Tôi thấy cô gái làm ở Ban Xã Hội có vẻ mắc cỡ, nhìn đi chỗ khác. Cũng may là lúc đó đã tới giờ giới nghiêm trên toàn đảo. Một người nào đó nói lớn:
“Đã tới giờ chuột chạy trên toàn đảo.”
Tôi nói:
“Nhưng mà cái quan trọng là bây giờ cô có chịu đi Pháp như lời bà Cibelle bả đề nghị hay không?”
Người đàn bà nhìn tôi:
“Em chịu, nhưng mà…”
Tôi nói, nói cái gì thì nói đại đi rồi còn đi ngủ. Người đàn bà cười ngỏn ngoẻn:
“Mà anh hai phải hứa là sẽ chỉ cho em cái cách xay mấy cái hột đậu đỏ Việt Cộng ở bên Tây thì em mới chịu. Anh hai hứa thì anh hai phải móc ngoéo với em đi.”
Tôi phải đưa tay móc ngoéo cô ta mới chịu đi ngủ. Lúc loay hoay giăng mùng, tôi nghe tiếng người đàn bà hun hít đứa con, nói với giọng đả đớt:
“Khương chó con của má quá. Má già chiện bỏ chó con của má cả ngày.”
Tôi mỉm cười chun vô mùng. Một người nào đó mớ trong giấc ngủ:
“Mẹ, ở hoài mục đảo mà chưa có rục rịch cái vụ định cư.”
*

Sau hai năm lạnh lẽo ở thủ phủ Des Moines của tiểu bang Iowa ở miền trung tây nước Mỹ, được người bạn văn nghệ mới quen rủ rê về tiểu bang California viết văn, làm báo. Quen với cuộc sống vốn yên tĩnh ở miền trung tây, về đây, ở giữa Cali nắng ấm, lại ở ngay quận Cam, tôi thấy mình chóng mặt với cuộc sống quay cuồng. Có người nói Sài Gòn nhỏ Bolsa là Sài Gòn trước bảy lăm thiếu đi tình người. Với tôi, Sài Gòn nhỏ Bolsa là Sài Gòn trước bảy lăm thiếu đi những kẻ ăn xin và không khí chiến tranh. Với tôi, Sài Gòn Cali hôm nay cũng nhẫn tâm như Sài Gòn Việt Nam ngày trước. Phía sau những dãy nhà sang trọng, hoa lệ vẫn dẫy đầy những đau thương. Giống như ẩn giấu bên trong bộ mặt loè loẹt, gương mặt phấn son của cô gái giang hồ là những vi trùng bệnh hoạn. Sài Gòn Mỹ quốc hôm nay cũng dẫy đầy những đĩ điếm, trộm cướp, du đãng, xì-ke ma túy, lường gạt, mua danh, trục lợi.
Vẫn những khuôn mặt đào kép cũ của sân khấu chính trị miền Nam trước ngày mất nước. Một số đã già nua, lạc hậu, lỗi thời chẳng chịu tự ý rút lui vì vẫn còn luyến tiếc chút danh lợi cuối đời. Cộng với một số mới sản sinh từ đồng lầy hải ngoại. Những con cá sấu lưu vong lại kéo bè, lập đảng, đón gió, trở cờ, trông chờ ở một thế lực ngoại bang hy vọng về nước nắm lại quyền uy ngày cũ. Thỉnh thoảng những con cá sấu lưu vong lại nhỏ những giọt nước mắt yêu nước, thương nòi, kêu gọi xóa bỏ lằn ranh Quốc, Cộng, hòa giải, hòa hợp. Cũng có những kẻ có lòng mà nhiệt huyết cứ lụi tàn dần theo năm tháng vì áo, cơm, tiền, gạo xứ người. Cũng có những Kinh Kha thời đại lặng lẽ ôm dao chủy thủ đi vào đất Tần bất trắc. Và những người Việt Nam tỵ nạn tại hải ngoại chỉ biết đến tên tuổi khi họ đã bị bắt cầm tù, hoặc đã bị nhà cầm quyền cộng sản xử tử hình.
Mặc cho những giọt nước mắt của những con cá sấu lưu vong rơi. Mặc cho máu của những Kinh Kha thời đại đã đổ. Mặc cho nhiệt huyết của những kẻ có lòng tan theo năm tháng như tuyết giá trước ngọn tây phong. Cuộc sống của người tỵ nạn vẫn tiếp tục như mỗi ngày mặt trời vẫn mọc.
*
Một hôm, đang ngồi tán gẫu với mấy người bạn ở khu Phước Lộc Thọ, bỗng có người đàn bà quần áo rất sang trọng đi qua, đi lại, dừng lại nhìn tôi một lúc rồi kêu lên:
“Phải anh hai đây hôn, anh hai nhớ em hôn?”
Tôi nhìn sửng người đàn bà. Ngạc nhiên. Người đàn bà đập đập tay lên vai tôi:
“Em là Hoa nè. Hồi ở “long-hao” ở khu F. ở đảo Bidong em hổng chịu đi Tây vì sợ Việt Cộng đó.”
Tôi nhìn sửng người đàn bà, rất đổi ngạc nhiên. Chẳng còn chút dấu vết nào của người đàn bà của những ngày tháng cũ trên hòn đảo tỵ nạn.
Người đàn bà rất mừng rỡ khi gặp lại tôi. Cô ta kêu mấy đứa con đến khoanh tay thưa tôi. Và giới thiệu người đàn ông đang đứng kế bên:
“Đây là anh Bé, chồng em. Còn đây là anh hai mà em nhắc với anh hoài đó.”
Hai vợ chồng khẩn khoản mời tôi đến nhà họ. Tôi hứa là sẽ đến nhà họ vào khoảng hai tuần sau vì tôi hiện đang bận một vài công việc.
Người đàn bà hỏi tôi địa chỉ, số điện thoại và nhắc đi, nhắc lại với người chồng “anh nhớ ghi cho nó trúng.” Người đàn ông có vẻ hiền lành, ít nói. Anh ta cười cười:
“Thì anh hai đọc sao, anh ghi vậy thì nó làm sao mà trật được.”
Hai tuần sau, tôi nhận được một vé máy bay khứ hồi với bức thư vỏn vẹn mấy giòng như sau: “Vợ chồng em mời anh hai xuống dưới này để vợ chồng em được nói tiếng cám ơn với anh hai. Ký tên: Nguyễn Văn Bé và Hoa Bi-Đông.”
Hai vợ chồng đón tôi ở phi trường của thành phố Bãi Dài. Và họ đưa tôi về nhà họ ở đường Hoa Chuông. Trong một tuần lễ ở đây tôi đã được tiếp đãi như thượng khách. Hai vợ chồng đưa tôi đi thăm thú khắp nơi. Họ đãi tôi ăn uống trong những nhà hàng sang trọng nhất của thành phố. Và người vợ đã khẩn khoản xin tôi nhận làm “anh nuôi” của cô ta. Tôi cười, nói đùa:
“Tôi còn chưa nuôi nổi tôi, tôi nuôi được ai mà dám nhận làm anh nuôi của cô.”
Người chồng tiếp lời vợ:
“Anh hai nhận lời cho vợ em nó vui. Mấy năm nay vợ em nó cứ nhắc anh hai hoài. Nó nói phải gặp được anh hai để mà đền ơn. Vợ em nó nói hổng gặp được anh hai khuyên bảo lời hơn, lẽ thiệt, mẹ con nó hổng đi Pháp vì sợ gặp Việt Cộng thì vợ chồng em đâu có được như bây giờ. Có khi là ở bển… mục đảo luôn.”
Tôi nói, nếu cô ấy không gặp tôi thì cô ấy cũng gặp người khác, người ta cũng chỉ dẫn như tôi thôi. Người đàn bà xen vô:
“Em hổng gặp anh hai thì chỉ có nước chết. Anh hai hổng nhớ hồi đó người ta ghét bỏ em tới bực nào hay sao. Cũng may là gặp anh hai là người biết rõ cái tình đời, anh hai hết lòng chỉ biểu cho em…”
Tôi nói lảng sang chuyện khác:
“Rồi bây giờ cô chú làm ăn ra làm sao?”
Người đàn bà gương mặt sáng rỡ:
“Nói nào ngay cũng nhờ đất nước, ông bà, cha mẹ phò hộ, tụi em bây giờ làm ăn cũng khấm khá. Cái nhà tụi em trước mua trăm mấy, đã trả dứt nợ nhà băng, bây giờ đã có người trả ba trăm. Vợ chồng em hiện giờ có cái tiệm “neo” cũng đông khách lắm, chỉ toàn làm cho Mỹ trắng không hà.”
Theo lời người đàn bà thì bây giờ cô ta “nói tiếng Mỹ như vó.” Nghe vợ nói, người đàn ông tươi cười:
“Anh nói với em hoài là “nói như gió”, em cứ “nói như vó, nói như vó,” không sợ người ta cười hay sao?”
Người vợ cười lỏn lẻn:
“Chớ sao anh nói anh mê nghe em nói “nói như vó.”
Nghe hai vợ chồng nói chuyện, tôi nhớ tới phim My Fair Lady kể lại câu chuyện một nhà quý tộc người Anh đem cô gái bán hoa do nữ tài tử Audrey Hepburn thủ vai về nuôi, dạy nàng đọc Anh văn cho đúng giọng, nhưng sau đó, nhà quý tộc mới phát giác ra là mình yêu cô bán hoa vì cái cách phát âm sai của cô ta.
Theo lời kể của người chồng, tôi mới được biết là ngay khi người đàn bà tên Hoa và bốn đứa con có chuyến bay đi định cư ở Pháp, anh ta tức tốc xin phép Sở Di Trú và qua Pháp làm hôn thú với người đàn bà. Và sau đó, anh ta trở lại Mỹ làm giấy bảo lãnh mẹ con nàng. Một năm sau, người đàn bà với bốn đứa con qua Mỹ với anh ta. Vợ chồng chí thú làm ăn. Người vợ vừa đi rửa chén ở tiệm ăn vừa đi học E.S.L. Người chồng đi làm hai “dốp”. Chẳng mấy lúc có một số vốn. Người vợ đi học làm móng tay. Họ bắt đầu mua nhà, mở tiệm. Người đàn bà, mà theo cô ta nói là “chữ nghĩa hổng bằng cái lá mít” bây giờ đã “nói tiếng Mỹ như vó” và đã trở thành bà chủ tiệm “neo”. Anh chồng thôi làm hãng điện tử, ở nhà săn sóc mấy đứa con, đưa rước mấy đứa nhỏ đi học, chiều phụ giúp vợ clean up tiệm.
Tôi nhớ hoài lúc người đàn bà cười ngỏn ngoẻn, nói:
“Em rán rặn hoài cho anh Bé thằng con mà hổng được.”
Người đàn ông nhìn tôi có vẻ ngượng nghịu:
“Em nói chi với anh hai cái chuyện kỳ cục.”
Người đàn bà nói:
“Ảnh là anh nuôi của mình mà. Mà bộ anh hổng muốn vậy thiệt sao. Có cái là em thương anh là mặc dầu anh hổng phải là ba ruột của sắp nhỏ mà anh đối đãi với tụi nó thiệt là tử tế. Mà anh cũng hổng có buồn phiền gì dìa cái chuyện em hổng rặn được cho anh thằng con.”
Nghe hai vợ chồng họ nói chuyện, tôi nhớ đến những điều mà người đàn bà đã kể cho tôi nghe lúc ở đảo Bidong. Thì ra ở đâu cũng là cuộc sống và con người, nhưng điều quan trọng là làm sao cho cuộc sống trở nên đáng sống và con người xứng đáng là con người!
Lúc nghe tôi nói đang viết văn, làm báo, người đàn bà kêu lên:
“Hổng được đâu, anh hai. Ở bên này cái nghề đó coi bộ hổng khá. Anh Bé nói cho em biết là mấy ông nhà báo ở đây họ chửi nhau như chó. Nghe nói là có người đã bị bắn, bị đốt chết nữa. Em thấy anh hai nhỏ con, tay chưn coi bộ cũng khéo léo, anh hai nên đi học làm “neo” hay là hớt tóc. Rồi ở đây phụ với vợ chồng em. Tụi em đang tính mở thêm một tiệm nữa.”
Tôi cười ngất, nghĩ tới chuyện tôi cắt tóc, giũa móng tay, móng chân cho mấy người đàn bà, rồi còn cái vụ waxing nữa. Người đàn bà nói tiếp:
“Em nói thiệt đó, anh hai. Em biết ơn anh hai nhiều lắm, hổng biết tới đời kiếp nào em mới trả được. Em nói thiệt là em muốn thiệt lòng giúp anh hai. Em nói thiệt mà hổng sợ anh hai mích lòng là em thấy cái nghề viết văn, làm báo của anh hai nó hổng khá một chút nào.”
Tôi cũng biết là người đàn bà đó nói đúng, nhưng mà ở đời mỗi người có một nghiệp dĩ, một lý tưởng phải theo đuổi, phải thực hiện.
Gần đây có chuyện ồn ào về văn chương phản kháng ở trong nước. Có người đã ca tụng một nhà văn Việt Cộng là chỉ với những diễn tả của nhà văn này thì “những vần thơ trác tuyệt của đại thi hào Nguyễn Du ‘Râu hùm, hàm én, mày ngài’ và ‘một vùng như thể cây quỳnh, cành giao’ trở thành sáo ngữ” (1). Và người ta xúm vào ca tụng nhà văn này là đã can đảm “nói lên nỗi thống khổ của nhân dân tôi!” Ngay cả chuyện có nhà văn đã từng vượt biển trốn chạy Việt Cộng còn viết đại khái là “nếu nói không có văn chương phản kháng là thiếu tình người.” Và nhà văn còn mỉa mai là “nếu tự xưng là người chống Cộng số một sao không ở trong nước mà chống!”
Tôi thấy mọi chuyện nó trở nên kỳ cục. Nó có vẻ “thời thượng” quá. Người ta nói văn chương phản kháng mà mình không lên tiếng thì nó có vẻ lạc hậu, lỗi thời! Dĩ nhiên ở một đất nước tự do, ai muốn có ý kiến gì thì cứ tự do phát biểu. Ai cũng có quyền thương yêu, thù hận trong đời.
Ở đâu, thời nào cũng vậy thôi. Có lúc nào những kẻ chính trị hoạt đầu, những con cá sấu lưu vong mà không nhỏ những giọt nước mắt yêu nước, thương nòi vì mục đích lợi danh? Ở đâu mà chẳng có kẻ đón gió, trở cờ. Gì thì gì, mặt trời vẫn mọc và Sự Thật vẫn là Sự Thật.
Theo tôi, những người viết văn, làm báo ở hải ngoại là những người đáng vinh danh nhất. Dĩ nhiên là phải chính danh. Nhà văn ở hải ngoại chẳng những phải nói lên nỗi thống khổ của 65 triệu người dân ở trong nước , mà còn phải nói lên những đau thương, mất mát của khúc ruột cách xa ngàn dặm – nói theo cách nói của Việt Cộng. Nhà văn Alexis Tolstoi của cộng sản Liên Xô đã cho một sĩ quan Bạch vệ nói với người yêu của mình: “Rồi em sẽ thấy! Những cái ồn ào của cách mạng này nọ rồi sẽ qua đi, và còn lại chỉ là tình yêu của anh với em, đối với gia đình và cuộc sống.”
Chàng sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ nói gì với vợ của mình sau năm, mười năm trời thân tàn ma dại trở về từ những trại tù? Anh chàng cựu sĩ quan của quân đội miền Nam sẽ nói gì khi đứng trước ngôi nhà bây giờ mấy ông quan “cách mạng” miền Bắc đã chiếm. Và vợ con thì đã thất lạc ở phương trời nào?
Chàng cựu sĩ quan sẽ nói gì khi đã tìm mọi cách để thoát khỏi “thiên đường” Việt Cộng, khi tới đảo tỵ nạn bị người ta “thanh lọc” và từ chối nhận đi định cư vì không trả lời được câu hỏi: “Chiếc mão gai lúc Chúa Jesus thọ hình có mấy chiếc gai?”
Cũng mới đây, tôi rất đỗi đau lòng khi nghe tin một ký giả mà cả hai vợ chồng đều bị bắn chết vì nhà báo này “đã chống Cộng và đã nói lên những Sự Thật làm cho những người bị nói đến phải “mất ăn, mất ngủ”. Và một nhà văn có quốc tịch Mỹ đã “bất chấp dư luận và bạn bè can gián đã trở về Việt Nam với tư cách nhà văn để đi tìm Sự Thật” (2).
Tôi lại càng chua xót hơn khi một số người “làm công việc chữ nghĩa” ở hải ngoại – nói theo cách nói của nhà văn Nguyễn Tuân – đang ra sức “lấp đầy cái khoảng trống” của một nhà văn ở trong nước nêu ra, thì ông nhà văn này đã hùng dũng tuyên bố: “Tôi không tin rằng người ta có thể viết khi xa cội rễ. Theo tôi, văn nghệ của người Việt ở nước ngoài không có gì đáng chú ý.” (3)
Một điều sẽ rất thiếu sót nếu tôi quên kể lại những câu nói cuối cùng của cô em nuôi của tôi. Buổi tối ngồi ăn bánh, uống trà và nói chuyện, tôi hỏi cô ta:
“Rồi còn cái vụ ‘xay mấy hột đậu đỏ Việt Cộng ở bên Tây’ cô có làm được không?”
Người đàn bà cười ngất:
“Ở đó mà được với hổng được. Qua tới nơi, bà bảo trợ ra với người thông dịch đón mẹ con em ở phi trường. Dìa tới nhà, lo ba cái vụ giấy tờ, ăn uống này nọ mệt muốn bứt gân, chớ ở đó mà ‘lo xay mấy hột đậu đỏ Việt Cộng.’ Mà em thấy ở bên Tây đâu có giống như Việt Nam mình. Ai nấy cũng sung sướng, thải mái. Tây đầm nó hun hít hà rầm ở ngoài đường.”
Tôi hỏi:
“Rồi qua Mỹ cô có tiếp tục ‘xay mấy hột đậu đỏ Việt Cộng ở Mỹ hôn’?”
Người đàn bà cười lớn, nói một cách quả quyết:
“Chiện này có đó anh. Mấy cái tổ chức này nọ nói là Phục quốc, là giải phóng Việt Nam là em đóng tiền lia chia. Nhiều lúc anh Bé ảnh rầy em, nói cái tổ chức nầy là thiệt, tổ chức kia là dỏm. Em nói kệ nó anh, có giả mới có thiệt. Tổ chức, hội hè nào mà dạy tiếng Việt, mà cứu người biển Đông là em đóng tiền hăng hái lắm. Mình có ở vào cái hoàn cảnh đó, mình nên giúp đỡ người đi sau, để phước đức lại cho con cái. Ai làm giả, ai lường gạt thì trời đất phạt họ.”
Nghe vợ nói, người chồng cười:
“Bà xã tôi là vậy đó anh. Nhiều lúc tôi cũng bực mình lắm. Mình biết nó là phục quốc giả, trợ giúp thương phế binh dỏm, nó quyên tiền để bỏ túi, để về trong nước chơi gái, nói cho bả biết thì bả lại nói ‘có giả mới có thiệt.’ Bả nói ngang như cua. Thôi thì đành chịu thua.”
Lúc đưa tôi ra phi trường, người đàn bà căn dặn:
“Đi đâu thì đi. Anh hai muốn viết văn, làm báo gì thì anh hai cứ làm. Có kẹt gì thì cho vợ chồng em biết. Muốn dìa dưới này làm ăn thì vợ chồng em giúp. Anh hai đừng có tự ái với tụi em. Em biết có làm cái cách nào thì vợ chồng em cũng hổng trả nỗi cái ơn của anh hai.”
Nói xong, người đàn bà tỉnh bơ ôm hôn lên má tôi, rồi hỏi có vẻ tha thiết:
“Anh hai, liệu nước mình vài bữa nữa có được ngon lành các cái như mấy cái nước Ba Lan, nước Đức gì đó hôn?”
Tôi nhìn sửng người đàn bà. Người chồng cằn nhằn:
“Em sao cứ ưa lo ba cái chuyện bao đồng.”
Người đàn bà quay lại cự nự chồng:
“Anh nói sao mà chiện bao đồng. Em hỏi anh hai cho nó chắc ăn. Em hỏi anh hai là tại vì ảnh viết văn, làm báo, ảnh rành ba cái chiện này. Anh thì anh nói với em là trước sau gì đất nước mình cũng sẽ ngon lành. Em tin anh. Em hỏi lại anh hai cho nó chắc ăn, chớ hổng phải em hỏi anh hai là em hổng tin anh. Em hổng tin anh thì em tin ai bây giờ.”
Người đàn ông và tôi nín thinh. Người đàn bà nói tiếp:
“Hồi ở bên đảo, nghe anh nói hổng phải là ở bên Tây có Việt Cộng mà chỉ có mấy ông Tây, bà Đầm theo cái gì sản sản đó, em hổng tin lắm. Tới chừng gặp anh hai, ảnh cắt nghĩa rành rẽ em mới chịu đi Tây. Nhờ vậy mà vợ chồng mình mới có được như ngày hôm nay.”
Đã sắp sửa tới giờ phi cơ cất cánh, tôi phải check in nên không kịp trả lời câu hỏi của cô em nuôi. Thực ra, nếu có đủ thì giờ tôi cũng không biết mình sẽ trả lời như thế nào.
*
Quý vị độc giả thân mến, có vị nào rành rẽ chuyện nước non, xin giúp dùm tôi trả lời câu hỏi của cô em nuôi “chữ nghĩa hổng đầy cái lá mít” là tương lai đất nước mình vài bữa nữa nó có được ngon lành các cái như mấy cái nước Ba Lan, nước Đức.
Phần lớn người Việt Nam lưu vong ai cũng muốn “nước đi ra biển lại mưa về nguồn”, nhưng cũng đâu có phải vậy mà không có chuyện:
“Non cao tuổi vẫn chưa già
Non thời nhớ nước, nước mà quên non!
NGUYỄN THIẾU NHẪN
San Jose, mùa Thu 1990
tieng-dan-weekly.blogspot.com
(1) Cảm nghĩ về tác giả và tác phẩm của bác sĩ Bùi Duy Tâm, thấy in trong một tác phẩm “Những Thiên Đường Mù” của Dương Thu Hương.
(2) Nhà báo Lê Triết (Tú Rua) và nhà văn Nhật Tiến.
(3) Nguyễn Huy Thiệp trả lời phỏng vấn của ký giả Patrick Sabatier
(4) Thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu.