. (Mà có cuộc sống nào luôn suôn sẻ, "Vạn sự như ý" đâu?). Sự im lặng trước mọi nghịch cảnh, nghịch lý, là điều vô cùng cần thiết, để ta đủ thông minh, sáng suốt, có thể quyết định chính xác, đúng đắn; tránh được mọi suy nghĩ chủ quan, dẹp được cái "ngã" tự cao mù quáng - sẽ đem lại nhiều an vui, lợi ích thiết thực cho ta và cho người. Chỉ trong phút chốc giận dữ, ngọn lửa hung bạo sẽ thiêu đốt hết mọi công đức tích chứa nhiều tháng năm, thậm chí đến nhiều kiếp.
Vậy luôn tỉnh giác, xin đừng bao giờ để cho "Cơn gió lớn thổi tắt ngọn đèn thông minh" vốn có trong ta nhé
Thánh Clemente' Hofbauer, nổi tiếng là một người nóng tính, Ngài được cử làm bề trên một cô nhi viện.
Một hôm trong nhà không còn lương thực, Clemente' đã phải đích thân đi xin ăn. Ngài vào nhà một người giàu có đang tổ chức một sòng bạc. Người chủ nhà vừa gặp cơn đen lại vừa bị người hành khất quấy rầy. Ông không kiềm nổi cơn bực bội nên đã nhổ tung nước bọt vào mặt thánh nhân.
Bình thường có lẽ Clêmentê đã có phản ứng mạnh. Nhưng vốn luyện tập nhẫn nại, nên ngài đã đứng lên lau mặt rồi vui vẻ nói với người đã phỉ nhổ mình: "Ðó là qùa ông dành cho tôi, xin cảm ơn ông. Thế còn qùa của các trẻ mồ côi đâu?". Bị đánh động bởi cử chỉ điềm nhiên vui vẻ của thánh nhân, người chủ nhà đành phải lấy tiền trao cho ngài để giúp đỡ các em mồ côi.
Nếu có dịp về vùng miền quê, chúng ta dễ phát hiện ra những nụ cười ngây thơ và trong sáng trên khuôn mặt của các em thiếu nhi nơi đây. Những hình ảnh đáng yêu, hồn nhiên của các em thiếu nhi tại một vùng quê thanh bình đã phần nào mô tả được cuộc sống thường ngày của các em tại nơi này. Với khói bụi, với cánh đồng lúa, với khuôn mặt thân thương và trong sáng đem đến sự đáng yêu, tinh nghịch, ngộ nghĩnh trên từng khuôn mặt. Cuộc sống của con người không thể thiếu đi những nụ cười của trẻ nhỏ, những nụ cười mang đến cho chúng ta sự vui vẻ và thân thiện. Tuổi thơ không nuôi dưỡng chiến tranh nhưng luôn gầy dựng hoà bình. Tuổi thơ không ghen ghét, kèn cựa lẫn nhau nhưng đoàn kết, hợp tác thân thương. Thế nên, tuổi thơ thật đáng yêu, đáng trân trọng. Và những ai có tâm hồn tuổi thơ cũng đáng được ca ngợi, mến yêu.
Chúa Giê-su Ngài cũng yêu thích tâm hồn tuổi thơ. Ngài cũng cần các môn đệ Ngài phải có tấm lòng đơn sơ như trẻ nhỏ. Một tấm lòng đơn sơ để Chúa làm mọi việc nơi mình. Một tấm lòng đơn sơ để có thể cúi xuống làm mọi việc vì lòng yêu mến tha nhân.
Tâm hồn đơn sơ ấy đã được một người sống và thể hiện thành công trong suốt cuộc đời mình chính là thánh nữ Tê-rê-sa hài đồng Giê-su. Nơi ngài chúng ta thấy một con người đơn sơ. Một tâm hồn trẻ thơ. Một cuộc đời ẩn tu và chỉ sống vỏn vẹn 24 năm dương gian nhưng đã làm cho cả thế giới kính phục.
Dù rằng trong ngày an táng của ngài vào ngày 1. 10. 1897, tại một tỉnh lẻ ở Pháp một đám tang chỉ vỏn vẹn mười người, đi đầu là Thánh Giá, tiếp theo là Linh Mục linh hướng, rồi linh cữu người quá cố trên một chiếc xe đẩy, đi sau linh cữu là mấy nữ tu và vài ba thân nhân. Thế nhưng, trước giờ chết, chị đã nói như tạm biệt cộng đoàn: "Tôi không chết, tôi bước vào cõi sống”. Và như một vị tiên tri, chị nói với mẹ Bề Trên :" A ! Con biết lắm, rồi cả thế giới sẽ yêu thương con”. Liền sau cuộc mai táng tại nghĩa trang của thị trấn, có một trận mưa hoa hồng ngay trên mộ của nữ tu trẻ tuổi này, vì chị đã hứa:”Tôi về trời, là để làm điều tốt cho thế gian”.
Từ đấy, cả thế giới đã nói về chị Têrêsa. Cuộc bùng nổ những sách báo viết về chị. Chị được tôn vinh hiển thánh năm 1925, và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền gíao toàn cầu. Năm 1997 Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã tôn phong Ngài lên Tiến sĩ Hội Thánh.
Tiểu sử của Ngài thật ngắn gọn. Nhưng nói về tâm hồn của ngài là một kho tàng vô giá. Têrêsa sinh năm 1873. Vào dòng kín lúc 15 tuổi. Chết lúc 24 tuổi và được phong thánh vào năm 1925. chúng ta nhận thấy chị là một nữ tu tiến rất mau trên con đường thánh thiện.
Chỉ tu có chín năm, thế mà hai mươi tám năm sau khi qua đời đã được phong thánh.
Có lẽ chúng ta sẽ ngạc nhiên và tự hỏi :
- Chị sống thế nào mà nên thánh mau lẹ như vậy ?
Chắc hẳn chị sẽ trả lời cho chúng ta rằng :
- Chị chỉ làm những việc nhỏ bé tầm thường và kín đáo. Tầm thường nhưng với một trái tim phi thường còn hơn là việc phi thường mà với một trái tim tầm thường, lố bich
Có thể nói cuộc đời của Têrêsa được gồm tóm trong một chữ yêu. Thánh nữ muốn sống cho tình yêu và chết cho tình yêu để được yêu Chúa luôn mãi bằng một tình yêu muôn thuở, không bao giờ tàn phai.
Với tình yêu chân thành, Tê-rê-sa đã sống và hành động vì tình yêu. Dù chỉ là công việc tầm thường như :giặt quần áo cho các chị em trong dòng, quét cầu thang, dọn phòng ngủ, làm vườn. . . Tê-rê-sa đã làm vì lòng yêu mến Chúa. Tê-rê-sa đã biến những công việc tầm thường ấy trở thành những việc phi thường khi phủ vào ấy một tình yêu nồng nàn dành cho Thầy chí thánh Giê-su đến mức độ ngài nói: ‘dù cúi xuống nhặt một cây kim, chị cũng làm vì lòng yêu mến Chúa và cứu rỗi các linh hồn.
Bên cạnh đó, Têrêsa đã làm tất cả những việc đó trong tinh thần của một trẻ thơ: "Con ước ao trở nên vô danh tiểu tốt trước vạn vật . Con không mơ ước danh vọng của loài người . Tê-rê-sa đã sống một cuộc đời đơn sơ như trẻ thơ. Không toan tính. Không vị lợi. Nhưng luôn khiêm tốn, nhỏ bé để dễ dàng phục vụ tận tuỵ nhiệt thành vì Chúa và vì tha nhân.
Sự nhỏ bé ấy còn được biểu lộ qua thái độ yêu thương giúp đỡ các chị em bằng cách chịu đựng những bực bội do họ gây nên. Có lần khi phải chăm sóc một maseur già khó nết, chị vẫn luôn tươi cười với lời gắt gỏng của Maseur già, bằng ánh mắt cảm thông với những sai lỗi của các chị em khác. Chị đã cho đi bằng những việc làm cụ thể.
Con đường nên thánh của Tê-rê-sa thật bình thường. Bình thường từ cách sống của mình chan hoà tình yêu. Bình thường bằng cách sống đơn sơ như trẻ nhỏ để gìn giữ hoà khí với mọi người. Chị đã sống đơn sơ và được Chúa chúc phúc như lời Ngài đã phán :
- Nếu không trở nên như trẻ nhỏ, các con sẽ chẳng được vào nước trời đâu.
Ước gì cuộc đời chúng ta luôn đơn sơ như trẻ thơ để dễ gần gũi và đáng yêu trước mặt mọi người. Ước gì chúng ta luôn làm mọi việc vì lòng yêu Chúa và cứu rỗi các linh hồn để dù việc ta làm nhỏ nhặt nhưng sẽ là những việc phi thường mang lại mùa xuân cứu độ cho anh em. Amen
Trong chuyến viếng thăm tiểu bang Utah, tôi đi thăm hầu hết các thắng cảnh nơi đây.
Thủ phủ của tiểu bang là Salt Lake City. Hồ nước mặn Great Salt Lake rộng mênh mông nằm trong vùng đồi núi Rocky Mountains cao hàng ngàn bộ cách mặt biển. Ðộ muối trong nước cao gấp năm lần nước biển đại dương. Một kỳ công của Thượng Ðế đã ưu đãi cho vùng đất cao nguyên này.
Utah còn là Thánh địa của đạo Mormon, đang phát triển rất mạnh. Ðến Utah không thể không đến viếng Mormon Temple. Một thắng cảnh, một kỳ quan có chiều dài lịch sử gắn liền với sự khai khẩn, xây dựng và phồn thịnh của Utah. Ðạo Mormon (Mạc Môn) còn tên gọi khác là Ðạo LDS viết tắt của chữ Latter Day Saints, có nghĩa là Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau của Chúa Jesus Christ (The Church of Jesus Christ of Latter Day Saints). Ðền thờ trung tâm có sáu ngọn tháp cao chót vót xây dựng suốt bốn mươi năm mới hoàn thành. Trung tâm giáo hội (Temple Square) trải rộng 35 mẫu Anh là một quần thể kiến trúc vĩ đại, tân kỳ, lộng lẫy và trang nghiêm. Trên đỉnh tháp đền thờ (Temple Of The Lord) cao vút là tượng một người đàn ông bằng vàng đứng thổi kèn. Ðây là tượng của vị thiên sứ ánh sáng Moroni hiện ra vào ngày 21 tháng 9 năm 1823. Ngài soi dẫn cho tiên tri Joseph Smith đương thời biết nơi chôn giấu biên sử cổ xưa. Sách ấy chứa đựng trọn vẹn Phúc Âm vĩnh cửu do chính Ðấng Cứu Rỗi đã ban cho các dân tộc. Từ đó, kinh sách Mormon được dịch và viết ra dựa vào bảng khắc bằng vàng (Gold Plates) chôn cất trên đồi Cumorah gần làng Manchester thuộc tỉnh hạt Ontario, tiểu bang New York từ năm 421 sau Thiên Chúa. Toàn bộ sách Mormon là lời rao giảng của Chúa Jesus Christ giữa người Nephites không lâu sau khi Chúa phục sinh. Ngài tiên tri Joseph Smith còn được Chúa khải thị viết nên tập Giáo Lý và Giao Ước.
Luật tiểu bang Utah không cho mở sòng bài và các hình thức đánh bạc công cộng. Các chợ chỉ bán bia với nồng độ 3 phần trăm. Kết hợp với "Lời Thông Sáng" của đạo Mormon, đạo hữu không cờ bạc, không hút thuốc, không uống các loại nước có ga và có màu khiến cho đời sống nơi đây yên bình hơn, ít tội phạm hơn so với tình trạng chung trên đất Mỹ. Và có thể nói là môi trường thích hợp cho tuổi thơ được nuôi dưỡng và lớn lên trong nếp sống trong lành.
Tôi đi theo đòan người vào thăm khu Temple Square. Dọc theo lối đi là những luống hoa khoe màu rực rỡ. Mặt nước hồ nhân tạo được xây cao trên mặt đất nằm im phăng phắc như tấm gương vĩ đại phản chiếu lấp lánh ánh mặt trời. Các hình tượng điêu khắc đầy nghệ thuật và phong phú được trưng bày trên những bực thềm và dựng rải rác trong khuôn viên rộng lớn. Các chức sắc, những người truyền giáo và tín hữu làm công tác thiện nguyện trang phục vét-tông cà-vạt chỉnh tề. Họ có nhiệm vụ giữ trật tự, hướng dẫn và giải thích những điều mà khách thăm viếng và tín đồ hành hương cần tìm hiểu.
Tôi vừa bước lên khỏi bậc thềm khu nhà thờ Church Office Building, tòa cao ốc 26 tầng dùng làm trung tâm điều hành của giáo hội, chợt một thanh niên trong bộ vét-tông đen trông chững chạc và đạo mạo đến trước mặt tôi :
- Thưa, bác là người Việt ?
Tôi nhận ra là một thanh niên Việt Nam. Có lẽ đây là thầy Tư tế, một chức phẩm trong dòng đạo này làm công tác thiện nguyện vào ngày Chúa Nhật. Tôi đứng lặng nhìn người thanh niên đang đứng trước mặt tôi có khuôn mặt giống người bạn của tôi năm xưa khi ở chung trong trại tù sau năm 1975. Sự bàng hoàng trải qua mấy phút đồng hồ, tôi mới thốt nên lời:
- Vâng, tôi là người Việt. Xin lỗi cậu về sự thất thố đã đường đột nhìn cậu trong khung cảnh này. Có điều tôi cũng xin thú thật là cậu có khuôn mặt giống người bạn tôi hồi còn ở quê nhà.
Người thanh niên hướng dẫn tôi đi thăm khu Bảo tàng viện và Nghệ thuật gồm tranh ảnh và những bức tượng điêu khắc các vị Lãnh đạo (Presidents) và 12 Sứ Ðồ từ thời khai sáng đạo Mormon đến bây giờ.
- Này, cậu qua Mỹ năm nào? Tôi gợi chuyện, khi người thanh niên đứng lại đợi đoàn khách thăm viếng còn trụt lại sau.
- Thưa bác, cháu qua đây vào giữa năm 1992 theo diện HO cùng với mẹ cháu và một người chị được định cư ở tiểu bang Utah này ngay từ ngày đầu.
- Thế ba cậu đâu ?
- Ba cháu chết trong trại tù An Ðiềm .
- Ba cậu tên gì?
- Tôn Long Mỹ .
Tôi sửng sốt đến lặng người, rồi nhắc lại:
- Tôn Long Mỹ là cha ruột của cậu sao?
- Vâng ạ. Me cháu bảo ba chết lúc cháu mới ba tuổi.
- Cháu ơi, Tôn Long Mỹ là bạn của bác sống gần nhau suốt ba năm trong tù.
Người thanh niên đứng khựng lại nhìn tôi rồi thảng thốt kêu lên:
- Ba cháu là bạn cùng tù với bác? Ôi, quý hóa quá. Ðiều ước nguyện của me cháu là mong gặp được người nào đã chứng kiến cái chết của ba cháu trong tù. Thượng Ðế ơi ! ngài đã chuẩn nhận lời cầu xin của con và ngày hôm nay Cha trên trời đã mang đến cho gia đình con ân sủng của ngài. Con xin tạ ơn Chúa , Amen.
Người thanh niên ngẩng đầu lên:
- Thưa bác, tên cháu là Tôn Thất Trương Thuật. Cháu nghĩ bác không phải là người ngụ cư ở tiểu bang này vì vậy xin phép bác cho Me cháu được gặp mặt trong ngày mai. Có được không, thưa bác?
Tôi móc bóp lấy tấm danh thiếp của con trai tôi đưa cho Thuật:
- Ðây là số phôn và địa chỉ nhà con tôi. Qua đây chỉ để thăm con cháu và viếng cảnh, tôi chẳng có gì phải bận bịu. Me cậu muốn gặp tôi giờ nào cũng được, còn cả tuần nữa tôi mới quay về Cali.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.