Nhiều nước Đông Nam Á tôn trọng sự trỗi dậy và nền kinh tế năng động của  Trung Quốc, tuy nhiên tôn trọng không có nghĩa là cúi đầu. Các nước  ASEAN không muốn dựa hoàn toàn vào "thiện chí" hay ḷng tốt của Bắc  Kinh, v́ vậy họ cố gắng cân bằng quan hệ với Trung Quốc bằng cách tham  gia với các sức mạnh bên ngoài bằng phương tiện song phương bất cứ nơi  nào có thể.
  | 
| ASEAN nỗ lực xây dựng trở thành một Cộng đồng kinh tế vào năm 2015. | 
Julio Amador III, một nghiên cứu sinh về châu Á thuộc Trung tâm Đông -  Tây ở Washington nhận định, vai tṛ trung tâm trong việc chi phối quyền lực  khu vực châu Á - Thái B́nh Dương của ASEAN không phải được người ta ban  cho mà phải nỗ lực t́m kiếm. Không làm như vậy, th́ các cường quốc như  Mỹ và Trung Quốc sẽ chi phối cuộc chơi và sẽ quyết định tương lai của  khu vực.
Các quốc gia Đông Nam Á sẽ phải làm việc chăm chỉ để duy tŕ vị trí trung tâm của ASEAN trong quan hệ quyền lực tại châu Á - Thái B́nh Dương.
Chuyến công du 4 nước Đông Nam Á và tham dự hội nghị APEC, hội nghị  thượng đỉnh Đông Á và hội nghị ASEAN - Mỹ trong tháng 10 tới của Tổng  thống Mỹ Obama sẽ làm nổi bật những thách thức lớn mà khu vực Đông Nam Á  phải đối mặt, đặc biệt là vai tṛ của các quốc gia thành viên ASEAN  trong cán cân quyền lực khu vực khi mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ  ảnh hưởng trực tiếp đến họ.
Trung Quốc đang t́m kiếm một mô h́nh quyền lực mới rất lớn với Mỹ để tạo  cho nó vị thế gần như cân bằng với Mỹ sau này trên trường quốc tế. Bắc  Kinh mong muốn nhận được sự bảo đảm từ Washington tôn trọng "lợi ích"  của Trung Quốc trong khi Bắc Kinh sẽ đảm bảo vai tṛ của Mỹ tại Tây bán  cầu sẽ không bị thách thức.
V́ vậy, theo Julio Amador III, hành động của Trung Quốc như tranh chấp  quyền kiểm soát nhóm đảo Senkaku với Nhật Bản bằng cách thường xuyên  phái tàu Hải giám/Cảnh sát biển ra vùng biển xung quanh hay chiếm quyền  kiểm soát băi cạn Scarborough của Philippines, nḥm ngó Băi Cỏ Mây (nằm  trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam) và duy tŕ tranh chấp  kéo dài với Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa là những dấu hiệu đáng báo  động rằng Bắc Kinh sẵn sàng làm những ǵ cần thiết để ngăn chặn cái gọi  là "xâm phạm" những khu vực nó coi là lănh thổ của ḿnh.
Nh́n chung Đông Nam Á đă đạt được mối quan hệ ḥa b́nh và hiệu quả với  Trung Quốc. Trong thực tế, ASEAN và Trung Quốc đă duy tŕ quan hệ "đối  tác chiến lược" từ năm 2003, trong đó xác định nhiều lĩnh vực hợp tác.  Trước đó năm 2002 ASEAN đă kư với Trung Quốc một bản Tuyên bố chung về  ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC).
Bởi thực tế địa lư, các quốc gia thành viên ASEAN không có sự lựa chọn  mà phải t́m cách làm việc với Trung Quốc, cộng đồng ASEAN v́ thế đă luôn  luôn t́m cách khuyến khích Bắc Kinh đóng một vai tṛ tích cực trong tổ  chức khu vực với nỗ lực "xă hội hóa" các chuẩn mực có thể chấp nhận.
Tuy nhiên Trung Quốc ngày càng trông chờ một sự tôn trọng đối với sức  mạnh to lớn của ḿnh khi quốc gia này vượt qua Nhật Bản trở thành nền  kinh tế lớn thứ 2 thế giới. Trong khi Trung Quốc có thể tin rằng đó là  tiền đề để "thống trị" Đông Nam Á, nhưng hầu hết các nước trong khu vực  ASEAN đều luôn luôn ư thức về quyền tự chủ của ḿnh.
Điều này không có nghĩa các thành viên ASEAN sẽ phản đối Trung Quốc một  cách trực diện mà thực sự các nước ASEAN "đang chuẩn bị có những bước  nhượng bộ nhất định trong một số lĩnh vực mà không ảnh hưởng đến lợi ích  quốc gia của ḿnh", Julio nhận định.
Ngược lại, Đông Nam Á lại chấp nhận tính ưu việt trong sự hiện diện của  Mỹ ở khu vực với 3 lư do quan trọng: Mỹ tôn trọng tự do hàng hải và có  vai tṛ trong việc ngăn chặn các cường quốc khác định "thống trị" các  nước nhỏ hơn trong khu vực và giảm thiểu các tham vọng lănh thổ của nó  trong khu vực.
Thứ 2, tính minh bạch chung trong hoạch định chính sách của Mỹ cũng rất  hữu ích cho các quốc gia ASEAN, trong đó có ư tưởng về cách thức Mỹ sẽ  phản ứng với các quyết định, chính sách mà chắc chắn rằng họ có thể làm.
Ba là, chính sách xoay trục chiến lược của Mỹ sang châu Á - Thái B́nh  Dương đă được nhiều nước ASEAN chào đón như một sự khẳng định về tầm  quan trọng của Mỹ trong khu vực.
Tuy nhiên, các nước ASEAN không muốn phải rơi vào vị trí phải lựa chọn  giữa Bắc Kinh và Washington. ASEAN luôn t́m kiếm vai tṛ như một đối tác  trung lập và đáng tin cậy cho những hoạt động đối thoại giữa các cường  quốc thông qua các cơ chế như Diễn đàn khu vực ASEAN, Hội nghị Bộ trưởng  Quốc pḥng ASEAN + cũng như các cơ chế ASEAN +.
Mặt khác vẫn c̣n những lo sợ rằng cam kết của Mỹ đối với khu vực sẽ biến  mất một khi cuộc khủng hoảng mới bùng nổ, đặc biệt là ở Trung Đông.  Ngay cả khi đối mặt với sự hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông,  ASEAN không thể hoàn toàn đứng về phía các thành viên của ḿnh có tranh  chấp ở Biển Đông với Trung Quốc để Bắc Kinh có cớ "bất măn" mà tỏ ra rất  thận trọng, đó cũng là điều dễ hiểu.
  
 | 
| Các  quan chức cấp cao ASEAN - Trung Quốc trao đổi thúc đẩy việc thực hiện  DOC và hướng tới đàm phán, kư kết COC để duy tŕ ḥa b́nh, ổn định ở  Biển Đông, nhưng Trung Quốc vẫn t́m cách né tránh. | 
Nhưng cũng chính ASEAN đă thúc giục Trung Quốc tiến hành đàm phán và kư  kết bộ Quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông (COC) trong khi giới  chức Bắc Kinh vẫn tái khẳng định rằng họ "không vội vàng" làm việc này  bất chấp nhiều nỗ lực của ASEAN.
Các thành viên ASEAN đă đồng ư rằng sẽ làm việc cùng nhau để đưa COC  thành hiện thực, Singapore đă liên tục kêu gọi sớm kư kết COC và đă nêu  vấn đề với lănh đạo Trung Quốc. Indonesia quan tâm bảo vệ sự thống nhất  của ASEAN về vấn đề này và đă t́m cách tạo ra một mặt bằng chung để giải  quyết những mối quan tâm chung của các quốc gia thành viên có tranh  chấp ở Biển Đông trong khi tránh chia rẽ khối.
Mặc dù Thái Lan giữ vai tṛ nước điều phối quan hệ ASEAN - Trung Quốc,  Bangkok vẫn cam kết hợp tác với các quốc gia thành viên ASEAN khác về  COC ngay cả khi Thái Lan cho rằng vấn đề này "không nên nhấn mạnh quá  nhiều".
Các quốc gia thành viên đều mong muốn ASEAN vẫn là trung tâm của cấu  trúc khu vực, và khối phải duy tŕ một tư thế cân bằng tinh tế giữa Mỹ  và Trung Quốc trong khi cùng một lúc có sự tham gia của các cường quốc  khác như Nhật Bản, Nga và Ấn Độ.
Có nhiều khó khăn trong thực hiện nhiệm vụ của ASEAN khi sự phối hợp  trong chính sách đối ngoại không phải là một sức mạnh chính của hiệp  hội. Các nước thành viên có nhận thức và chiến lược khác nhau về các mối  đe dọa, khi đến phiên họ giữ ghế Chủ tịch luân phiên khối công việc lại  đ̣i hỏi sự phối hợp, khả năng chống lại áp lực từ bên ngoài thường phụ  thuộc vào sức mạnh tương đối của vai tṛ Chủ tịch luân phiên ASEAN.
Campuchia giữ vai tṛ Chủ tịch luân phiên ASEAN năm 2012 đă cho thấy Bắc  Kinh có một ảnh hưởng to lớn đến các cuộc thảo luận của ASEAN thông qua  Campuchia. Tuy nhiên khi ghế Chủ tịch luân phiên chuyển qua Brunei, với  vị thế kinh tế và chính trị của ḿnh, Brunei đă tự do hơn để chống lại  các áp lực bên ngoài, đó là lư do tại sao Brunei có thể tạo ra một sự  đồng thuận về các vấn đề nhạy cảm như Biển Đông.
Để ứng phó với những quan hệ quyền lực lớn ở khu vực châu Á - Thái B́nh  Dương, đầu tiên ASEAN phải trở thành một cộng đồng kinh tế thực sự có  khoảng cách phát triển hẹp và một nền kinh tế năng động, chỉ có như vậy  ASEAN mới có thể chống lại các áp lực từ các cường quốc bên ngoài.
Muốn làm được điều này, các quốc gia thành viên phải thành công trong  thực hiện mục tiêu của họ v́ một Cộng đồng ASEAN thống nhất vào năm 2015  như là mục tiêu của riêng họ và ưu tiên quyền lợi cho người dân ASEAN.
Thứ hai, ASEAN phải thoát khỏi những lời tuyên bố trên giấy và tránh tập  trung quá nhiều vào quá tŕnh. ASEAN cần chứng tỏ sự tiến bộ hơn trong  việc đạt được các mục tiêu khác nhau của ḿnh như khả năng thu hút đầu  tư hỗ trợ phát triển, thực hiện các thỏa thuận và áp dụng hay duy tŕ  cải cách trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Với 4 thập kỷ phát triển, ASEAN không thể tiếp tục dừng lại đằng sau  những tuyên bố hoành tráng trong khi liên tục thất bại trong sản xuất  hàng hóa. Các quốc gia thành viên ASEAN sẽ phải tính đến nhiều hơn nữa  quyền lợi người dân của họ, những người có lợi ích có thể vượt khỏi biên  giới quốc gia.
Vietnamnet