Tuy sống ở những thời đại khác nhau, xuất thân  khác nhau nhưng ở 4 vị danh tướng này đều toát lên ý chí độc lập, tự  chủ, suốt đời chiến đấu vì lợi ích của nhân dân.
                                                                          Lý Thường Kiệt
      Lý Thường Kiệt vốn có họ tên thật là Ngô Tuấn, người làng Bắc Biên, xã  Phúc Xá (nay thuộc xã Ngọc Thụy, huyện Gia Lâm, Hà Nội), sau ông dời nhà  về định cư phường Thái Hòa (nay thuộc nội thành Hà Nội). Ngô Tuấn tự là  Thường Kiệt, sau vì có công, được triều đình ban thưởng rất trọng hậu,  lại còn cho lấy theo họ của Hoàng Đế nhà Lý, đương thời liền nhân đó  ghép họ được ban với tên tự mà gọi là Lý Thường Kiệt, mãi rồi thành  quen, khiến cho không ít hậu sinh quên mất cả họ lẫn tên thật của ông.  Ông sinh năm Kỷ Mùi (1019), mất năm Ất Dậu (1105), hưởng thọ 86 tuổi.
               
      
      Trong cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam, Lý Thường Kiệt có công đệ  nhất, vì đã mở đường cho các đời Trần, Hồ, Lê, Nguyễn sau này.
     Ngày 24/2/1069, vua Lý ThánhTông hạ chiếu thân chinh Chiêm Thành. Quân  có 5 vạn, Lý Thường Kiệt được chọn làm đại tướng quân và đi tiền phong,  kiêm chức nguyên soái (theo Việt sử lược).
      Tháng 4, Lý Thường Kiệt đưa quân ta đuổi đến biên giới nước Chân Lạp  (vùng Phan Thiết) và bắt được vua Chiêm, cầm tù cả thảy 5 vạn quân (theo  Việt sử lược và bia thần phổ Lý Thường Kiệt). Vua Chiêm xin dâng đất  chuộc tội. Ba châu Bố Chánh, Địa Lý, Ma Linh thuộc Chiêm Thành từ đó  nhập về nước ta. Nay là địa phận Quảng Bình và phía bắc Quảng Trị.
      Không chỉ vậy, ông còn là một người tài năng trong đối nội và đối ngoại. N
hân lúc vua Nhân Tông còn bé, nhà Tống âm mưu cướp nước ta. Lý Thường Kiệt lo toan đoàn kết trong nước để kết thúc nhân tâm.
      Việc đầu tiên là xóa sự hiềm khích, năm 1074, ông mời Lý Đạo Thành từ  Nghệ An trở về, giữ chức Thái phó, Bình chương quân quốc trọng sự, cùng  coi việc dân và quân trong nước.
      Việc thứ hai, là tôn kẻ học giả, chiêu dụ hiền tài, mở khoa thi Minh  kinh bác học (năm 1075) để khuyến khích và tuyển nhân tài. Đây là khoa  thi Nho đầu tiên ở nước ta. Để yên biên giới phía Bắc, các tù trưởng đều  được vua gả công chúa cho. Nhờ chính sách ấy, lòng dân miền trung du  tây và bắc đều qui hướng về nhà vua. Đồng thời cất quân đi đánh những tù  trưởng không chịu thần phục triều đình.
      Mặt khác nhà Lý vẫn duy trì chính sách hòa hoãn, chấp nhận triều cống  cho nhà Tống để giữ hòa hiếu. Bia thần phổ Lý Thường Kiệt viết: " Ông  bấy giờ, trong thì cầm đại chính, ngoài thì coi sư lữ. Dốc một lòng lấy  sự yên xã tắc làm vui. Trong ngoài đều được yên ổn "
      Khi quân Tống lộ rõ âm mưu, ông là người đầu tiên và cũng gần như là  duy nhất đưa đại quân đánh sang đất phương Bắc để phá vỡ âm mưu của  giặc. Sách Việt điện uy linh chép rằng Lý Thường Kiệt nghe tin người  Tống muốn đem quân xuống rình nước ta, để gây việc binh. Ông lập tức tâu  vua : " Ngồi im đợi giặc, không bằng đem quân ra trước để chặn thế mạnh  của giặc ".
      Với tài thao lược, nghi binh Lý Thường Kiệt đã đưa thủy quân tiến đánh  hai thành Khâm châu và Liêm Châu, sau đó tiến vào nội địa công phá thành  Ung châu. Trận công thành Ung châu - một thành lớn, phòng bị kỹ của nhà  Tống là một trận chiến mang tính kinh điển, thể hiện nghệ thuật quân sự  độc đáo.
      Không chỉ vậy, trong cuộc Bắc phạt này (từ 27/10/2075 đến 1/3/1076),  ông còn tận dụng được sự ủng hộ của dân Tống. Theo bia thần phổ Lý  Thường Kiệt: " dân Tống thấy lời tuyên cáo, đều vui mừng, đem trâu rượu  khao quân ta. Từ đó, mỗi lúc dân Tống thấy hiệu cờ Thường Kiệt đàng xa,  thì nói đó là quân của cha họ Lý người nước Nam; rồi cùng nhau bày hương  án bái phục bên đường. Nhờ đó mà uy thanh quân ta lan khắp ".
      Sau khi giáng cho địch những đòn nặng nề, Lý Thường Kiệt đã kéo đại  quân về nước (tháng 3/1076) chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân xâm  lược. D
ựa  trên những phân tích mục tiêu và đường tiến quân của địch, Lý Thường  Kiệt đã cho xây dựng phòng tuyến trên sông Như Nguyệt. Ông cho đắp đê  cao như bức thành. Trên thành, đóng tre làm giạu, dày đến mấy từng.  Thành đất, lũy tre, nối với dãy núi Tam Đảo, dài gần trăm cây số. Trước  thành đất, lũy tre, có thủy quân đậu thuyền, sẵn sàng tiếp chiến với  quân Tống, nếu chúng qua sông.
      Phòng tuyến Như Nguyệt là trở thành nơi quyết chiến cuối cùng của quân  ta và quân Tống. Khí thế giặc rất mạnh, tưởng chừng như có lúc phòng  tuyến Như Nguyệt bị vỡ. Sách Việt điện uy linh viết: Muốn cổ vũ binh sĩ,  Lý Thường Kiệt sai người giả làm thần nhân, nấp trong đền Trương Hát ở  bờ nam cửa sông Như Nguyệt, đọc vang bài thơ
 
     " Nam quốc sơn hà Nam đế cư.
      Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư ;
      Như hà nghịch lộ lai xâm phạm !
      Nhĩ đẳng hành khan thủ bại hư. "
      Sách chép tiếp: "Đang đêm, nghe tiếng vang trong đền đọc bài thơ ấy,  quân ta đều phấn khởi. Quân Tống sợ táng đảm, không đánh đã tan." Bài  thơ đã được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta.
      Sau khi chặn đứng mọi cuộc tấn công của giặc, biết quân Tống đã mệt  mỏi, cạn kiệt lương thực, ông bèn "dùng biện sĩ để bàn hòa. Không nhọc  tướng tá, khỏi tốn máu mủ, mà bảo an được tông miếu " (theo bia chùa  Linh Xứng). Quân Tống buộc phải nghe theo và rút quân về nước vào năm  1077.
      Nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần viết: 
Trong quân sự, Lý Thường Kiệt là  bậc đại danh tướng, là linh hồn của những chiến công lớn nhất lịch sử  nươc nhà trong thế kỷ thứ XI ; Trong chính trị, Lý Thường Kiệt là đấng  đại danh thần, là chỗ dựa tin cậy và vững chắc của nhà Lý, nhất là dưới  thời trị vì của Hoàng Đế Lý Nhân Tông (1072-1127) ; Trong lịch sử văn  học, Lý Thường Kiệt là cây đại bút, tác giả của Nam quốc sơn hà - áng  hùng thi có giá trị thiêng liêng như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất  của nước nhà.
      Trong bộ bách khoa toàn thư đồ sộ của mình là Lịch triều hiến chương  loại chí (Nhân vật chí), nhà bác học Phan Huy Chú viết về Lý Thường Kiệt  như sau :
"Ông là người giàu mưu lược lại rất có biệt tài làm tướng  súy, từng làm quan trải thờ đến ba đời Hoàng Đế (gồm Lý Thái Tông :  1028-1254 , Lý Thánh Tông : 1054-1072 và Lý Nhân Tông: 1072-1127), phá  Tống, bình Chiêm, công lao đức vọng ngày một lớn, được sủng ái, thật  xứng là người đứng đầu các bậc công hầu vậy ".
      
Trần Hưng Đạo
      Sau Lý Thường Kiệt khoảng 210 năm, dân tộc ta lại xuất hiện một danh  tướng tài ba với những chiến công hiển hách đã đi vào lịch sử thế giới,  đó là Trần Hưng Đạo. Ông tên thật là Trần Quốc Tuấn, là con trai của An  Sinh Vương Trần Liễu, cháu vua Trần Thái Tông, quê làng Tức Mặc, huyện  Mỹ Lộc, tỉnh Hà Nam Ninh (nay thuộc tỉnh Nam Định). Năm sinh của ông  không rõ ràng, có tài liệu cho là năm 1228, có tài liệu thì cho là năm  1230 hay 1232.
      Ông mất ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (tức ngày 5 tháng 9 năm 1300), thọ  hơn 70 tuổi. Nhân dân đương thời lập đền thờ ông gọi là Đền Kiếp Bạc.
 
      Danh tiếng lẫy lừng của Trần Hưng Đạo gắn liền với cuộc chiến tranh vệ  quốc vĩ đại hồi thế kỉ 13 chống quân xâm lược Nguyên Mông, một đế chế  hùng mạnh từng một thời hoành hành khắp Á Âu.
      Sau khi thôn tính xong Trung Quốc,  đế quốc Mông Cổ tập trung lực lượng đánh Đại Việt. Trong ba mươi năm  (1257-1288), đế quốc Mông Cổ đã ba lần ào ạt cho quân tràn xuống xâm  lược nước Việt, mỗi lần lực lượng mỗi to lớn hơn lần trước, chuẩn bị  công phu hơn và quyết tâm cũng cao độ hơn.
      Trần Hưng Đạo trở thành võ quan nhà Trần lúc nào không rõ, chỉ biết vào  tháng Chín (âm lịch) năm Đinh Tỵ (1257), ông giữ quyền “tiết chế” để  chuẩn bị chống lại cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: 
"Tháng  9 (1257), (Trần Thái Tông) xuống chiếu, lệnh (cho) tả hữu tướng quân  đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới (phía Bắc) theo sự tiết chế của  (Trần) Quốc Tuấn"
      Sau khi đánh lui được quân Nguyên Mông lần đầu ( 1258 ), tháng Mười (âm  lịch) năm 1283 , để chuẩn bị kháng chiến lần hai (1285), Trần Hưng Đạo  được vua Trần Nhân Tông phong làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh các lực  lượng quân sự. Tháng Tám (âm lịch) năm sau (1284), ông cho duyệt quân ở  bến Đông Bộ Đầu (gần dốc Hàng Than, Hà Nội ngày nay), đọc bài 
" Hịch tướng sĩ" nổi tiếng, rồi chia quân đóng giữ nơi hiểm yếu.
      Đầu năm 1285, quân Nguyên Mông lại ào ạt tiến công vào phía bắc và vùng  Thanh Hóa - Nghệ An . Để bảo toàn lực lượng và thực hiện kế "thanh dã"  (vườn không nhà trống), Trần Hưng Đạo ra lệnh rút quân. Quân xâm lược  vào Thăng Long rồi tiến xuống Thiên Trường (vùng Nam Định ) đuổi theo  vua Trần. Vua Trần Thánh Tông lo ngại, vờ hỏi ông xem có nên hàng không.  Ông khảng khái trả lời
 "Bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng" (Theo  Đại Việt sử ký toàn thư). Tháng 5 (dương lịch) năm ấy (1285), ông vạch  kế hoạch tổng phản công. Chỉ sau một tháng chiến đấu quyết liệt với các  trận Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp,...quân dân nhà Trần đã  đánh tan đội quân Nguyên Mông, giải phóng đất nước.
      Cuối năm 1287, nhà Nguyên xâm lược lần thứ ba. Trần Nhân Tông hỏi: 
"Năm nay đánh giặc thế nào?". Trần Hưng Đạo đáp: 
"Năm nay thế giặc nhàn".  Khi đoàn thuyền lương đối phương bị tiêu diệt ở Vân Đồn, chủ tướng là  Hoàng tử Thoát Hoan phải rút lui, ông bố trí lực lượng mai phục ở cửa  sông Bạch Đằng trực tiếp tổ chức chiến trường tiêu diệt toàn bộ binh  thuyền của Ô Mã Nhi vào tháng Tư (âm lịch) năm Mậu Tý (1288). Thoát Hoan  nghe tin đội quân thủy đã vỡ tan rồi, liền dẫn tàn quân tháo chạy về  nước, dọc đường bị quân Việt đón đánh khiến 
"quân sĩ mười phần, tổn hại mất 5, 8 phần". Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để trốn chạy về nước. (Theo Việt Nam sử lược)
      Trong ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông, công lao của Trần  Hưng Đạo là vô cùng to lớn. Đại Việt sử ký toàn thư viết về ông: 
“tiếng vang đến phương Bắc, khiến chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi thẳng tên”. Sử gia Nguyễn Huệ Chi viết rằng ông là
 “thiên tài quân sự có tầm chiến lược, và là một anh hùng dân tộc bậc nhất của nhà Trần”
      Không chỉ là một danh tướng lẫy lừng, ông còn là người đặt nền móng cho những tư tưởng nghệ thuật quân sự vĩ đại. Là một Tiết chế đầy tài năng, khi 
"dụng binh biết đợi thời, biết thừa thế tiến thoái”  (Theo Việt Nam sử lược), đặc biệt là có một có một lòng tin sắt đá vào  sức mạnh và ý chí của nhân dân, của tướng sĩ, nên Trần Hưng Đạo đã đề ra  một đường lối kháng chiến ưu việt, tiêu biểu là các cuộc rút lui chiến  lược khỏi kinh thành Thăng Long để bảo toàn lực lượng. Kế hoạch "thanh  dã" (vườn không nhà trống) và những hoạt động phối hợp nhịp nhàng giữa  “hương binh” và quân triều đình, những trận tập kích và phục kích có ý  nghĩa quyết định đối với cả chiến dịch như ở Chương Dương, Hàm Tử, Tây  Kết, Vân Đồn, và nhất là ở Bạch Đằng...đã làm cho tên tuổi ông bất tử.  (Theo Từ điển văn học Nguyễn Huệ Chi)
      Bàn về chính sách giữ nước, Trần Hưng Đạo là người theo tư tưởng lấy  sức dân làm nền tảng xây dựng sức mạnh của chế độ. Đại Việt Sử Ký Toàn  Thư nhà Hậu Lệ chép:
      “Hưng Đạo Vương ốm. Vua ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: 
"Nếu có điều  chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế  nào". Vương trả lời: "Ngày xưa Triệu Vũ dựng nước, vua Hán cho quân  đánh, nhân dân làm kế "thanh dã" (tức Vườn không nhà trống), đại quân ra  Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, còn đoản binh thì đánh úp phía  sau. Đó là một thời. Đời Đinh, Lê dùng người tài giỏi, đất phương Nam  mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân  không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời.  Vua Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh  Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế.
      Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh  em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy.  Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản [binh] chế  trường [trận] là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến  như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như cách tằm ăn,  không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền  biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như  cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thứ sức dân để làm kế sâu rễ  bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy".
      Những bài học về nghệ thuật đánh trận, bài học về nhân tâm của ông là những tài sản vô giá của nền tư tưởng quân sự Việt Nam.
      
Nguyễn Huệ 
      Nguyễn Huệ sinh năm 1753, mất năm 1792, sau Trần Hưng Đạo 525 năm.
      Dù chỉ có một cuộc đời ngắn ngủi 40 năm với bao dự định đang dang dở  tuy nhiên tên tuổi của Nguyễn Huệ - Quang Trung đã đi vào lịch sử dân  tộc với những chiến công lừng lẫy với hình tượng người anh hùng áo vải.
      Quang Trung Nguyễn Huệ là người đã đánh đổ cả hai tập đoàn thống trị  phản động ở Đàng Trong và Đàng Ngoài, đại phá quân xâm lược Xiêm và Mãn  Thanh, thực hiện được khát vọng thống nhất đất nước của dân tộc vào cuối  thế kỷ thứ 18. Ông là một trong những lãnh đạo chính trị tài giỏi với  nhiều cải cách xây dựng đất nước, quân sự xuất sắc trong lịch sử Việt  Nam với những trận đánh trong nội chiến và chống ngoại xâm chưa thất bại  lần nào.
 
      Năm 1771, ở Đàng Trong, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ  lãnh đạo nông dân khởi nghĩa ở Tây Sơn. Lúc này ở cả hai Đàng chính  quyền phong kiến đều đã rất bê tha, suy tàn. Với khẩu hiệu “Lấy của nhà  giàu chia cho người nghèo”, quân Tây Sơn tiến đến đâu thì dân nghèo ở  đấy đều tham gia. Thanh thế của nghĩa quân Tây Sơn lớn lên nhanh chóng. 
Từ cuộc khởi nghĩa Tây Sơn này, Nguyễn Huệ trở thành lãnh tụ kiệt xuất của phong trào nông dân thế kỷ 18 và cũng trở thành người anh hùng dân tộc vĩ đại.
      Năm 1777, Nguyễn Huệ đem quân vào Gia Định đánh tan sào huyệt của quân  Nguyễn, bắt giết được Nguyễn Phúc Dương và Nguyễn Phúc Thuần. Sau chiến  thắng, ông giao quyền cai quản Gia Định cho các tướng rồi trở lại Quy  Nhơn.
      Năm 1783, quân Tây Sơn đánh chiếm lại thành Gia Định, Nguyễn Ánh thua  chạy trốn sang Xiêm (Thái Lan) cầu cứu. Năm 1784, quân Xiêm đem 2 vạn  thủy quân, 300 chiến thuyền và 3 vạn quân bộ cùng Nguyễn Ánh tấn công  Gia Định.
      Đầu năm 1785, Nguyễn Ánh và quân Xiêm từ Sa Đéc tiến đánh Mỹ Tho.  Nguyễn Huệ cho quân mai phục, chặn đánh trên sông Mỹ Tho, đoạn ở Rạch  Gầm- Xoài Mút. Quân Xiêm đại bại, chỉ còn vài ngàn bộ binh rút chạy về  nước.
      Năm 1786, Nguyễn Huệ chiếm được Thăng Long, lật đổ chúa Trịnh, trao lại  quyền hành cho vua Lê Hiển Tông. Vua Lê thưởng công cho Nguyễn Huệ bằng  cách phong Nguyễn Huệ là Uy Quốc Công, nhường đất Nghệ An cho Tây Sơn.  Được vài hôm,vua Lê Hiển Tông vì bệnh nặng qua đời. Vua kế vị là Lê  Chiêu Thống. Sau đó, Nguyễn Huệ rút quân về phương Nam để Nguyễn Hữu  Chỉnh ở lại đất bắc.
      Sau khi Nguyễn Huệ rút đi, miền bắc trở nên rối loạn. Các thế lực của  họ Trịnh ra sức khôi phục lại cơ đồ. Lê Chiêu Thống phải dựa vào sức cửa  Nguyễn Hữu Chỉnh để chống đỡ. Chỉnh dẹp yên được họ Trịnh, cậy mình có  công lớn nên sinh ra lộng quyền, chống lại Tây Sơn, đòi lại đất Nghệ An.