| 
    
     
    Từ mấy thập niên nay, người dân Việt đã biết rằng giải đất quê hương  thân yêu hình chữ S sẽ mất vào tay Tầu Cộng, qua việc đảng Cộng Sản Việt  Nam tán tận lương tâm dâng đất cho Tầu Cộng để đổi lấy sự bình ổn chính  trị của chúng, nói rõ ra là để cho bọn chúng được yên tâm mà tận hưởng  giầu sang, phú quý cướp được từ dân chúng. Nhiều dư luận cho rằng, qua  thỏa ước Thành Đô, qua các hiệp ước ký ngầm hoặc công khai với Bắc Kinh,  Việt Nam sẽ trở thành một quận huyện của Tầu vào năm 2020. Tuy nhiên,  không ai ngờ rằng việc đó đến sớm hơn dự định. Hiện nay, nhiều vùng trên  đất Việt Nam đã hoàn toàn thuộc Tầu. Các phu phố rặt Tầu đã mọc lên  khắp nơi, từ Thác Bản Giốc, Móng Cáy, xuống miền Trung, khu Gia La-Tân  Rai, tới tận Hà Tiên, đâu đâu cũng có những khu phố Tầu, mà người dân ở  đó phải nói tiếng Tầu, dùng căn cước Tầu, xài tiền Tầu. Ngay tại Bình  dương sát Saigon, năm 2011, Tầu cộng đã dựng nguyên môt thành phố đặt  tên là Đông Đô Đại Phố rộng 26 mẫu tây, với số vốn 300 triệu đô la, để  phổ biến sinh hoạt rặt Tầu, nghĩa là áp dụng văn hóa Tầu, chữ Tầu thay  cho chữ Việt, xài căn cước Tầu, và đặc biệt nhất là cấm tuyệt đối không  cho văn hóa Việt được phát triển ở đây. Tuy không có bảng cấm “Người  Việt không được vào”, nhưng những người Việt bước vào khu này, nếu không  phải là có quan hệ với người Tầu ở đây, thì sẽ gặp những rắc rối khó  khăn, những cặp mắt căm thù, khiến phải nhanh chân trở ra. Điều khác  biệt giữa Đông Đô Đại Phố và các khu phố Tầu khác trên thế giới ở chỗ  đây là một tỉnh lỵ nhỏ của người Tầu và không một dân tộc nào khác được  vào đây mua đât, mua nhà như ở các khu phố Tầu khác. Đường phố chính của  Đông Đô Đại Phố là một trung tâm thương mại, có 3 mặt tiền giáp với  đường lớn rộng 35 mét, cao 3 tầng với đầy đủ các dịch vụ kinh doanh buôn  bán, giải trí, ẩm thực rặt văn hóa Tầu với tên cửa hàng chỉ viết chữ  Hán. Trong giao dịch ở đây, chỉ có ngôn ngữ Tầu được sử dụng, nói líu  lo. Như vậy, có nghĩa là phần đất này đã được bán cho Tầu môt trăm phần  trăm. 
 Tuy nhiên, nếu Đông Đô Đại Phố là cái gai nhọn trong chân người Việt,  thì khu Gia Lai-Tân Rai lại ghê gớm hơn vì nơi đó chính là nguồn gốc sự  tiêu hủy môi trường và con người chung quanh vùng này. Từ khi lấy tiếng  là khai thác bâu xít để lấy quặng nhôm cho đến nay, số lượng nhôm được  khai thác chỉ là những con số huyễn hoặc không ai có thể kiểm tra là  đúng hay xạo. Trong khi sự thật lại là việc các công nhân Tầu làm việc ở  đây chính là những công an, bộ đội Tầu, được lệnh phải lấy được vợ  người Việt chung quanh để biến họ thành dân Tầu với những ưu tiên về mọi  mặt. Nhiều thôn nữ nghèo khổ trong vùng, khi nghe những lời đường mật  dẫn dụ về các đặc quyền đặc lợi mà họ sẽ được hưởng nếu lấy chồng Tầu,  thì sẵn sàng “trao duyên cho tướng cướp”. Sau đó, thì sinh con đẻ cái  cho chúng, lập thành một dân tộc riêng biệt chiếm lĩnh vùng cao nguyên  mầu mỡ này. Những công nhân gốc công an, bộ đội này dành quyền miễn trừ  ngoại giao cho chính chúng nó, nếu chúng có xông ra đánh đập, đâm chém  người dân chung quanh thì chính quyền sở tại không dám đụng đến, ngược  lại, nếu thanh niên trai làng mà có chuyện xích mích với chúng, thì  chúng có quyền bắt trói, gông cổ ngay tại cổng trại! Có lần cả gần 200  công nhân-công an Tầu tràn ra đường với gậy gộc đánh đập thanh niên  chung quanh chạy trối chết mà công an Việt chỉ biết đứng trơ mắt ốc ra  mà nhìn. Gần đây, điều kinh khủng nhất đã xẩy ra: vì xây cất dỏm, nên  bùn đỏ tràn hồ làm hủy hoại toàn thể môi trường chung quanh. Bùn đỏ là  bùn độc hại, bởi vì có lượng xút rất cao, khoảng 75kg xút/1 tấn bùn đỏ  cộng với độ PH rất cao sẽ làm chết hết cây cỏ, động vật, thực vật, phá  hủy kim loại. Khi chẩy xuống nguồn nước thì cá tôm sẽ chết hết, người ta  nếu ăn vào thì cũng sẽ chết theo tôm cá. Ngoài ra, bùn đỏ còn có thể  kéo theo các kim loại nặng và chất phóng xạ nguy hiểm cho đời sống con  người. Đồng thời với việc bùn đỏ tràn hồ, việc các xe tải chở Aluminum  (hay chở vật liệu gì đó, thì không ai biết được!) chạy qua các thành phố  liên hệ, cũng là môt nỗi ám ảnh không dứt cho người dân sống trong vùng  này. Các xe tải của công ty khai thác bâu xít chạy ầm ĩ trên các đường  lộ đông dân cư và trẻ em, đã gây ra không biết bao nhiêu tai nạn, hoặc  lật xe, đổ chất độc xuống đường, hoặc cán chết người vô tội vạ. 
 Tháng 6 năm 2014, điều mà dân Việt lo sợ nhất đã chính thức xẩy ra:  khu kinh tế Formosa, Vũng Áng, Hà Tĩnh của Việt Nam gửi thư lên nhà cầm  quyền Hà Nội và yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam cho được lập đặc khu với  nhiều quyền hạn vượt ra ngoài khuôn khổ luật pháp bình thường, nghĩa là  đòi trở thành một đặc khu người Tầu dưới sự cai trị của người Tầu, dứt  khoát chê bỏ chính quyền của đảng Cộng Sản Việt Nam. Tuy đòi hỏi này  chưa được chấp thuận, nhưng với sự hèn nhát của Đảng Cộng và dưới áp lực  của các bản hiệp ước bán nước cho Tầu, dần dần rồi yêu cầu này cũng  được chấp thuận, hoặc cứ tà tà mà thực hiện, không cần phải đánh trống  khua chiêng ầm ĩ. Theo thư xin được đặc quyền này gửi cho Phó Thủ Tướng  Hoàng Trung Hải là một con cờ của Bắc Kinh, Tổng giám đốc công ty Hưng  Nghiệp Formosa Dương Hồng Chí, người Tầu, nói lý do là việc thiết lập  đặc khu kinh tế nhằm phục vụ cho quá trình xây dựng cảng nước sâu Sơn  Dương và đầu tư các ngành công nghiệp liên quan như gang thép, điện,  nước… Thực tế, chúng gửi yêu cầu để tách vùng Vũng Áng, Hà Tĩnh, thành  như một vùng tự trị trong lòng giang sơn Việt Nam. Với con số trên dưới  10,000 công nhân Tầu không có giấy tờ hợp pháp, khu Vũng Áng đã có một  lực lượng quân sự khá lớn, nếu xẩy ra đụng chạm giữa Việt Nam và Trung  Cộng. Điều này cũng là sự thực, không phải phỏng đoán, vì những ai sinh  sống gần khu Vũng Áng đều thấy rằng có môt lực lượng an ninh với vũ khí  đặc biệt trấn đóng trong khu này. Những khuôn mặt lầm lì, những lần tuần  tra có vũ khí của lực lượng công nhân Tầu đã cho người ta thấy rõ dã  tâm của bọn Tầu khi đã chuẩn bị sẵn để bất cứ lúc nào cũng có thể tấn  công các lực lượng phòng thủ của công anh hay quân đội quanh miền này. 
 Như thế, với 10,000 “quân nhân” Tầu tại Vũng Áng, cộng với hơn 10.000  “quân nhân” Tầu tại Gia Lai-Tân Rai, và vài chục ngàn “quân nhân” Tầu  tại Đông Đô Đại Phố, cùng các lực lượng nhỏ của Tầu nằm rải rác khắp nơi  trên đắt Việt,từ Móng Cáy, Hòn Gai, đến Cà Mâu, Hà Tiên… nếu có một  trận chiến xẩy ra giữa Tầu Cộng và Việt Cộng thì Việt Cộng sẽ thấy kết  quả thua trận ngay trước mắt. Trận chiến 1979 do Tầu khởi xướng chỉ tại  mỗi môt miền Bắc, mà Việt Cộng đã phải hy sinh 24,000 người chết, (chưa  kể người bị thương), thì trong tương lai, nếu có trận chiến thứ hai xẩy  ra giữa “hai anh em môi hở, răng lạnh” này, mà thằng anh đã gài sẵn môt  hệ thống “da beo” trên khắp miền đất Việt Nam, nhất định thằng em Việt  Cộng sẽ chết không dưới 200,000 người, và như thế, thì lá cờ trắng sẽ  được treo trên cột cờ thành phố Hà Nội chỉ trong vòng 3 ngày chiến đấu.  Máu Việt Nam sẽ đổ tràn lan trên khắp miền Nam, Trung, Bắc. Thế hệ sau  của Việt nam sẽ biến thành thế hệ của Tầu… 
 Thật đau lòng cho các vua đời Đinh, đời Lê, đời Lý, đời Trần và Hoàng  Đế Quang Trung đã hiến dâng tính mạng mình cho đất nước, mà giờ đây,  con cháu lại bán đứt đất nước cho giặc! Ôi! Nhục thay! Thảm Thương thay  cho dân Việt, đã hơn 4000 năm văn hiến, bảo vệ giang sơn, mà giờ đây,  bọn Cộng Nô lại nỡ tâm đem bán để cho chúng hưởng đời tỷ phú huy hoàng. 
mk
 
 
	
 | 
 
 
 |