Có khi người ‘vẽ’ ra con tàu này không phải là người nghiên cứu thật. Một nghịch lý là người đi mua thấy có tiền cứ mua vống nhưng lại không phải làm nghiên cứu. Người nghiên cứu thực lại không được mua. Thành ra khi mua về sẽ là một sản phẩm không sử dụng được đúng như mong muốn’.
Kỹ sư Đỗ Thái Bình, một chuyên gia về đóng tàu và hàng hải chia sẻ khi nghe tin Dự án đóng tàu mang tên “Tàu điều tra nghiên cứu tài nguyên môi trường biển” vừa được Tổng Cục biển và hải đảo đề xuất lên Thủ tướng Chính phủ với kinh phí khoảng 1.100 tỷ đồng. KS Bình cũng chỉ ra hàng loạt những nghịch lý để thấy sự lo ngại lãng phí.
Kiểu nhà nghèo nhưng ‘chơi sang’
Trước đó, ông Nguyễn Văn Cư, Tổng Cục trưởng Tổng Cục biển và hải đảo Việt Nam, Bộ Tài Nguyên & Môi trường cho biết: Năm 2012, cơ quan này trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt dự án đầu tư đóng mới con tàu mang tên “Tàu điều tra nghiên cứu tài nguyên môi trường biển” với kinh phí khoảng 1.100 tỷ đồng.
Nếu dự án được phê duyệt, dự kiến con tàu do chuyên gia Hà Lan thiết kế, các kỹ sư Việt Nam sẽ thi công.
Theo thiết kế, tàu có chiều dài khoảng 67m, rộng 13m, gồm 4 tổ máy chính chạy dầu diesel, trọng tải tại chiều chìm thiết kế khoảng 275 tấn. Công suất tàu đạt khoảng 2.000 CV, vận tốc thử tại mớn nước thiết kế khoảng 12,0 hải lý/giờ. Tầm hoạt động khoảng 5.000 hải lý. Khả năng sử dụng trang thiết bị gió cấp 9, sóng cấp 7.
Thuyền viên và cán bộ khoa học làm việc trên tàu khoảng 50 người. Thời gian hoạt động liên tục trên biển (tính theo lượng dự trữ lương thực, thực phẩm) khoảng 40 ngày đêm.
 |
Tàu nghiên cứu biển lưu động mang tên 'Viện sĩ Oparin' cùng các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu biển Đông |
Tàu nghiên cứu đa năng có tính năng kỹ thuật, cấu hình và các trang thiết bị máy móc đáp ứng việc thực hiện các nhiệm vụ như: điều tra, khảo sát các yếu tố về tài nguyên và môi trường biển, thu thập các dữ liệu, số liệu (chuẩn quốc tế) về các đặc trưng vật lý, hải dương học; địa chất, địa mạo; sinh học, sinh thái học; phân tích mẫu nước, trầm tích, sinh thái môi trường; đo đạc biển.
Tàu cũng có thể vẽ bản đồ biển nhằm đáp ứng yêu cầu công tác điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên và môi trường biển; phục vụ công tác đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ, phối hợp với các lực lượng bộ đội biên phòng, cảnh sát biển và các lực lượng chức năng khác thực hiện công tác cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh trên tuyến biển, hải đảo.
Tiếp cận những thông tin về con tàu được ‘vẽ’ ra, kỹ sư Đỗ Thái Bình chỉ rõ, nếu hình dung con tàu này đa năng cái gì cũng làm hết. Trong khi đó nghiên cứu biển là một khái niệm rộng. Nếu chỉ đo vật lý hay lấy mẫu nước ven biển thì chỉ cần một con tàu bé là được.
Bản thân kỹ sư Bình là người nhiều năm đi theo tàu nghiên cứu biển nên ông hiểu được với một con tàu để có tính năng nghiên cứu thực sự cần phải hiểu rõ nhu cầu rồi mới đóng con tàu phục vụ đúng mục đích. Có như vậy mới tận dụng tối ưu tính năng của con tàu và thực sự phục vụ mục đích nghiên cứu.
‘Nếu đóng một cái tàu làm được đủ thứ thì 1.100 tỷ đồng sợ còn không đủ.Tại sao ta không chia nhỏ ra, tàu nghiên cứu biển vẫn nghiên cứu được. Tôi nghĩ trước mắt cần phải tổ chức một hội nghi thấu đáo rằng chúng ta đã nghiên cứu biển như thế nào bằng các tàu của ta. Từ đó sẽ thấy được thực sự có cần một con tàu với chi phí lớn như vậy hay không?’, Kỹ sư Bình nói.
Đã có nhà khoa học nào đủ sức nghiên cứu
Lê Xuân Thuyên, Bộ Môn Hải dương, khí tượng và thủy văn, Trường Đại học khoa học tự nhiên TP Hồ Chí Minh cũng bày tỏ quan điểm: ‘Tôi nghĩ chúng ta nên định rõ hướng nghiên cứu, vấn đề nghiên cứu trong tầm 5 -20 năm tới và khu vực nghiên cứu trọng điểm (có lẽ vẫn chỉ là biển Đông!). Từ đó ta thấy ta cần phương tiện và công cụ hỗ trợ gì. Chứ cứ mơ tưởng đồ hoành tráng như của Đức, Mỹ thì sẽ không thực tế’, TS Thuyên nói.
Từng tham gia khảo sát trên tàu Sonne của Đức (4-5/2006) trên biển Đông, bản thân TS Thuyên thấy rằng tuy là tàu cải hoán do một công ty tư nhân làm chủ làm dịch vụ khảo sát biển, nhưng nó định hướng cho khảo sát vùng Đại dương là chính.
Ngoài các phòng phục vụ cho sinh hoạt của ê kíp nghiên cứu (khoảng 30 người, 24/24) thì có kho lạnh, phòng xử lý mẫu, cố định mẫu hay phân tích nhanh bằng thiết bị xách tay nhóm nghiên cứu mang theo (điện nước nóng lạnh) diện tích 40m2, gàu + cần trục phục vụ thu mẫu nước, tời thả ống khoan trọng lực (kết cấu khoảng 10 tấn) tới độ sâu 8000m.
TS Thuyên ấn tượng là đồ gá cơ động trên bong để phục vụ cho các nhiệm vụ khác nhau, hay định vị cân bằng tại chỗ phục vụ thu/lấy mẫu, tàu có gắn sonar và radar, địa chấn nông.
Hệ thống lọc nước rất tốt để phục vụ đi biển dài ngày. Nhưng tàu này chỉ hoạt động ở vùng nước sâu hơn 20m. Khi dự án cần khảo sát vùng gần bờ thì thuê tàu cá của dân đi.
TS Thuyên cũng chỉ ra, tại Mỹ họ đóng loạt tàu mới để cận chiến ven bờ dùng vào việc thử nghiệm ở ĐNA.
‘Không lẽ chúng ta không tìm giải pháp nào có cái tàu khả dĩ để nghiên cứu. Đâu cần phải có tàu lớn chịu sóng cấp 8-9 đâu, vì có lẽ những nội dung nghiên cứu đo trong trường bão tố hiện là chưa nhiều (!), cần thiết sẽ là các phao và thiết bị tự ghi’, TS Thuyên góp ý.
Ông Thuyên cũng chỉ ra Ekip tàu Sonne của Đức khi nghiên cứu biển Đông đã thả phao gắn bẫy trầm tích/nước liên tục cả 1 năm mới quay lại vớt để thu dữ liệu và mẫu ở gần Trường Sa.
Kỹ sư Bình chỉ thêm về lo ngại của ông. Ông nói: Tôi muốn nói cái lo nhất vẫn là vấn đề đào tạo con người. Với cách làm của ta hiện nay, đứng ở góc độ người đóng tàu tôi thấy cũng hơi sợ.
Tức là sau khi được như thế này rồi cuối cùng chúng ta luôn luôn bị rơi vào bẫy tiêu dùng cũng như tất cả mọi ngành cũng dính vào bẫy này mà không xuất phát từ con người.
‘Tôi cũng biết Viện Hải dương học Nha Trang có nhiều người nghiên cứu biển nhưng thử hỏi đã có nhà khoa học nào đắm đuối hiến thân cho công việc này để có thể cầm đầu một nhóm của tàu nghiên cứu khoa học như thế này chưa. Để rồi khi có tàu có thể tận dụng tối đa công năng của nó’, ông Bình lo lắng.
DV