(Viết cái note này trên chuyến bay từ Liên Khương về lại Sài Gòn. Chuyến bay ngắn quá không kịp viết cho xong. Viết tiếp phần còn lại từ Tokyo về Chicago.)
Đỗ Trung Quân, người ba mươi năm sau có mặt trong friend-list của tôi, có làm một bài thơ, mà theo lời anh kể tôi nghe, một buổi chiều lang thang ở một vỉa hè nào đó ở Sài Gòn lâu rồi, là để tặng sinh nhật con của một người bạn. Bài thơ này được biết đến qua một bài hát cùng tên. Nhưng nhắc đến Quê Hương người ta chỉ biết đến Đỗ Trung Quân chứ không mấy ai nhớ tên người phổ nhạc. Đây là một hiện tượng bất thường nhưng dễ hiểu; Quê Hương là một bài thơ.
Có nhiều bài hát rất hay khác về quê hương, như Nguyệt Cầm hay Tình Hoài Hương chẳng hạn. Nhưng Quê Hương vẫn là bài hát được nhiều người biết đến, được nhiều người hát, ít nhất là ở thế hệ của tôi. Phần lyric của bài hát này mang tính ký ức; chùm khế, đường đi học, bướm vàng, con diều, con đò, cầu tre,… Trong tâm thức của phần lớn những người yêu nó, đây là một thứ ký ức ảo; không bao nhiều người lớn lên đã từng biết đến cây khế, cầu tre. Đám trẻ con lớn lên ở vùng đất Sơn Mỹ (Hàm Tân) khi nghêu ngao “quê hương là con đò nhỏ, êm đêm khua nước ven sông” tuy vẫn cảm nhận được sự êm ái vỗ về của ký ức ngọt ngào nhưng chắc chắn chúng chưa bao giờ thấy một con đò. Xứ đó không có sông.
Từ lúc nào đó, ký ức, ảo nhiều hơn thật, được dùng để nuôi dưỡng ý niệm quê hương.
Nhưng cũng có một loại ý niệm quê hương khác, không ký ức. Tôi phát hiện ra điều này sáng nay.
Đà Lạt đối với tôi là một xứ sở xa lạ. Tôi đến đó bốn lần, trước sau chưa đầy một tuần. Lần đến sau không thấy thân quen gì hơn những lần đến trước. Sáng nay lang thang một mình bên hồ Xuân Hương lúc mới sớm, tôi chợt hiểu ra cái lý do mình đã chọn đến xứ này hai mươi lăm năm trước. Lúc đó tôi không biết gì về nó. (Lúc này tôi cũng chẳng biết gì nhiều hơn về nó.) Đà Lạt chỉ là một cái tên mời gọi có tính mơ hoang không ký ức. Thế là tôi quyết định đi thi đại học ở Đà Lạt thay vì cùng đám bạn bè lên Sài Gòn. Chiều hôm đó trời âm u, tôi nhớ, chuyến xe từ Sài Gòn lên Đà Lạt qua khỏi đèo Pren đã quá nửa chiều. Có ai đó ngồi ở ghế sau thốt lên, đến Đà Lạt rồi. Tôi quay lại, Đà Lạt phía ngoài cửa xe là những cánh rừng thông đẫm sương mù, kéo dài đến chân những ngọn núi xa. Hơi lạnh bên ngoài tràn vào. Cái xứ sở xa lạ này đã ở lại trong lòng tôi từ lúc đó.

Hồ Xuân Hương (Đà Lạt)
Nguồn: OntheNet
Không thể lý giải được những lựa chọn đầu đời. Như một thứ tình yêu vậy, cái đầu đời ở lại rất lâu. Sau này cứ mỗi lần về Việt Nam tôi thường lên Đà Lạt. Không có lý do gì cả. Đương nhiên là ghé thăm bạn bè, (đi café Cung Tơ Chiều của cô chủ Xuân Giang, bạn một người bạn cũ đã mất, tên Linh. Giang hát “Phố Núi Chiều Mưa” của Linh rất hay), nhưng nếu chỉ để ghé thăm bạn bè thì chắc đã không đi.
Tôi không có quê, hiểu theo cái nghĩa mà người Việt Nam thường hiểu khi trả lời “quê ở đâu”. Mỗi lần có ai hỏi thế, tôi nói đại Quảng Trị, nếu người hỏi là người Việt Nam (mà người Việt Nam rất ưa hỏi câu này), hay Pittsburgh nếu người hỏi là bạn bè bản xứ (where is your hometown?). Quảng Trị là tôi nói theo quê cha ở Cam Lộ. Nếu nói theo quê mẹ ở Phú Bài cũng chẳng sai. Cả hai không đọng lại trong tôi cái gì na ná như những ký ức quê hương của Đỗ Trung Quân; tôi theo mẹ vào nam từ lúc nhỏ. Thỉnh thoảng tôi cũng nói quê ở Hàm Tân, nơi tôi lớn lên (mà hơn mười năm nay chưa về lại dù nó chỉ cách Sài Gòn vài giờ đi xe).
Sự gắn bó của tôi đối với Việt Nam rõ ràng không mang tính ký ức. Thỉnh thoảng lúc trà dư tửu hậu với bạn cũ tôi cũng nhắc lại đôi ba kỷ niệm nơi mình lớn lên. Nhưng cũng chỉ là nhắc lại a dua cực chẳng đã thế thôi. Sự rung động quê hương kiểu Đỗ Trung Quân không còn ở đó nữa. Nói cho công bằng với chính mình, tôi không còn ký ức về một nơi chốn cụ thể nào đó ở Việt Nam.
Tôi không phải là người theo chủ nghĩa dân tộc (nationalism). Những lý giải siêu hình về một cội nguồn dân tộc nào đó gắn kết cá nhân với cộng đồng không lý giải được sự gắn bó của tôi đối với cái đất nước nơi tôi đã sinh ra. Không có khái niệm đất nước sinh ra tôi. Tôi có viết đâu đó (dịch lại một đoạn của Milton Friedman), là một người tự do, đất nước đối với tôi chỉ là một tập hợp những cá nhân đã tạo nên nó mà không phải một thực thể nào ở trên họ. Sự gắn bó của tôi đối với Việt Nam chỉ là sự gắn bó đối với những con người cụ thể (tuyệt đại đa số tôi không quen) đã tạo nên nó chứ không là sự gắn bó đối với cái gì trên họ (các ý niệm có tính thời trang như “tinh thần dân tộc” chẳng hạn).
Đó là sự gắn bó có tính căn cước; tôi lựa chọn tồn tại trong không gian hiện sinh của họ. (Tôi có thể lựa chọn tồn tại ngoài không gian hiện sinh này – nhiều người đã lựa chọn như thế – nhưng đó là một giả định khác cho một khả năng khác.) Không gian hiện sinh này, với ngôn ngữ, ký ức, ý chí, và thân phận từng cá nhân của nó, xác định một phần tôi là ai. Với sự lựa chọn đó, tôi chia sẻ ký ức, ý chí, và thân phận mình với nó.
Sự tỉnh lặng và thanh thản của một buổi sáng sớm một mình bên hồ Xuân Hương đánh động cái tâm thức tìm về. Tôi đã chọn lên Đà Lạt lần đầu tiên trong sự thôi thúc của cái tâm thức tìm về đó để hai mươi lăm năm sau mới nhận ra. Cuộc đời con người là một chuỗi đi tìm, tìm những cái mình có thể tìm thấy mình trong đó.
Tìm một ý niệm quê hương.
Cuối cùng thì có lẽ Đỗ Trung Quân vẫn đúng, “quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”. Tôi không có một quê hương để nhớ nhưng vẫn có một quê hương để tìm về.
Một quê hương không ký ức.
Trần Minh Khôi
Theo: DCV
Bài do tác giả gởi. DCVOnline biên tập và minh hoạ. Bài đăng trên trang Facebook của tác giả