Sau 12 năm khắc khoải chờ đợi cái chết, thêm một  lần nữa, Đặng Văn T. được ban tặng một đặc ân. Ngày được cứu sinh đó, T.  đã khóc rất nhiều…
  Cùng mèo làm bạn, viết thơ làm vui
 Đặng Văn T. nổi danh là tử tù kỳ lạ có một  không hai với “trại tiểu hổ”. Ban đầu, một cán bộ trại giam cho T. con  mèo để nuôi cho khuây khỏa, sau những ngày liên tiếp rơi vào tình trạng  trầm cảm, chỉ lủi thủi một mình trong buồng giam. 
 T. đặt tên nó là Mương. T giải thích vì từ mương ám chỉ cho sự cơ cực của anh những năm tháng nằm trong trại giam. 
 Con mèo Mương rất ngoan, mà có một điều đặc  biệt, nó chỉ lớn đủ để chui qua lỗ thoát hơi trên cánh cửa sắt ra ngoài,  không to hơn cũng không bé hơn, như nó được sinh ra để gắn bó với T. 
 Sau này, Mương sinh được 3 đứa con được T.  đặt tên là Xe, Pháo, Mã. T kể chuyện trại mèo của mình như một bà vú  nuôi mát tay: “Kể từ ngày có thêm Xe, Pháo, Mã căn phòng biệt giam của  tôi trở nên nhộn nhịp hơn. Và để chăm sóc cho chúng nó tôi cũng có phần  bận rộn hơn. Sự có mặt của 4 mẹ con nhà mèo đã làm cho tôi có cảm giác  như mình đang sống ở gia đình”.  
  
 
 Đặng Văn T.
 Cho đến một ngày, con Mương không về nữa, nó  bị rơi xuống bể nước của trại giam mà chết. T xót xa trước cái chết của  “đứa con” mình: “Việc Mương ra đi để lại cho tôi một sự trống trải rất  lớn. Ngày ngày tôi phải làm việc thay Mương 'nuôi dạy' lũ mèo con khôn  lớn. Thú thật đối với tôi, mẹ con Xe, Pháo, Mã không chỉ là những con  mèo thông thường, mà chúng nó chính là những người bạn tri kỉ”.
Có  đợt, sức khỏe của T. bị sa sút nghiêm trọng cần phải điều trị trong  trạm xá trại. Xong vừa ôm quần áo chăn màn lên bệnh xá được hai tiếng  đồng hồ thì T. xin về buồng giam ngay vì lo mấy con mèo không có ai chăm  sóc. 
 T. kể: “Tôi trở lại buồng giam vào lúc 17  giờ, thấy tôi về Xe, Pháo, Mã vui mừng quấn lấy tôi, riêng Mã thì trèo  lên bục chồm lên người tôi cà râu. Còn Pháo thì luôn dụi vào chân tôi  đòi ăn. Sáng hôm sau, lần đầu tiên sau 12 năm tôi bị phê bình, tôi xin  lỗi và thưa không thể bỏ rơi Xe, Pháo, Mã được trong khi đó bác sỹ nói  bệnh phải điều trị thời gian dài mới khỏi”.
Mấy con mèo như hiểu  được hoàn cảnh của người chăm sóc mình, chúng quấn quýt cả ngày bên T.,  chẳng bỏ đi đâu. Cũng do T. dạy bảo, mà con Mã có màn cà râu, con Xe có  màn vồ bắt bóng chiếm được tình cảm của rất nhiều người. 
 Những lúc ngồi một mình, T. lại ôm Mã vào  lòng và lo lắng không biết đến ngày phải ra pháp trường đền tội, thì  những con mèo sẽ sống ra sao? Ai sẽ nuôi nấng, chăm sóc chúng?
Những  ngày ở trong trại giam, ngoài việc làm bạn với mèo, T. còn dành thời  gian để làm thơ. T tâm sự: “Dù cho thơ tôi còn lủng củng nhưng đó cũng  là niềm vui của tôi. Thơ tôi chủ yếu mang tính tự sự và nói lên nỗi lòng  và tâm trạng thật của mình”.
T. làm thơ để tạ tội với cha mẹ,  làm thơ để bày tỏ lòng biết ơn với các cán bộ trại giam, và làm thơ để  tự an ủi chính mình vượt qua những đau khổ, mất mát. Đúng như T. nói,  thơ của T. đôi chỗ còn ngô nghê, còn vụng nhưng những cảm xúc trong đó  thì mộc mạc và chân thành. 
 Và đặc biệt, thơ của T. rất buồn, cái buồn  của một tử tù gần kề cái chết đang phải hứng chịu từng giây phút cắn rứt  của lương tâm, của một con người mang nợ với cuộc đời, với cha mẹ mà  không sao trả được. 
Nỗi nhớ nhà, sự xót xa cho những vất vả khó  khăn mà bố mẹ đang phải trải qua từ lỗi lầm của đứa con đã từng mang  nặng đẻ đau nuôi lớn từng ngày, trong một đêm dù đã rất kìm nén nhưng  những giọt nước mắt vẫn chảy dài trên mặt T, và anh làm một bài thơ tặng  quê hương, cha mẹ: “Mười năm rồi xa quê hương đất tổ/ Xa gia đình và cả  vợ thân yêu/ Biết bao đêm tôi âm thầm rơi lệ/ Khi nghĩ về bố mẹ và  người thân”.
Ngày nhận bản án tử hình thứ hai từ người vợ thân  yêu của mình, từ cảm xúc đau khổ đến cùng cực đó, T. cũng viết thơ về  vợ, những câu thơ thô mộc, giản đơn nhưng chất chứa đầy tâm sự: “Bởi giờ  đây em là vợ người ta/ Em đã quay lưng từ hôm hôm đó/ Bỏ tôi tiếp tục  nai lưng gánh/ Nỗi khổ tội – tình thật đắng cay”.
Rồi khi nghe  tin một cán bộ trại giam vẫn chăm lo bảo ban mình về hưu, T. đã rất hụt  hẫng, bâng khuâng và lại làm thơ để biểu lộ hàm ơn với ông ấy: “Sáng mùa  xuân bầu trời mây ảm đạm/ Từng đàn cò mỏi cánh bay xa/ Phải chăng chúng  tìm nơi trú ngụ/ Hay bay về “cửa phủ” nghỉ ngơi? Biết rằng Ban về hưu  là được nghỉ/ Nhưng thật lòng con chưa muốn Ban hưu/ Để mai này mang  xuân đến cho con”.
Một sự 'ích kỷ' vừa buồn vừa thương. Mà hình  như T. chỉ làm thơ mỗi khi buồn: lúc phải dứt lòng chia xa người vợ, lúc  nhớ mẹ thương cha, lúc con Mương chết... như là những câu thơ ấy được  cất ra từ một tâm hồn đang chịu đựng những vết thương sâu nặng.
 Giống như nhà văn Phùng Quan đã viết: “Có những phút ngã lòng, Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy”.
Sau  này, “Trại tiểu hổ” của T. ngày càng đông vui với sự xuất hiện thêm của  Rooney, Totti và Beckham là lứa con đầu tiên của Pháo. 
 Lứa tiếp theo, T. đặt tên cho bốn đứa “cháu”  của mình là Mùa, Xuân, Đã, Đến. Tên chúng như một cánh én chao lượn  mang đầy nắng ấm mùa xuân, như một điềm báo an lành đến với cuộc đời của  người tử tù mang tâm hồn của một nhà thơ và tràn đầy tình thương với  trại mèo con bé nhỏ.
"Tôi đã òa khóc nức nở khi được tha tội chết"
Sáng  ngày 23-6-2009, trong khi đang ăn dở gói phở của một “hàng xóm” buồng  giam bên cạnh, Đặng Văn T. nhận được tin báo “xuống xiềng”. 
 Sau gần 12 năm sống trong nơm nớp lo sợ  với thân phận tử tù, từng ngày đối mặt với cái chết, nhận được tin vui,  anh mừng đến òa khóc: “Đang lễ phép đứng ở “chuồng cọp” tôi ôm chầm lấy  cán bộ Tỵ và Viện không nói được câu gì. Bỗng hai hàng nước mắt tôi tuôn  trào. 
  
 
 Phòng biệt giam của T.
 
 Cán bộ Viện nói: Theo quy định không được  phép ôm chúng tôi thế này, nhưng hôm nay là ngày anh được tái sinh lần  thứ hai nên chúng tôi thông cảm. Tôi xin lỗi họ và òa khóc nức nở. 
 Dù đến 17 giờ chiều hôm đó tôi mới được đọc quyết định tha tội chết, nhưng trong ngày tôi nhận được rất nhiều lời chúc mừng”. 
Quyết  định 848 QĐ /CTN của Chủ tịch nước về việc ân giảm cho Đặng Văn T. từ  mức án tử hình xuống tù chung thân đã khai sinh lần thứ hai cho gã tử tù  yêu động vật và thích làm thơ. 
 Thoát án tử hình, thoát cánh cửa của thần  chết vẫn rình rập suốt 4.320 ngày ở phòng biệt giam, đó chính là kết quả  của cả một quá trình phấn đấu cải tạo đặc biệt của T.
 “Tối hôm đó, tôi được chuyển vào buồng giam  số 3 ở cùng với 4 anh em thường án khác. Và tôi đã gần như thức trắng  đêm. Tâm trạng vui buồn cứ lẫn lộn, suy nghĩ rất nhiều về những gì đã  trải qua trong 12 năm đó, suy nghĩ về việc làm và tội lỗi mà tôi đã gây  ra. Điều tôi băn khoăn và lo lắng nhất là số phận Xe, Pháo, Mã sẽ như  thế nào? Vì chúng là những người bạn tri kỉ của tôi trong thời gian tôi  thụ hình ở biệt giam”. 
 Chính đêm hôm đó, con mèo Pháo cắp mấy đứa  con của nó sang buồng giam mới, hình như nó đã biết T. không về buồng  giam nữa, nên cắp con sang ở cùng với anh. 
Sau gần một tháng kể  từ ngày được “xuống xiềng”, Đặng Văn T. được chuyển đến Trại giam số 6. T  ngồi ở khoang giữa của chiếc “xe thùng” ngày chuyển trại, anh ngắm nhìn  xung quanh và tri ân với sự sống mà mình đã cố gắng giành lấy từng  ngày.
“Tôi bắt đầu ngắm nhìn quang cảnh thành phố, rồi băng qua  những cánh đồng bát ngát. Đồng quê quen thuộc đã làm cho tôi sống lại  tuổi thơ. Ngắm khung cảnh thanh bình ở vùng ngoại ô, tôi có cảm giác là  mình đang trên đường trở lại quê hương chứ không phải là đi cải tạo”.
T.  đã phải trả giá xứng đáng cho những tội lỗi của mình gây ra. Gần 12 năm  ngồi trong phòng biệt giam giành cho những tử tù, với những đêm giật  mình kinh hãi và những giọt nước mắt khổ đau, hối cải, nó chính là hình  phạt răn đe nghiêm khắc và cũng đầy bao dung dành cho T. 
T. đã  sám hối, biết yêu thương, biết quan tâm và biết khao khát sống. Và có  lẽ, quãng đời phía sau của T, sự sống mới thật sự bắt đầu, như chính bài  thơ T. đã làm trong ngày hồi sinh: “Xuân đã về cây trái đã đơm hoa/ Bõ  công lao những ngày ta vun xới/ Dù với ta đường về còn vời vợi/ Nhưng  tin rằng rồi sẽ có ngày mai”.
 
Theo Vân Anh – Hoàng Sang
 Vietnamnet