|
Trần Trung Đạo: “Côn đồ” Đặng Tiểu B́nh qua quan hệ Việt Trung
02-19-2013
|
#1
|
R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
|
“Khôn ngoan” và “ngu dốt” là hai tĩnh từ để chỉ khả năng nhận xét, phán đoán một vấn đề dựa theo kiến thức sẵn có. Theo Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, bản in 1970 “khôn ngoan là biết phân biệt lợi hại, phải quấy, khôn ngoan giữa đám ba bề, đừng cho ai lận, chớ hề lận ai” và “ngu dốt là ngu đần dốt nát, chẳng hiểu việc phải trái ở đời hay lễ nghĩa xă giao ở đời.” V́ sự kính trọng dành cho đồng loại, nhất là với những người mang bịnh chậm khôn, khi cần diễn tả cái ngu, người ta thường dùng thú vật để so sánh như “ngu như ḅ”, “ngu như trâu” chứ không nói là ngu như một người nào đó.
Từ ngày nghe bài giảng ông Đại tá Trần Đăng Thanh, trên Internet tràn ngập bài đánh giá ông là ngu, ngu đủ kiểu, từ ngu tuyển tập đến ngu toàn tập, thậm chí “ngu như Trần Đăng Thanh”. Tuy nặng lời nhưng không oan ức. Trong cương vị một đại tá, phó giáo sư, cán bộ giảng dạy Học Viện Chính Trị nhưng những đánh giá của ông về các mối quan hệ chính trị trong vùng cũng như thế giới thấp đến mức không thể nào tin được rằng tri thức của ông đang trong trạng thái b́nh thường. Tuy nhiên, cũng thật bất công và xúc phạm nếu chỉ trích dẫn những điều ấu trĩ, sai lầm trong bài giảng của ông mà không phân tích.
Làm thế nào để có thể “không được mất chủ quyền và quyền chủ quyền nhưng phải ưu tiên tối thượng là giữ được môi trường ḥa b́nh” trước một Trung Quốc đang âm mưu khống chế toàn thế giới để vừa nuôi dưỡng chế độ độc tài toàn trị vừa nuôi sống nền kinh tế khổng lồ nhưng đầy tham nhũng và thất thoát? Cách diễn dịch duy nhất theo lư luận của Trần Đăng Thanh là đầu hàng Trung Quốc. Quan điểm của ông là quan điểm “Nhập Tống” của Trần Nhật Hiệu trong cuộc Kháng Nguyên lần thứ nhất. Đất nước này không chỉ bị mất đi một lần nhưng đă giành lại được, Thăng Long không chỉ bị đốt cháy một lần nhưng đă xây lại được, bởi v́ tinh thần độc lập, tự chủ đă ḥa trong máu của dân tộc từ thuở tổ tiên lên đường đi khai phá phương nam nhiều ngàn năm trước.
Ngay cả trường hợp “Trung Quốc đă từng nhường cơm xẻ áo dành cho chúng ta từ hạt gạo, từ khẩu súng, từ đôi dép để chúng ta giành thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và thắng Mỹ” phát xuất từ… “trái tim bồ tát” của Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu B́nh đi nữa, chẳng lẽ hôm nay làm ngơ để chúng chiếm đoạt toàn bộ biển Đông, đẩy Việt Nam từ một quốc gia bán đảo nh́n ra Thái B́nh Dương bao la và phong phú tài nguyên thành một nước không có biển như Lào, Mông Cổ. Đôi mắt ông Trần Đăng Thanh nh́n đâu mà không thấy đường lưỡi ḅ do Trung Quốc công bố gần như phủ kín Biển Đông và ép Việt Nam, đất nước h́nh chữ S ph́ nhiêu thành một thân xác già nua co ro trên bờ biển dài hơn ba ngàn cây số?
Ngày xưa “Ra khơi, thấy ḷng phơi phới, thấy t́nh thế giới, thấy mộng ngày mai, thấy niềm tin mới”, ngày nay mỗi chuyến ra khơi của ngư dân Hải Pḥng, Thái B́nh, Thanh Hóa, Quảng Nam, Quảng Ngăi, Khánh Ḥa là mỗi lần phó thác số phận không chỉ cho sóng to gió lớn mà c̣n trong những viên đạn không một chút xót thương của hải quân Trung Quốc. Ba mươi tám năm qua, lương tâm ông Trần Đăng Thanh cất giấu ở đâu mà không cảm thông cho sự chịu đựng vô cùng đau thương của hàng ngàn ngư dân Việt Nam, người bị giết, tàu bè bị đâm thủng, những em bé chiều chiều ra biển chờ cha đi đánh cá không bao giờ trở về. Ba mươi tám năm, nói như nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa Tổ quốc tôi như miếng da lừa, một lần ước mất đi một góc, ước phồn vinh: rừng mất cây, biển mất cá, ước vẹn toàn: mất hải đảo, mất Cao Nguyên. Hoàng Sa đă rơi vào tay Trung Quốc từ lâu và Trường Sa mang tiếng là của Việt Nam nhưng đến nay chỉ c̣n vài đảo nhỏ trong quần đảo rộng lớn này, ông biết không?
Ông Trần Đăng Thanh nhắc nhở học viên “không quên họ đă từng xâm lược chúng ta nhưng ta cũng không được quên họ đă từng nhường cơm xẻ áo cho chúng ta. Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa, đấy là đối với Trung Quốc hai điều không được quên” mà không biết rằng Trung Quốc chẳng quan tâm ǵ đến chuyện “giải phóng miền Nam” hay “thống nhất đất nước”. Trong buổi gặp gỡ Henry Kissinger năm 1971, Chu Ân Lai tiết lộ Trung Quốc “nhường cơm xẻ áo” cho Việt Nam chẳng phải là chiến lược hay tư tưởng CS ǵ cả mà dựa hoàn toàn trên gánh nợ lịch sử của tổ tiên y giao phó. Họ Chu lúc đó nghĩ đến việc Mỹ không thua nên chỉ muốn kiểm soát miền Bắc Việt Nam trong gọng kèm chặt chẽ theo truyền thống cai trị chư hầu thời phong kiến. Ngay cả khi chiến tranh chưa chấm dứt, Trung Quốc đă xây dựng các trục lộ từ Trung Quốc sang Lào để kịp thời can thiệp trong trường hợp chư hầu Việt Nam đủ mạnh đứng lên khởi nghĩa và thôn tính nước Lào. Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai rồi Đặng Tiểu B́nh không phải là những kẻ chủ trướng chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc mà là những người khai triển chính sách Đại Hán đô hộ các nước nhỏ lân bang truyền thống của tổ tiên y trong thời đại toàn cầu. Trần Đăng Thanh cóp nhặt rất nhiều thông tin nhưng lại bỏ sót những dữ kiện rất hiển nhiên trong lịch sử này.
Trần Đăng Thanh khẳng định, Mỹ “đang thực hiện “thả con săn sắt, bắt con cá rô”. Họ chưa bao giờ tốt thật sự với chúng ta, tội ác của họ trời không dung, đất không tha” nhưng không biết rằng chỉ có hai lănh đạo quốc gia mà Đặng Tiểu B́nh không thuyết phục được sự ủng hộ để đánh Việt Nam là Thủ tướng Singapore Lư Quang Diệu và Tổng thống Mỹ Jimmy Carter. Lư Quang Diệu sáng suốt chỉ ra cho họ Đặng thấy “Không có một cộng đồng Nga kiều nào tại các nước Đông Nam Á có thể dẫn đến các cuộc nổi dậy của Cộng Sản do Liên Xô ủng hộ nhưng ở đâu cũng có các cộng đồng Hoa kiều được đảng và nhà nước CS Trung Quốc xúi dục và ủng hộ.” Với Mỹ, ngày 30 tháng 1 năm 1979, Tổng thống Jimmy Carter mời Đặng Tiểu B́nh gặp riêng và trong buổi họp này Tổng thống Carter đọc cho họ Đặng nghe quan điểm của Mỹ từ lá thư do chính tay tổng thống soạn thảo, trong đó, Tổng thống Carter yêu cầu họ Đặng v́ sự ổn định của Đông Nam Á và thế giới, cố tự chế hành động xâm lược Việt Nam. Cá nhân Jimmy Carter có thể thương hay ghét Việt Nam nhưng rơ ràng chính sách và tầm nh́n của một tổng thống Mỹ chẳng bao giờ là “chưa bao giờ tốt thật sự với Việt Nam” như Trần Đăng Thanh “suy bụng ta ra bụng người”.
Gát qua một bên chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” tào lao được mấy cái loa tuyên truyền lập đi lập lại đến nhàm chán mà cứ tạm xem đế quốc Mỹ cũng là kẻ thù của Việt Nam, th́ giữa Trung Quốc và Mỹ, kẻ thù nào đe dọa trực tiếp đến an ninh, chủ quyền, toàn vẹn lănh thổ của Việt Nam và trong trường hợp phải chọn một để đi, người khôn ngoan nên biết chọn ai?
Một người có kiến thức chính trị b́nh thường cũng biết chỗ dựa phải là Mỹ. Trong quan hệ chính trị quốc tế không có chuyện “tốt với Việt Nam” hay “xấu với Việt Nam” mà chỉ có “thuận với quyền lợi Việt Nam” hay “nghịch với quyền lợi Việt Nam”.
Trần Đăng Thanh biết ăn cắp câu nói nổi tiếng của cố Thủ tướng Anh Lord Palmerston thời Nữ Hoàng Victoria “Nước Anh không có đồng minh bất diệt, kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia dân tộc là bất diệt và vĩnh viễn” nhưng không hiểu tại sao Thổ Nhĩ Kỳ biết liên minh với Anh, Mỹ, những cựu thù ở xa, để chống kẻ thù độc tài hung bạo Liên Xô ở gần. Sau thế chiến thứ hai, các quốc gia Nhật Bản, Tây Đức, Nam Hàn, Đài Loan, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ ngă về phía Mỹ và sau khi khối Liên Xô sụp đổ hầu hết các nước Đông Âu Cộng Sản cũ cũng ngă về phía Mỹ. Lư do rất dễ hiểu, các quốc gia vừa bước ra khỏi chiến tranh hay độc tài lạc hậu rất cần khoa học kỹ thuật, văn hóa giáo dục, giao thương kinh tế. Không có ǵ hổ thẹn phải đi học cái hay cái đẹp của người khác đem về áp dụng cho đất nước ḿnh, chỉ có những kẻ “ngồi trong đáy giếng thấy trời bằng vung” mới nghĩ không ai khôn hơn ḿnh.
Ông bà ta dạy “gần mực th́ đen, gần đèn th́ sáng”, Trung Quốc không chỉ là mực mà là đế quốc tội ác, thâm độc, bất nhân. Lănh đạo CS Trung Quốc không thương xót ba chục triệu dân họ chết dưới bàn tay của Mao Trạch Đông th́ thương xót ǵ một dân tộc nhỏ nhoi mà tổ tiên nhà Hán của chúng đă nhiều lần cố đồng hóa mà không được.
Ông Trần Đăng Thanh có biết “côn đồ” Đặng Tiểu B́nh đă từng muốn xóa bỏ nước Việt Nam trong bản đồ thế giới bằng một chính sách đánh phủ đầu (preemptive policy) khi nói với Tổng thống Jimmy Carter “Bất cứ nơi nào, Liên Xô tḥ ngón tay tới, chúng ta phải chặt đứt ngón tay đó đi” không?
Đặng Tiểu B́nh muốn liên minh quân sự với Mỹ như kiểu NATO ở châu Âu để triệt tiêu Liên Xô tại châu Á. Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger giải thích quan điểm này của họ Đặng trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China) của ông: “Những ǵ Đặng Tiểu B́nh đề nghị về căn bản là chính sách đánh phủ đầu, đó là một lănh vực trong chủ thuyết quân sự ngăn chận tấn công của Trung Quốc… Nếu cần thiết, Trung Quốc sẽ chuẩn bị phát động các chiến dịch quân sự để phá vỡ kế hoạch của Liên Xô, đặc biệt tại vùng Đông Nam Á”. “Đông Nam Á” và “ngón tay” theo ư Đặng Tiểu B́nh tức là Việt Nam và liên kết quân sự theo dạng NATO không phải là để dời vài cột mốc, đụng độ biên giới lẻ tẻ mà là cuộc tấn công phủ đầu quyết định trước khi Việt Nam có khả năng chống trả.
Đặng Tiểu B́nh không mua chuộc được sự ủng hộ công khai của Mỹ nhưng ít ra không phải về tay trắng. Mỹ đồng ư giúp Đặng theo dơi sự động binh của 55 sư đoàn Liên Xô phía Bắc. Mỹ cũng dùng vệ tinh để theo dơi trận đánh biên giới và cũng nhờ những tấm ảnh chụp từ vệ tinh mà các cơ quan truyền thông biết ai đă dạy ai bài học trong chiến tranh biên giới Việt Trung 1979. Trong buổi họp riêng với Tổng thống Carter trước khi lên máy bay, Đặng khẳng định “Trung Quốc vẫn phải trừng phạt Việt Nam”.
“Côn đồ” Đặng Tiểu B́nh với chính sách cây gậy
Lư do Trung Quốc đánh Việt Nam năm 1979 ngày nay đă quá tỏ tường. Trung Quốc đánh Việt Nam trước hết phát xuất từ nỗi lo sợ bị bao vây. Tháng 4 năm 1968, Chu Ân Lai tiết lộ với Phạm Văn Đồng: “Trong một thời gian dài, Trung Quốc bị Mỹ bao vây. Bây giờ Liên Xô bao vây Trung Quốc, ngoại trừ phần Việt Nam”. Phạm Văn Đồng đáp: “Chúng tôi càng quyết tâm để đánh bại đế quốc Mỹ bất cứ nơi nào trên lănh thổ Việt Nam”. Chu Ân Lai: “Đó chính là lư do chúng tôi ủng hộ các đồng chí”. Việc Việt Nam ngă theo Liên Xô đă xác định ṿng vây hoàn toàn khép chặt chung quanh Trung Quốc. Riêng một Việt Nam đă quá lo, nếu cộng thêm Miên và Lào với tổng số gần 100 triệu dân thù địch nằm ngay phía nam là một đe dọa lớn.
Để ngăn chận khối Việt Miên Lào liên minh nhau, tháng 8 năm 1975, Đặng Tiểu B́nh chia sẻ với Khieu Samphan, nhân vật số ba trong Khmer Đỏ “Khi một siêu cường [Mỹ] rút đi, một siêu cường khác [Liên Xô] sẽ chụp lấy cơ hội mở rộng nanh vuốt tội ác của chúng đến Đông Nam Á”. Họ Đặng kêu gọi đảng CS Campuchia đoàn kết với Trung Quốc trong việc ngăn chận Việt Nam bành trướng. Hoa Quốc Phong cũng lập lại những lời tương tự khi tiếp đón phái đoàn của Tổng bí thư đảng CS Lào Kaysone Phomvihane nhân chuyến viếng thăm Trung Quốc của y vào tháng Ba năm 1976. Tháng Sáu năm 1978, Việt Nam chính thức tham gia COMECON và tháng 11 cùng năm Việt Nam kư Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác có bao gồm các điều khoản về quân sự với Liên Xô. Tháng 12 năm 1978, Việt Nam xâm lăng Campuchia. Đặng Tiểu B́nh chọn phương pháp quân sự để chọc thủng ṿng vây.
Một lư do khác, Đặng Tiểu B́nh khinh rẻ lănh đạo CSVN là phường “ăn cháo đá bát”. Trong cuộc chiến Việt Nam, Trung Quốc không chỉ viện trợ tiền của mà c̣n bằng xương máu. Trong tác phẩm Trung Quốc lâm chiến: Một bộ bách khoa (China at War: An Encyclopedia) tác giả Xiaobing Li liệt kê các đóng góp cụ thể của 320 ngàn quân Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam: “Trong chiến tranh Việt Nam giai đoạn năm 1964 đến năm 1973, quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đă lần nữa can thiệp. Tháng Bảy năm 1965, Trung Quốc bắt đầu đưa quân vào Bắc Việt, bao gồm các đơn vị hỏa tiển địa-không (SAM), pḥng không, làm đường rầy xe lửa, công binh, vét ḿn, hậu cần. Quân đội Trung Quốc điều khiển các giàn hỏa tiển pḥng không, chỉ huy các đơn vị SAM, xây dựng và sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của Trung Quốc giúp cho Việt Nam có điều kiện gởi thêm gởi nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam đánh Mỹ. Giữa năm 1965 và năm 1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt 23 sư đoàn, gồm 95 trung đoàn, tổng số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967, có 170,000 quân Trung Quốc hiện diện”.
|
|
|
02-19-2013
|
#2
|
R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
|
Lư do thứ ba là sự khinh bỉ, căm ghét Việt Nam của cá nhân họ Đặng. Trong số năm nhân vật hàng đầu lănh đạo Trung Quốc giai đoạn 1977 đến 1980 gồm Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh, Lư Tiên Niệm, Uông Đông Hưng và Đặng Tiểu B́nh th́ Đặng Tiểu B́nh là người có hoạt động gần gũi nhất với phong trào CSVN. Hơn ai hết, họ Đặng đă tiếp xúc, làm việc với các lănh đạo CSVN, biết cá tính từng người và cũng biết một cách tường tận và chính xác những hy sinh của Trung Quốc dành cho đảng CSVN. Như tôi đă viết trong bài Chu kỳ thù hận Việt Trung Miên, đảng CSVN sống bằng gạo trắng của Trung Quốc nhưng cũng ngay thời gian đó quê hương Tứ Xuyên của Đặng Tiểu B́nh chết đói trên 10 triệu người. Trong thời gian hai đảng CS cơm không lành canh không ngọt, bộ máy tuyên truyền CSVN ca ngợi Lê Duẩn như một nhân vật kiên quyết chống bành trướng Bắc Kinh nhưng đừng quên tháng Tư năm 1965, chính Lê Duẩn đă sang tận Bắc Kinh cầu khẩn Đặng Tiểu B́nh để gởi quân trực tiếp tham chiến. Với những đóng góp xương máu đó, việc họ Đặng tuyên bố “Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học” không phải là chuyện tự nhiên. Câu “Việt Nam là côn đồ” được các đài truyền h́nh Trung Quốc phát đi và chính Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lănh Sự Quán Việt Nam tại Quảng Châu, đă xem đoạn phóng sự truyền h́nh đó.
Trong điều kiện kinh tế và quân sự c̣n rất yếu của Trung Quốc vào năm 1979, đánh Việt Nam là một quyết định vô cùng quan trọng. Đặng Tiểu B́nh nắm được Bộ chính trị đảng CS Trung Quốc nhưng về mặt đối ngoại, Đặng Tiểu B́nh phải thuyết phục các quốc gia Đông Nam Á, Á Châu và Mỹ. Cuối năm 1978, Đặng Tiểu B́nh, 74 tuổi, thực hiện một chuyến công du chính thức, lịch sử và duy nhất với tư cách lănh đạo tối cao của Trung Quốc để vừa thúc đẩy Bốn Hiện Đại Hóa và vừa dọn đường đánh Việt Nam. Từ cuối năm 1978 đến đầu 1979, Đặng viếng thăm hàng loạt quốc gia châu Á như Nhật, Thái Lan, Mă Lai, Singapore, Miến Điện, Nepal. Tại mỗi quốc gia thăm viếng, họ Đặng luôn đem thỏa ước Việt-Xô ra hù dọa các nước láng giềng như là mối đe dọa cho ḥa b́nh và ổn định Đông Nam Á. Đặng Tiểu B́nh phát biểu tại Bangkok ngày 8 tháng 11 năm 1978: “Hiệp ước [Việt Xô] này không chỉ nhắm đến riêng Trung Quốc… mà là một âm mưu Sô Viết tầm thế giới. Các bạn có thể nghĩ hiệp ước chỉ nhằm bao vây Trung Quốc. Tôi đă trao đổi một cách thân hữu với nhiều nước rằng Trung Quốc không sợ bị bao vây. Thỏa hiệp có ư nghĩa quan trọng hơn đối với Á Châu và Thái B́nh Dương. An ninh và ḥa b́nh châu Á, Thái B́nh Dương và toàn thế giới bị đe dọa.” Ngoại trừ Singapore, Đặng nhận sự ủng hộ của hầu hết các quốc gia Đông Nam Á.
Trong số các quốc gia họ Đặng viếng thăm, chuyến viếng thăm Mỹ là quan trọng nhất. Sự đe dọa của Việt Nam chiếm một phần không nhỏ trong nghị tŕnh giữa Đặng Tiểu B́nh và các lănh đạo Mỹ. Nói chung, Mỹ từ chối việc ủng hộ phương án quân sự nhưng để giữ mối quan hệ đang tiến triển tốt, Mỹ đồng ư cung cấp tin tức t́nh báo về các hoạt động quân sự của Liên Xô vùng biên giới phía bắc Trung Quốc. Trên đường về nước, Đặng ghé Tokyo lần nữa để vận động sự ủng hộ của Nhật. Ngày 17 tháng 2, 1979, Đặng Tiểu B́nh xua khoảng từ 300 ngàn đến 400 ngàn quân, tùy theo nguồn ghi nhận, tấn công Việt Nam.
Trong khi Đặng Tiểu B́nh chuẩn bị một cách chi tiết từ đối nội đến đối ngoại cho cuộc tấn công vào Việt Nam, các lănh đạo CSVN vẫn tin người Cộng Sản đàn anh dù có giận cỡ nào cũng không nỡ ḷng đem quân đánh đàn em CS Việt Nam, những người từ trong tay áo Trung Quốc chui ra. Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lănh Sự tại Quảng Châu nhắc lại “Trong tận đáy ḷng chúng tôi vẫn hy vọng, có thể một cách ngây thơ rằng, Việt Nam và Trung Quốc từng quá gần gũi và hữu nghị, họ [Trung Quốc] chẳng lẽ thay đổi hoàn toàn với Việt Nam quá nhanh và quá mạnh như thế.” Khi hàng trăm ngàn quân Trung Quốc tràn sang biên giới, Thủ tướng CS Phạm Văn Đồng và Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng vẫn c̣n đang viếng thăm Campuchia. T́nh báo Việt Nam không theo dơi sát việc động binh ồ ạt của Trung Quốc. Nếu ngày đó giới lănh đạo Đảng không tin tưởng một cách mù quáng vào ư thức hệ CS và “t́nh hữu nghị Việt Trung”, nhiều ngàn thanh niên Việt Nam đă không chết, Lạng Sơn đă không bị san bằng, hai tiểu đoàn bảo vệ thị trấn Đồng Đăng chống cự lại hai sư đoàn Trung Quốc đă không phải hy sinh đến người lính cuối cùng.
Dù bị bất ngờ, hầu hết các nhà phân tích quân sự, kể cả nhiều tác giả người Hoa, cũng thừa nhận khả năng tác chiến của phía Việt Nam vượt xa khả năng của quân đội Trung Quốc. Tạp chí Time tổng kết dựa theo các nguồn tin t́nh báo Mỹ, chỉ riêng trong hai ngày đầu thôi và khi các quân đoàn chính quy Việt Nam chưa được điều động đến, dân quân Việt Nam vùng biên giới đă hạ bốn ngàn quân chủ lực Trung Quốc. Lần nữa, như lịch sử đă nhiều lần minh chứng, không có khẩu súng nào bắn chính xác hơn khẩu súng của ḷng yêu nước.
“Côn đồ” Đặng Tiểu B́nh chuyển sang chính sách củ cà rốt
Đối với Đặng Tiểu B́nh, tổn thất vài chục ngàn quân không quan trọng, điều quan trọng là y đă bao vây được Việt Nam và đẩy CSVN vào chỗ nghèo nàn, lạc hậu và cô lập. Sau mười năm thù địch, Đặng Tiểu B́nh, để thích nghi với điều kiện kinh tế toàn cầu, đă thay đổi chính sách từ cây gậy sang củ cà rốt.
Trung Quốc vào thời điểm 1990 đang phát triển mạnh nên cần chiếm biển Đông chiến lược đầy tài nguyên, và họ Đặng cũng biết, sau khi Liên Xô sụp đổ, CSVN như những kẻ đang chới với trong đại dương đang tuyệt vọng cần một cái phao. Nghe triệu tập giống như nghe lịnh đại xá, Nguyễn Văn Linh, Đổ Mười và Phạm Văn Đồng đă vội vàng đưa nhau sang Thành Đô triều kiến. Tại khách sạn Kim Ngưu, thủ phủ Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, lúc 2 giờ chiều ngày 4 tháng 9 năm 1990, các lănh đạo CSVN và Trung Quốc đă kư kết thỏa hiệp tái lập quan hệ giữa hai đảng CS.
Hơn hai mươi năm qua, nội dung của thỏa hiệp Thành Đô được hai bên giữ bí mật. Phía Trung Quốc dĩ nhiên không dại ǵ công bố và phía lănh đạo CSVN không thể công bố, đơn giản bởi v́ đó là thỏa hiệp mang nội dung bán nước. Nếu các điều khoản trong thỏa hiệp nhấn mạnh đến việc tái lập bang giao trên cơ sở b́nh đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lănh thổ, hợp tác cùng có lợi giống như phần lớn các thỏa hiệp quốc tế giữa các nước có chủ quyền, lănh đạo CSVN đă tổ chức đại lễ công khai hóa lâu rồi. Tuy nhiên, dù giữ kín tới đâu, nội dung chính không phải là khó đoán: CSVN nh́n nhận chủ quyền của Trung Quốc trên biển Đông để đổi lấy sự tồn tại của đảng CSVN trong ṿng ảnh hưởng kinh tế, chính trị và tư tưởng của CS Trung Quốc.
Khi thỏa hiệp bán nước Thành Đô vừa kư kết xong, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ viện Trung Quốc thông qua “Luật Lănh hải và vùng tiếp giáp” quy định lănh hải rộng 12 hải lư, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Ba tháng sau đó, Trung Quốc kư hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng lượng Crestone, cho phép công ty này thăm ḍ khai thác dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng vơ lực. Ngoài các Trung Quốc c̣n ngang ngược ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành chánh cấp huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Tất cả diễn biến trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc từ 1990 đến nay cho thấy thỏa hiệp Thành Đô, về ư nghĩa, cũng tương tự như ḥa ước Giáp Thân hay c̣n gọi ḥa ước Patenôtre được kư giữa đại thần nhà Nguyễn Phạm Thận Duật và đại diện Pháp Jules Patenôtre chia đất nước Việt Nam thành ba mảnh và đặt quyền bảo hộ Việt Nam vào ngày 6 tháng 6 năm 1884 tại Huế. Việt Nam thực chất là một chư hầu của Trung Quốc và vị trí của nhà nước CSVN cũng không hơn ǵ vị trí của triều đ́nh nhà Nguyễn sau ḥa ước Patenôtre.
Thỏa hiệp Thành Đô là một chiến thắng lớn của Trung Quốc. Giang Trạch Dân vui vẻ tặng phái đoàn CSVN hai câu thơ của Lỗ Tấn “Sau kiếp nạn anh em c̣n đó, Trông nhau cười, thù oán sạch không”. “Anh em c̣n đó” tức chú em vong ơn, phản trắc CSVN đă biết phục thiện trở về trong ṿng kim cô Trung Quốc.
Sỡ dĩ Trung Quốc chưa chiếm trọn quần đảo Trường Sa v́ tranh chấp chủ quyền Trường Sa liên quan đến nhiều quốc gia không phải chỉ riêng với Việt Nam và ngoài ra, các môi quan hệ kinh tế chính trị vô cùng phức tạp trong thời đại toàn cầu hóa, việc sử dụng các biện pháp quân sự mạnh không phải là quyết định dễ dàng. Trung Quốc sau ba mươi năm phát triển nhưng vẫn chưa đủ mạnh bên ngoài và rất yếu bên trong. Mặc dù tuyên bố hung hăng, quá khích, phô trương tàu chiến, gây hấn qua vài hành động quân sự nhỏ có tính cục bộ để giữ ǵn sự đoàn kết nội bộ, Trung Quốc cần ổn định hơn bất cứ quốc gia nào khác trong vùng và luôn tránh né việc quốc tế hóa các tranh chấp quốc tế.
Nhiều người có thể phản biện lư luận này khi cho rằng Việt Nam vẫn phản đối Trung Quốc và tuyên bố chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vâng, nhưng xin đừng quên quyền được phản đối giới hạn cũng có thể là một điều khoản của thỏa ước Thành Đô. Nếu ai thắc mắc hăy so sánh lời tuyên bố của các phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao CSVN từ Lê Dũng trước đây đến Lương Thanh Nghị hôm nay sẽ thấy những lời phản đối chỉ khác về ngày tháng, c̣n nội dung đều tương tự như nhau, toàn là những câu phản đối ngoại giao sáo rỗng, lấy lệ, chẳng ai quan tâm và không gây một tác dụng ǵ. Dưới chế độ CS, việc phản đối, ủng hộ, hoan hô, đả đảo chỉ là một h́nh thức tuyên truyền và không phản ảnh chính sách bên trong của đảng. Trong buổi hội kiến giữa Mao Trạch Đông và Tổng thống Mỹ Richard Nixon ngày 21 tháng 2 năm 1972, họ Mao nhắc chừng cho tổng thống Mỹ biết quan hệ hai quốc gia đă cải thiện tốt đẹp và đang tiến đến việc b́nh thường hóa nhưng đừng lấy làm lạ khi Trung Quốc vẫn sẽ tiếp tục công kích Mỹ.
Cựu Ngoại trưởng Mỹ bà Madeline Albright có câu nói rất hay “Lịch sử chưa bao giờ lập lại một cách chính xác nhưng chúng ta phải gánh lấy tai họa nếu không học từ lịch sử.” Với chính sách bao vây Trung Quốc của Mỹ hiện nay và với nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhưng không lối thoát cho bộ máy chính trị độc tài toàn trị đang được chạy bằng nhiên liệu Đại Hán cực đoan, chiến tranh sẽ khó tránh khỏi dù các bên có muốn hay không. Việt Nam, quốc gia vùng trái độn giữa hai quyền lực thế giới, chưa bao giờ đứng trước một chọn lựa sinh tử như hôm nay. Một người có trách nhiệm với tương lai đất nước, dù cá nhân mang một thiên kiến chính trị nào, cũng phải biết thức tỉnh, đặt quyền lợi dân tộc lên trên, chọn hướng đi thích hợp với đà tiến văn minh dân chủ của thời đại, chấm dứt việc cấy vào nhận thức của tuổi trẻ một tinh thần bạc nhược, đầu hàng. Lịch sử không thể viết lại nhưng cơ hội luôn c̣n đó cho những ai thành tâm quay đầu về với tổ tiên.
Trần Trung Đạo
|
|
|
|
|