Lời thề không viết và vết thương chiến tranh
Kể từ ngày mất nước, sau khi cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam, tôi đi tù, và cũng từ đó tôi tự thề với lòng mình sẽ không bao giờ viết gì về những ngày binh lửa năm xưa nữa. Viết ra chỉ làm vết thương thêm rỉ máu, chỉ gợi lại những khuôn mặt, những tiếng gọi nhau ngoài chiến trường mà rất nhiều người trong số đó đã nằm lại vĩnh viễn. Năm mươi năm trước, tôi là sĩ quan phụ trách kế hoạch hành quân của Quân Đoàn II, đồn trú ở Tây Nguyên. Từ 1968 đến 1975, hầu hết những cuộc hành quân lớn nhỏ – giải tỏa Đức Cơ, Tân Cảnh, Pleime, Kontum, Bu Prang, Đức Lập… – tôi đều ít nhiều có phần, được nghe, được thấy, được chia sẻ bao niềm vui thắng trận và những ngày uất nghẹn.

Nhắc đến, lòng chỉ buồn thêm: bao nhiêu cuộc tử chiến, bao nhiêu máu xương của Sư đoàn 22, Sư đoàn 23 Bộ binh, Thiết đoàn 3 Kỵ binh, Liên đoàn 2 Biệt Động Quân, của những đơn vị tổng trừ bị kiêu hùng như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến… trên vùng cao nguyên ấy, bây giờ chỉ còn lại trong trí nhớ lẻ tẻ của một vài người lính già. Có mấy ai còn nhắc đến? Thế nhưng lời thề “không viết nữa” của tôi rốt cuộc đã không giữ được – chỉ vì một người.

Đó là Cố Thiếu tướng TRƯƠNG QUANG ÂN – một vị tướng suốt đời tận tụy với binh nghiệp, thanh liêm đến mức khi nằm xuống vẫn “hai bàn tay trắng”, không nhà, không cửa. Ông và phu nhân – một nữ sĩ quan Nhảy Dù – tạm cư ở cư xá Lữ Gia, đường Lê Đại Hành; căn nhà chật hẹp đến nỗi khi hai người hy sinh, quan tài quàn về mà không đủ chỗ. Mỗi lần nhớ đến, lòng tôi lại nhói lên. Nếu tôi không viết những điều mình biết về Tướng quân, có lẽ khi nhắm mắt vẫn còn ân hận với chính mình.
Lần trình diện đầu tiên và bài học “thẻ bài”
Tôi xuất thân khóa 20 Võ Bị Đà Lạt, sau Tướng quân 13 khóa. Khóa tôi mãn khóa ngày 20.10.1965. Lần đầu tiên tôi trình diện Đại tá Trương Quang Ân – lúc ấy là Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh – là trong một hoàn cảnh… nói cho đúng là khá ngượng ngùng. Tết 1966, đại đội tôi đồn trú tại Bảo Lộc, Lâm Đồng. Sáng mồng Một Tết, lính của tôi ra phố chơi bầu cua cá cọp, đụng với lính Chi đoàn 2/8 Thiết kỵ đang biệt phái cho Tiểu khu. Đỏ đen thế nào không biết, lời qua tiếng lại, rồi lao vào đánh nhau. Trong lúc hỗn loạn, lính của tôi… uýnh luôn cả Đại úy Chi đoàn trưởng 2/8.
Sáng mồng Bốn Tết, Tiểu khu báo cho biết 10 giờ sáng Đại tá Trương Quang Ân sẽ xuống “giải quyết sự việc”. Tôi lo lắng nhưng tự nhủ sẽ im lặng nhận lỗi, không bào chữa, không đổ thừa. Chiếc H-34 đáp xuống cách hàng quân khoảng trăm mét. Đại đội tôi chỉnh tề nhất có thể, nhưng tôi vẫn run. Vị Tư lệnh bước xuống – dáng uy nghiêm mà nhanh nhẹn, ánh mắt nghiêm khắc của một niên trưởng mà tôi đã nghe danh, đã “nghiên cứu” trước đó.
Câu đầu tiên ông hỏi trước toàn đại đội làm tôi nhớ mãi: “Các bạn có mang thẻ bài đầy đủ không, có ai quên không?” Rồi ông hỏi đến quân trang, quân dụng, xem cấp phát có đầy đủ, có ai thắc mắc gì không. Sau đó, ông mới nghiêm giọng phê bình vụ đánh lộn vô kỷ luật sáng mồng Một, nhắc cho lính tôi hiểu đâu là danh dự của người lính, đâu là tư thế của một đơn vị tác chiến. Lời lẽ cứng rắn mà vẫn đầy tình huynh đệ, như người anh cả rầy đàn em.
Khi ông tiến đến trước mặt tôi, ông chỉ nói một câu ngắn mà tôi nhớ đến già: “Chẳng lẽ ngôi trường Võ Bị đào tạo Trung úy ra chỉ để đánh lộn với đơn vị bạn thôi sao? Trung úy có biết vị Đại úy Thiết giáp bị lính của Trung úy đánh là niên trưởng của Trung úy không?” Oan ơi ông địa – chúng nó đánh nhau ngoài phố, tôi đâu có hay, nhưng tôi đã quyết không kêu ca, không thanh minh trước vị Tư lệnh. Hôm ấy, tôi học được hai điều: một là thế nào là kỷ luật và tình nghĩa trong một Sư đoàn; hai là vì sao ông lại ám ảnh với chiếc thẻ bài đến như thế.
Sau này, gặp các bạn đồng khóa về phục vụ ở Sư đoàn 23, ai cũng kể: mỗi lần Tư lệnh Trương Quang Ân đi thăm đơn vị là y như rằng kiểm tra thẻ bài từ lính đến sĩ quan. Hồi ấy, chúng tôi chỉ nghĩ đơn giản là ông kỹ lưỡng, chặt chẽ. Mãi về sau tôi mới hiểu đó là một ám ảnh rất sâu trong đời lính của ông – và cũng là điều sau này giúp chúng tôi nhận ra được những thân xác cháy đen, biến dạng sau một tai nạn định mệnh.
Mậu Thân Phan Thiết: lần thứ hai gặp người anh cả ngoài chiến trường
Tháng 2.1968, cộng sản mở đợt tấn công Mậu Thân thứ hai. Trên lãnh thổ Quân khu 2, Ban Mê Thuột, Kontum, rồi Phan Thiết rơi vào những cơn pháo kích, tấn công dữ dội. Tại Phan Thiết, địch huy động một lực lượng hùng hậu: các tiểu đoàn 480, 482 chính quy, C481 đặc công, C430, C450 chủ lực tỉnh, C485 pháo binh, do chính Trung tướng Năm Ngà – tư lệnh Quân khu 6 VC – chỉ huy. Tiểu khu Bình Thuận bị vây hãm, lao xá Phan Thiết cạnh Tiểu khu bị đặc công C481 đánh chiếm, giải thoát hàng chục tù binh của chúng.
Lúc ấy tôi chỉ huy Đại đội 3, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 44/Sư đoàn 23BB, đang hành quân trong mật khu Lê Hồng Phong, Bình Thuận. Sáng 27.2.1968, đơn vị nhận lệnh khẩn cấp quay về giải vây thị xã. Kế hoạch: đại đội tôi đánh mặt chính lao xá, Đại đội 2 của Trung úy Vũ Phúc Sinh (bạn cùng khóa, cùng đại đội D thời Võ Bị) đánh phía hậu. Khoảng cách giữa ta và địch chỉ chừng trăm thước – pháo binh, không quân không dám bắn gần, chỉ còn cách tận dụng tối đa hỏa lực cối 60 và M79. Sinh hôm đó bắn cối gần như dựng nòng thẳng đứng, có lẽ hơn 500 quả trong thời gian rất ngắn, rót vào đầu địch.

Từ 4 giờ rưỡi đến gần 5 giờ chiều, địch cố tử thủ. Khi hỏa lực của ta bắt đầu khiến chúng chao đảo, tôi chuẩn bị đợt xung phong sau cùng. Đúng lúc ấy, tôi quay lại phía sau và sững sờ: Đại tá Tư lệnh Trương Quang Ân xuất hiện, áo trận, súng Colt .45 và bidon nước bên hông, đứng giữa lằn ranh sống chết một cách bình thản. Ông xem bọn cộng quân trước mặt như cỏ rác. Tôi vội ra chào và nghe huấn lệnh. Không ngờ đó là lần cuối cùng tôi được thấy ông bằng xương bằng thịt.

Ngay sau khi ông đến, chúng tôi đồng loạt xung phong. Tiếng súng hòa với tiếng thét xung phong của lính Đại đội 3, cộng thêm áp lực từ phía đại đội Sinh, khiến địch tan hàng. Lao xá được chiếm lại, bọn cộng quân bỏ xác từng cụm, nhiều đứa ôm nhau chết trong tư thế còn nguyên vẻ kinh hoàng. Đa số tuổi chỉ mười lăm, mười sáu. Chiến thắng ấy, ngoài tinh thần chiến đấu của anh em, tôi vẫn nghĩ yếu tố quyết định là hình bóng của người Tư lệnh hiện diện ngay tuyến đầu, giữa đạn lửa, như một cột trụ tinh thần cho toàn đơn vị.
Bu Prang – Đức Lập và tai nạn H-34 định mệnh
Phu nhân của Tướng quân, bà Dương Thị Kim Thanh, là một trong chín nữ quân nhân Nhảy Dù đầu tiên của Quân đội Quốc gia Việt Nam. Ông bà có 3 người con (1 trai, 2 gái), một bà mẹ già và một cô em gái cùng chung mái nhà nhỏ. Đầu tháng 9.1968, cộng sản mở chiến dịch Thu – Đông trên toàn Vùng 2 chiến thuật, vây hãm Bu Prang – Đức Lập (tỉnh Quảng Đức cũ). Trước hỏa lực áp đảo của địch, các đơn vị trú phòng vẫn kiên cường bám trụ – và trên đầu họ, gần như mỗi ngày, là chiếc trực thăng chở vị Tư lệnh Sư đoàn 23BB đến thị sát, ủy lạo, chỉ huy.
Ngày 8.9.1968, khoảng 10 giờ 30 sáng, sau khi ghé căn cứ Đức Lập, chiếc H-34 chở Chuẩn tướng Trương Quang Ân, phu nhân và một số sĩ quan, cố vấn cất cánh thì bất ngờ gặp nạn, phát hỏa và rơi. Hai xạ thủ bị hất văng ra ngoài bị thương nhưng sống sót, còn lại – trong đó có vị Đại tá Cố vấn trưởng Sư đoàn, hai phi công và hai sĩ quan tùy viên Việt Nam – đều chết cháy, thân xác biến dạng gần như không còn nhận ra. Tin dữ báo về Pleiku vào một buổi chiều mưa lạnh. Lúc ấy tôi đang làm sĩ quan kế hoạch hành quân Phòng 3/Bộ Tư lệnh Quân Đoàn II. Thiếu tá Nguyễn Văn Đệ – Trưởng ban – nghiêng người nói nhỏ: “Chuẩn tướng Trương Quang Ân và Phu nhân tử nạn rồi…”
Cả phòng im lặng. Một vị tướng tài, 36 tuổi, ra đi giữa lúc binh nghiệp đang ở đỉnh cao. Điều khiến tôi lạnh người là chi tiết này: tất cả các thi thể chỉ được nhận dạng nhờ… những tấm thẻ bài. Những tấm thẻ mà suốt thời gian chỉ huy, mỗi lần đến thăm đơn vị, ông đều nhắc, đều kiểm tra, như một nỗi ám ảnh nghề nghiệp. Hóa ra đó không phải là chuyện “khó tính” thường ngày, mà là một thứ linh cảm nào đó của người chiến binh đã đi qua quá nhiều cái chết, hiểu rằng rồi sẽ có lúc chính mình cũng cần đến một tấm kim loại nhỏ nhoi để được gọi đúng tên lần cuối.
Tang lễ giản dị, cơn mưa kỳ lạ và nỗi chua xót trong lòng người lính trẻ
Sáng 10.9.1968, tôi tháp tùng Tư lệnh Quân đoàn II dự tang lễ của Tướng quân và phu nhân tại cư xá Lê Đại Hành. Ngôi nhà nhỏ đến mức hai quan tài phải đặt tạm ngoài sân. Nhìn hai cỗ quan tài của người Tư lệnh và người vợ Nhảy Dù của ông nằm khiêm tốn trong một góc sân hẹp, tôi không khỏi chạnh lòng: trong khi ấy, có những tướng tham nhũng nhà cao cửa rộng, biệt thự kín cổng cao tường. Trương Quang Ân – một người đứng đầu Sư đoàn, chiến đấu liên miên, lại ra đi mà tài sản chỉ là thanh danh trong sạch và tình thương của thuộc cấp.
Hôm đó, tang lễ có đầy đủ các vị nguyên thủ và tướng lãnh: Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, Thủ tướng Trần Văn Hương, Đại tướng Cao Văn Viên – Tổng tham mưu trưởng QLVNCH, Đại tướng Creighton W. Abrams – Tư lệnh quân lực Hoa Kỳ tại Việt Nam, Thiếu tướng Lữ Lan – Tư lệnh Quân đoàn II/Quân khu 2… Chuẩn tướng Trương Quang Ân được truy thăng Thiếu tướng, truy tặng Đệ tam đẳng Bảo Quốc Huân chương. Phu nhân được truy tặng Đệ ngũ đẳng Bảo Quốc Huân chương.
Buổi chiều, đoàn xe tang tiến về nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Hai quan tài được chở trên hai thiết vận xa M-113. Tôi đi trong đoàn người tiễn đưa, lòng nặng trĩu. Trời Sài Gòn hôm ấy từ sáng đến trưa trong vắt, vậy mà đúng lúc hạ huyệt, mây đen kéo đến, sấm chớp, mưa đổ ào như trút. Trong giây phút ấy, tôi đã thoáng nghĩ: chẳng lẽ trời đất cũng muốn khóc tiễn một vị tướng thanh liêm và người vợ chiến binh của ông?
Căn nhà quạnh hiu và chuyện tình của người em gái
Tết Trung Thu năm 1969, tôi được Bộ Tư lệnh Quân đoàn II cử đại diện mang quà đến thăm gia đình cố Thiếu tướng. Ngôi nhà vẫn vậy: nhỏ, đạm bạc, buồn hiu. Một bà cụ – tôi đoán là thân mẫu của ông – ngồi un luống khoai lang, không nhận ra tôi. Các cháu đi học chưa về, chỉ có cô em gái của Tướng quân ra tiếp. Nhà chẳng có gì gợi lên hình ảnh “gia đình tướng lãnh”, ngoài bàn thờ khói hương nghi ngút.
Khi được phép thắp nhang, tôi thoáng giật mình: bên cạnh di ảnh Tướng quân và phu nhân còn có một tấm hình quen lạ – Phạm Văn Ngô, bạn đồng khóa, đồng đại đội với tôi ở Võ Bị. Ngô ra trường về Sư đoàn 7, từ ngày mãn khóa mỗi đứa một vùng chiến thuật, ít có dịp liên lạc. Hôm ấy, sau khi thăm hỏi cụ bà và các cháu, câu chuyện dần cởi mở, tôi mới mạnh dạn hỏi cô em gái: vì sao di ảnh Ngô lại được thờ ngay trong nhà này?

Nước mắt rớm trên khóe mắt, cô kể: Ngô là vị hôn phu của cô, nhưng anh đã hy sinh trước khi đám cưới diễn ra. Một đêm tối trời, anh đang họp sĩ quan để ban hành lệnh hành quân thì bị nội tuyến tung lựu đạn, tử thương. Cô vốn sợ Ngô ở đơn vị tác chiến nguy hiểm nên từng xin anh Ân – lúc ấy là Tư lệnh Sư đoàn 23BB – cho Ngô về làm tham mưu ở Bộ Tư lệnh, “vừa gần nhà, vừa bớt nguy hiểm”. Nhưng lần nào xin, anh Ân cũng nghiêm giọng từ chối:
“Làm trai phải đáng thân trai. Ngô là sĩ quan tốt nghiệp Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Đất nước đang nhiễu nhương, cộng quân đánh khắp nơi, lẽ nào khi bao chiến sĩ đều ngoài trận mạc, anh lại vì tình riêng, lợi dụng chức vụ mà kéo Ngô về chỗ an toàn? Làm trai thời chinh chiến phải chết sống ngoài mặt trận với đồng đội, ‘da ngựa bọc thây’. Em đừng làm nhụt chí nam nhi của Ngô, hãy để nó sống xứng đáng với người trai xuất thân từ Võ Bị.”
Nói đến đây, cô bật khóc nức nở. Chỉ trong hai năm, cô mất liền ba người thân: vị hôn phu, rồi anh trai và chị dâu. Tôi im lặng, cổ như nghẹn lại. Câu chuyện ấy nói với tôi nhiều hơn bất cứ bài diễn văn nào về hai chữ “quân bất vị thân” mà Tướng quân đã sống trọn trong binh nghiệp của mình.
Nén hương muộn của một người lính già
Rời căn nhà Lữ Gia chiều hôm đó, phố xá đã lên đèn, Sài Gòn vẫn ồn ào, còn trong lòng tôi là một khoảng trống khó tả. Tôi đã tự hứa: nếu còn sống qua chiến tranh, dù lưu lạc chân trời góc biển nào, dù chữ nghĩa có vụng về, tôi cũng phải có ngày ngồi xuống viết lại những điều mình biết về Tướng quân TRƯƠNG QUANG ÂN – như một nén nhang muộn của người lính đàn em đối với vị niên trưởng tài ba, thanh liêm, “vị quốc vong thân”.
Hôm nay, gần đất xa trời, tôi giữ lời hứa ấy. Bài viết này không phải một bản tiểu sử đầy đủ, càng không phải một trang quân sử hàn lâm. Nó chỉ là những mảnh ký ức chắp nối của một thằng lính già: lần đầu bị ông rầy ở Bảo Lộc, lần cùng ông có mặt trong trận lao xá Phan Thiết, buổi chiều mưa Pleiku nghe tin ông tử nạn, buổi tang lễ chật chội ở Lê Đại Hành, cơn mưa đổ xuống Mạc Đĩnh Chi, và căn nhà quạnh hiu nơi người em gái thờ chung anh trai, chị dâu và người hôn phu không bao giờ cưới.

Khóa 22B – khóa đầu tiên học đủ 4 năm của Trường Võ Bị Quốc Gia – đã được vinh dự mang tên ông: Khóa TRƯƠNG QUANG ÂN. Với riêng tôi, ông không chỉ là tên một khóa, mà là hình bóng một vị tướng hiếm hoi: học giỏi, đánh giỏi, sống giản dị, không vơ vét, không “vị thân”, sẵn sàng ra trận cùng binh sĩ, và ra đi trên đường quân vụ, trong chiếc trực thăng cháy rụi, được nhận diện bằng chính thứ mà ông từng nhắc nhở bao lần – tấm thẻ bài.
Viết đến đây, tôi coi như đã trả xong một món nợ lòng. Phần còn lại, xin gửi cho gió trên những đồi cao nguyên, cho đất đỏ Bu Prang – Đức Lập, cho những bia mộ vô danh và hữu danh, và cho những người lính trẻ ngày xưa – những người đã từng đứng nghiêm trước Tư lệnh Trương Quang Ân, đặt tay lên tấm thẻ bài ngực trái, mà không ngờ có ngày chính nó sẽ thay các anh nói lời chào vĩnh biệt.
LÊ Q TOẢN