Những tờ giấy màu trắng thường được gọi chung Fabric Softener dùng bỏ vào máy sấy để cho quần áo thơm tho, mềm mại hơn và không bị dính nhau lại, còn có nhiều công dụng khác nữa. Sau đây là những kinh nghiệm mà nhiều phụ nữ đã chia sẻ để chúng ta biết sử dụng Fabric Softener cho nhiều mục đích khác nhau :
1. Khi bạn đặt một miếng Fabric Softener ở gần nơi có kiến, chúng sẽ chạy đi hết.
2. Tránh được mùi hôi mốc bằng cách kẹp một miếng giấy Fabric Softener vào sách hay cuốn album lâu ngày không mở ra.
3. Vào mùa có nhiều muỗi, khi ra ngoài vườn sinh hoạt, bạn có thể đeo nơi thắt lưng một miếng Fabric Softener thì mấy chàng muỗi sẽ không thèm lại gần.
4. Dùng miếng Fabric Softener để lau những vết xà bông đóng ở cửa kính của bồn tắm.
5. Làm cho đồ ṿật hay áo quần thơm tho và tươi mát bằng cách đặt một tấm Fabric Softener trong mỗi hộc tủ hay treo trong closet.
6. Ðể tránh chỉ bị rối hãy dùng miếng Fabric Softener vuốt sợi chỉ đã xâu vào kim trước khi may.
7. Nếu không muốn vali đựng quần áo bị ẩm, hãy đặt một miếng Fabric Softener dưới đáy trước khi xếp hành lý mang theo.
8. Làm cho không khí trong xe hơi trong lành bằng cách đặt một miếng Fabric Softener dưới ghế ngồi.
9. Muốn rửa sạch những thức ăn dính chặt bên trong xoong nồi thì hãy đặt một miếng Fabric Softener vào trong xoong rồi ngâm nước qua đêm.
Hôm sau mới dùng miếng sponge để chùi rửa. Chất dùng để chống lại sự dính nhau (static) có trong Fabric Softener sẽ làm cho đồ ăn rớt ra khỏi xoong nồi dễ dàng hơn.
10. Ðặt một miếng giấy Fabric Softener dưới đáy của mỗi thùng rác để tránh mùi hôi.
11. Dùng miếng Fabric Softener để lau những nơi có dính lông chó hay mèo, nó sẽ lấy đi những lông rụng đó một cách sạch sẽ.
12. Dưới mỗi giỏ đựng quần áo dơ, bao giờ cũng đặt một miếng Fabric Softener để khỏi có mùa hôi.
13. Làm cho giày không có mùi hôi bằng cách đặt miếng Fabric Softener trong đó qua đêm. Ngày mai, đôi giày sẽ thơm tho để mang đi làm hay đi học.
14. Dùng Fabric Softener để lau mặt kính máy TV sẽ làm cho bụi bặm bớt đóng lớp trên đó.
6. Cách chữa trị tuyệt vời được nêu trong bài viết đã từng được thử nghiệm trên con người chưa? Hay mới chỉ trong ống nghiệm, hay trên chuột trong phòng thí nghiệm? Nếu chưa được thử nghiệm trên người thì cách chữa trị đó có thể vẫn rất thú vị về mặt khoa học và hứa hẹn sẽ đem lại kết quả đáng mừng, nhưng vào lúc này thì vẫn còn quá sớm để biết liệu có hiệu quả gì khi áp dụng cho con người hay không.
7. Mạng internet có thể giúp bạn tiết kiệm được rất nhiều thời gian. Hãy tìm hiểu trên trang mạng chuyên bình luận về việc đưa tin trên truyền thông, như Health News Review, và bạn sẽ nhận ra là họ đã làm giúp bạn rất nhiều trong việc kiểm tra độ tin cậy của thông tin được nêu trong bài báo mà bạn quan tâm.
8. Nếu không, hãy tìm kiếm tên của phóng viên viết bài để xem họ thường viết về chủ đề gì. Nếu họ thường viết về khoa học hay y tế thì nhiều khả năng họ biết cần đặt ra những câu hỏi gì liên quan tới biện pháp chữa trị mới.
9. Hãy tìm kiếm trên mạng bằng các thông tin nêu trong câu chuyện, và kèm thêm chữ "myth" (hoang đường) hoặc "hoax" (tin vịt). Có thể bạn sẽ thấy là chủ đề này đã được chỉ trích, đề cập tới ở đâu đó rồi.
10. Và cuối cùng, một khi bạn xác định được là câu chuyện về sức khỏe đó không phải là tin giả, đã được công bố trên một tạp chí y khoa có uy tín, thì bạn vẫn nên kiểm tra phương pháp tiến hành cuộc nghiên cứu. Trang Behind the Headlines thuộc Cơ quan Y tế Anh quốc (NHS) xem xét chi tiết các nghiên cứu, thảo luận về cách thức các nghiên cứu đã được thực hiện, và về việc liệu các kết quả thu được có được tường thuật một cách chính xác hay không.
Làm Người, Ngốc Một Chút Mới Là Hạnh Phúc, Thông Minh Quá Chỉ Mệt Mỏi Thân Mình
Làm người, khờ khạo một chút sẽ hạnh phúc, sống quá thông minh sẽ mệt mỏi. Nghĩ quá nhiều, tâm trạng dễ phiền muộn; quan tâm quá nhiều, dễ mẫn cảm đa nghi; bận tâm quá nhiều, dễ nghĩ đến được mất.
Làm người, ngốc nghếch một chút, thì có thể thản nhiên đối đãi sự tình. Có câu rằng: “Kẻ ngốc có phúc của kẻ ngốc”, khờ khạo một chút, cũng không phải thể hiện rằng chỉ số thông minh thấp, hoặc là người chậm hiểu, mà là đối với nhân sinh có một phần thấu hiểu, một phần thản nhiên.
Cơ hội tới, thì gắng sức tranh thủ làm cho thật tốt. Đối với những thứ không thể đạt được, thì có thể mỉm cười bỏ qua; tình cảm không thể với tới được, thì cũng có thể buông bỏ nhẹ nhàng.
Những người ngốc nghếch như vậy, lòng dạ sẽ càng rộng rãi, cũng dễ dàng thỏa mãn, tâm tình khoái hoạt. Làm người, ngốc nghếch một chút, không đi so đo thì cuộc sống càng tự tại.
Làm người, ngốc nghếch một chút thực ra vẫn tốt hơn, quá tính toán sẽ mệt chính mình
Với người tham món lợi nhỏ, kẻ ‘ngốc’ cũng không ngại mà nhượng lại họ vài phần.
Với người ham sĩ diện bề ngoài, cũng không ngại mà khen ngợi họ vài câu.
Với những người thích a dua nịnh hót, thì yên lặng rời xa, không để ý tới nữa.
Không phải là nhìn không thấu, mà là không nói ra.
Không phải không cảm thấy tổn thương, mà là mặc kệ.
Kẻ ngốc nghếch, thông thường lại có thể hiểu được bao dung và cảm ân.
Làm người, ngốc một chút, sẽ không bao giờ thiệt thòi
Hạnh phúc kỳ thực rất đơn giản, chỉ cần hiểu được khi nào nên tiến, nên thoái.
Có những người nhìn không thuận mắt, thì không để ý tới nữa.
Có chút lý lẽ nói không rõ ràng, thì thôi không giải thích nữa.
Có chút tư tưởng nghĩ không thông, thì thôi không cần vướng bận.
Không tranh giành là một loại trí tuệ, cũng là một loại từ bi, buông tha chính mình, cũng buông tha người khác. Làm người, ngốc một chút, kỳ thực cũng không có chút gì là thiệt thòi.
Không yêu cầu quá nhiều đối với thân nhân, thì gia đình sẽ hòa thuận.
Không tranh chấp quá nhiều với người yêu, thì tình cảm mới bền lâu hạnh phúc.
Không cùng bạn bè tính toán chi li, thì tình bạn càng thêm vững chắc.
Làm người ngốc một chút, học cách khiến cuộc sống của mình trở nên vui vẻ, không nóng vội mưu cầu, không so đo quá nhiều.
Xưa nay có bao nhiêu người thông minh quá lại bị thông minh hại? Từ nay trở đi, làm một người khờ khạo, không để những sự tình thế tục làm phiền lòng, như vậy mới có thể bình thản giữa cuộc đời, mới đạt được cảnh giới thong dong tự tại.
The story is told of a woman who bought a parrot to keep her company, but she returned it the next day.
“This bird doesn't talk,” she told the owner.
”Does he have a mirror in his cage?”he asked. “Parrots love mirrors. They see their reflection and start conversation
The woman bought a mirror and left. The next day she returned; the bird still wasn't talking.
"How about a ladder? Parrots love ladders. The happy parrot is a talkative parrot
The woman bought a ladder and left. But the next day, she was back.
“Does your parrot have a swing? No? Well, that’s the problem. Once he starts swinging, he’ll talk up a storm
The woman reluctantly bought a swing and left.
When she walked into the store the next day, her countenance had changed.
“The parrot died,” she said.
The pet store owner was shocked.
“I’m so sorry. Tell me, did he ever say anything?” he asked.
“Yes, right before it died,” the woman replied.
“In a weak voice, it asked me, ‘Don’t they sell any food at that pet store?’"
Sometimes we forget what’s really important in life. We get so caught up in things that are good while neglecting the things that are truly necessary.
Take a moment to do a “priority check”, and strive for what is most important today.
[Fun Funky]
at 8:22 PM
No comments:
Post a Comment
Newer Post Older Post Home
Subscribe to: Post Comments (Atom)
Người Phương Nam
Người Phương Nam
Blog Archive
► 2019 (1586)
► 2018 (1685)
▼ 2017 (1773) ► December (151)
► November (137)
► October (153)
► September (154)
► August (148)
► July (148)
▼ June (143) Mười Điều Người Nóng Tính Cần Khắc Cốt Ghi...
Có Chăng Món Ăn Kích Dục - BS Nguyễn Ý Đức
Tháng Sáu Giã Từ - Đỗ Công Luận
Nếu, Lại Là Nếu… - HạTrắng (Danlambao)
Gửi Nhớ Xa Xôi - Trầm Vân
Rốt Cuộc Điều Gì Là Của Ta?
Tâm Thành Phước Nguyện - Đỗ Công Luận
Cách Trị Kính Xe Bị Mờ Do Mưa Và Sương Mù
Vần Thơ Nhớ Người - Trầm Vân
Tại Sao Lại Bị Ung Thư? BS Hồ Ngọc Minh
Mười Hai Câu Châm Ngôn Thâm Thúy Của Người Nh...
Đặc Sản Sóc Trăng Hút Hồn Lữ Khách
Một Ngày Không Net Buồn Thay - Đỗ Công Luận
Tha Phương Cầu Thực - Tạp Ghi Huy Phương
Phượng Đỏ Hoe Mắt Sầu - Trầm Vân
Những Gì Đáng Sợ Hơn Cái Chết? - Vũ Thạch
Xóa Bụi Thời Gian - Đỗ Công Luận
Thư Ba Viết Cho Con - Nguyễn Thị Thêm
Trăng - Nguyễn thị Thêm
Great Invention For Seniors
Máy Bay Được Mệnh Danh " Căn Hộ Penthouse Trên Khô...
Lẽ Đời
Con Đường Xưa Vẫn Phải Đi…Đặng Chí Hùng
Mừng Đón Lễ Cha Về - TTB
Làm Sao Phát Hiện 'Tin Vịt' Dạy Cách Chữa Bệnh - C...
Mơ - Trầm Vân
8 Nỗi Khổ Lớn Nhất Của Đời Người
Tự Ta Yêu Lấy Ta Thôi - Đỗ Công Luận
Hình Ảnh Hai Vị Tổng Thống - Phạm Đình Lân
Tên Lửa Tomahawk Ma Dzê In Viêt Nam !
Megafood On The Biggest Cruise Ship
Áo Trắng Học Trò - Trầm Vân
Núm Ruột Nghĩa Tình - Ngọc Ánh
Chuyện Thiên Hạ - Quang Minh - Hồng ̣Đào
Chiếc Xe Lam Kỷ Niệm - Nguyễn Thị Thêm
Ai cũng hiểu sinh, lão, bệnh, tử sẽ đến trọn một kiếp người. Làm thế nào để có thể thản đãng đón nhận, sống mà bình yên thuận theo quy luật nhân-quả? (Ảnh: Liễu Minh/ Đại Kỷ Nguyên)
Đời người, niềm vui và nỗi buồn luôn luôn song hành tồn tại, ai cũng phải trải qua, không có ai là ngoại lệ. Vậy đâu là những nỗi khổ lớn của đời người?
1. Nỗi khổ thứ nhất của đời người: Sinh
Nhà Phật cho rằng thế giới thực tại là khổ. Chúng ta sinh sống trên thế gian, bản thân là khổ. Sống sống chết chết không biết lúc nào kết thúc? Thống khổ nguyên ở bản thân chúng ta. Cho nên, con người khi hạ sinh, lần đầu tiên cất tiếng chính là tiếng khóc.
2. Nỗi khổ thứ hai của đời người: Lão
Tuổi thanh xuân của mỗi người đều nhanh chóng trôi qua và biến mất, ẩn sâu vào những vết nhăn hằn trên cơ thể. Đồng thời tồn tại với sự sống là cái chết. Bản thể của mỗi người cũng đều trải qua quá trình sinh ra và chết đi. So với ngày hôm qua, ngày hôm sau ai cũng đều phải già đi cho dù chúng ta không nhìn rõ được sự lão hóa này bằng mắt thường. Người bình thường không cách nào có thể khống chế và làm thay đổi được quá trình này. Cho nên, mỗi khi nhìn lại, phát hiện ra mình đã già đi thì trong tâm sẽ phảng phất nỗi buồn.
Sen cũng có sinh, lão, bệnh, tử giống như đời người. Nên búp, nở thành bông, rụng cánh kết đài, rồi sinh hạt. (Ảnh: Sưu tầm)
3. Nỗi khổ thứ ba của đời người: Bệnh
Bên nhà Phật có câu rằng, trời không đo được gió và mây, người sớm tối có họa phúc, không thể dự liệu. Bệnh tật là nỗi khổ của đời người, ai ai cũng sẽ phải trải qua. Cho dù là ngày hôm nay khỏe mạnh, nhanh nhẹn nhưng ngày mai cũng khó có thể biết trước được.
4. Nỗi khổ thứ tư của đời người: Tử
Phật gia cho rằng, chết là không đáng sợ như con người vẫn tưởng tượng. Bởi vì họ cho rằng, cái chết là khởi đầu của một sinh mạng mới. Luân hồi là để một sinh mệnh mới được ra đời. Nhưng sự lưu luyến, không muốn rời xa lúc con người chết đi chính là nỗi khổ.
5. Nỗi khổ thứ năm của đời người: Yêu thương phải chia lìa
Con người yêu thương nhau là truy cầu sự dung hợp. Yêu Thượng Đế là theo đuổi sự thống nhất hòa hợp về tinh thần. Nhưng tình yêu thương vốn cũng bao hàm sự thống khổ. Chính là bởi vì con người một khi yêu thương thì sẽ khó chấp nhận sự chia cách, chia ly. Cho nên, từ xa xưa người ta đã phải thốt lên rằng: “Hỏi thế gian tình là chi, mà khiến cho người ta phải thề nguyền sống chết?”
6. Nỗi khổ thứ sáu của đời người: Oán hận lâu dài
Con người ai cũng sống trong yêu thương, ân oán, nhưng lại không mấy ai hiểu được rằng, oán hận người bao nhiêu thì bản thân sẽ tổn thương bấy nhiêu. Càng yêu thương thì người ta càng oán hận, cho nên chính ham mê và tư dục là nguyên nhân của oán hận.
7. Nỗi khổ thứ bảy của đời người: Cầu mà không được
Bên Phật gia cho rằng, dục vọng của con người giống như một sợi dây cao su kéo căng. Một khi tìm không được điều mình đang truy cầu thì sẽ bật ngược trở lại bắn vào làm tổn thương mình, từ đó mà thống khổ. Càng truy cầu nhiều thì người ta càng thống khổ bởi vì những thứ con người truy cầu là vô cùng nhiều nhưng những thứ mà con người đạt được là phải dựa vào phúc báo của bản thân mới có được.
Một khi truy cầu không được, người ta dám làm nhiều việc xấu để đạt được và họ càng bị tổn thương, họ càng rơi vào thống khổ.
Nước sâu chảy không một tiếng động, nước nông, nước cạn sẽ chảy róc rách. Người nông cạn, khoa trương sẽ giống như nước cạn vậy. Còn người có đủ tĩnh khí, khiêm nhường, biết mình sẽ giống như một nguồn nước sâu. Bạn muốn mình là nguồn nước sâu hay là một dòng nước cạn?
Walter Raleigh (1552 – 29 .10. 1618) là nhà chính trị, nhà sử học, nhà thơ nổi tiếng của Anh thời kỳ văn hóa phục hưng từng sáng tác một bài thơ về tình yêu. Trong đó ông đem tình cảm mãnh liệt ví như dòng nước chảy.
Ông viết: “Nước cạn chảy róc rách mà nước sâu lại chảy không phát ra một tiếng động. Một người nếu luôn nói lời đường mật thì trong lòng sẽ là “hư tình giả ý”!”
Kỳ thực, trong cuộc sống, sự thành thật và lương thiện cũng giống như nước chảy vậy, cũng không cần phải tận lực khoa trương, ca ngợi. Con người chỉ có tâm thái bình tĩnh và tường hòa mới có thể đạt được cảnh giới tư tưởng cao thượng.
Ở một ngôi làng nọ, có hai cha con người đàn ông trung niên sống cùng nhau. Một hôm trời đẹp, người cha rủ con trai đi vào rừng dạo chơi. Cậu con trai vô cùng cao hứng đi cùng bố. Hai cha con đi đến đoạn đường uốn lượn thì dừng lại.
Trong một phút trầm lặng ngắn ngủi, người cha hỏi con: “Con trai! Ngoài tiếng chim đang hót ra, con còn nghe được thấy tiếng gì khác không?”
Cậu bé sau một hồi lắng nghe liền trả lời cha: “Cha ơi, con còn nghe được cả tiếng xe ngựa nữa ạ!”
Người cha lại hỏi tiếp: “Đúng rồi! Đó là một chiếc xe ngựa trống, không chở gì cả.”
Cậu con trai ngạc nhiên hỏi lại: “Chúng ta con chưa nhìn thấy nó, sao cha lại biết đó là chiếc xe ngựa trống rỗng?”
Người cha đáp: “Từ âm thanh con có thể dễ dàng nhận ra đó là một chiếc xe trống không. Xe ngựa càng trống rỗng, thì âm thanh sẽ càng to.”
Về sau này, cậu con trai trưởng thành, là một người thông minh, giỏi giang và thành đạt. Mỗi lần cậu chứng kiến một ai đó dùng lời lẽ ba hoa, lỗ mãng để nói chuyện, tự cho là mình đúng, tự cao tự đại, hạ thấp người khác thì cậu đều nhớ đến lời nói của cha vẫn như đang văng vẳng bên tai mình: “Xe ngựa càng trống rỗng thì âm thanh sẽ càng to.”
Những người đã từng qua sông cũng biết rằng, trước khi qua sông, người ta thường lấy một hòn đá ném nó xuống nước để phỏng đoán độ sâu của con sông. Bọt nước bắn lên càng cao thì chứng tỏ nước sông càng cạn, càng nông. Trái lại, nơi nào không có bọt nước bắn lên, không nghe thấy âm thanh lớn thì chứng tỏ chỗ ấy nước càng sâu, thậm chí sâu không thể đo được…
Nước càng sâu, chảy càng không có tiếng động. Xe ngựa càng trống rỗng thì tiếng động càng lớn. Làm người cũng nên như vậy!
Người có thể dùng tâm thái bình tĩnh, “bình tâm tĩnh khí” để nói chuyện với người khác thì sẽ trách được việc khắc khẩu, cãi vã giữa đôi bên. Người như vậy cũng sẽ càng học được cách lắng nghe người khác, mà lại không cường điệu, khoa trương chính mình!
Toàn Bộ Lãnh Thổ Việt Nam Đã An Bài Trong Tay TQ - Phan Châu Thành (Danlambao)
Tôi có ông bạn học hiện làm cấp tướng trong hải quân VN, trong một buổi nhậu bạn bè với nhau cách đây gần năm ở HN, tôi hỏi hắn:
“Nếu bây giờ TQ tấn công trên biển, quân của cậu chống được bao lâu?” Hắn cười: “Chắc là chưa đến ba ngày?!”
Tôi ngạc nhiên: “Sao chết nhanh vậy?” Hắn lại cười: “Không phải chết, mà là chạy. Thời đại này ai dại gì chết cho ai?!”
“Đấy là cậu nói về lính hay sĩ quan các cậu?”
“Cả hai, nhưng sĩ quan chạy trước rồi lính mới chạy. Lính không dám chạy trước, chỉ trốn thôi. Sĩ quan mới chạy!”
Tôi thắc mắc: “Tại sao thế? Sĩ quan tinh thần cao hơn và phải làm gương cho lính cơ mà?”
“Ừ, nhưng sĩ quan lại biết mình toàn nói dối và thấy cấp trên cũng toàn nói dối, và ai cũng biết chết thì mình chịu, thắng thì là chiến công của sếp, tội gì chết thế!”
Chúng tôi cười xòa, coi đó là câu chuyện cười nói cho vui, vì ông bạn trong Bộ tổng tư lệnh ở HN, nó đâu có phải ra trận. Nhưng nó cũng không cần phải mua vui với tôi, nó nói có phần nhiều là thật. Thế nên tôi không quên được.
Một bữa khác cách nay khoảng nửa năm, trong chuyến xe đêm từ Sài gòn đi Nha Trang, tôi nằm cạnh anh lính trẻ trả phép ra Cam Ranh. Tôi hỏi chuyện ăn ở sinh hoạt của lính nghĩa vụ ngoài đó, cậu thật thà:
“Cháu mới đi mấy tháng, nhờ có người quen chạy cho nên không phải đi vùng xa hay đảo, chỉ ra Cam Ranh thôi, được về phép đều đặn, nếu biết quà cáp cho sĩ quan còn được kéo dài phép…”
“Thế sĩ quan có về phép thường xuyên không?”
“Sĩ quan của bọn cháu toàn sĩ quan chuyên nghiệp, gia đình họ ở Cam Ranh và Nha Trang luôn, họ đâu cần về phép, và họ có thể về nhà bất cứ lúc nào họ muốn, họ sướng lắm!”
Thế họ có ăn chung với các cháu không?”
“Không, họ có tiêu chuẩn riêng cao gấp mấy lần lính bọn cháu! Họ ăn ở riêng.”
“Thế tiêu chuẩn lính bọn cháu thế nào?”
“Chúng cháu được 35 ngàn đồng ngày. Thế là cao đấy chú ạ, vì chúng cháu gần Ban chỉ huy Vùng. Mấy thằng bạn cháu đóng quân ở xa kêu khổ lắm, chỉ có 28 ngàn đồng ngày thôi…”
“Sao lại 28 ngàn thôi?!” Tôi xót xa nhẩm tính: lính của mình (công nhân và kỹ sư của tôi) ở công trường cảng Vân Phong này được ăn 80 nghìn đồng/ngày mấy năm nay, vừa tăng lên 100 nghìn ngày do giá cả lên, mà tôi vẫn thương chúng khổ, gầy và đen, bắt chúng cố ăn, và lo chúng bỏ về Sài gòn, thế mà chiến sĩ của ta…
Tôi lại đi lạc đề muốn nói rồi. Ý của tôi là, chỉ chuyện ăn ở thôi thì lính của ta cũng thiếu sức chiến đấu rồi, chưa nói đến tinh thần chiến đấu và niềm tin vào cấp trên.
Giờ nói về chủ đề chính, đó là bảo vệ lãnh thổ. Xin kể câu chuyện thứ ba. Cách đây mấy tháng, chúng tôi tổ chức một đoàn “du lịch- thám hiểm” ra điểm Cực Đông trên đất liền của đất nước với mục đích: sống 1 ngày gần với Hoàng Sa Trường sa nhất (về kinh tuyến).
Trên đường ra đó rất khó khăn, chúng tôi không ngờ cả một khu bán đảo rộng lớn bờ biển dài mấy chục cây số không có dân cư (đã bị đuổi đi hết) và chỉ có một đồn biên phòng gần ra đến Cực Đông đã bị bỏ hoang do chuyển vào gần quốc lộ 1 hơn, trong khi đường lớn do các “dự án lớn” của Vinalines làm đến nới cũng bỏ hoang không bóng người. Hỏi ra mới biết đó là tình trạng của hàng loạt đồn biên phòng ven biển và trên các đảo khu vực bắc và nam Vân Phong (thuộc Khánh Hòa và Tuy hòa): họ đã rút hết vào sống trong dân và để quản dân, không quản bở biển nữa. Hàng trăm cây số ven biển không có ai canh giữ, nhưng đã có sẵn đường lớn nhập vào quốc lộ 1… Ngày xưa họ ở đó là để bắt người vượt biên thôi… Biên phòng VN không quay súng ra biển mà quay súng vào dân!
Câu chuyện thứ tư. Đơn vị chúng tôi tham gia rất nhiều công trình lớn dọc biển miền Trung, lắp ráp các thiết bị kỹ thuật hiện đại (rất ít khi là đồ TQ). Từ Dung Quất đến Vũng Áng, Vân Phong… Nhưng ở đâu chúng tôi cũng thấy các đơn vị TQ đấu thầu và thắng thầu thi công phần các cầu cảng. Họ chỉ quan tâm và bỏ mọi giá để nhận phần việc đó dù rất nhiều đơn vị VN làm được, nhưng các nhà thầu VN phải lè lưỡi bỏ ra cho họ vì giá của họ quá thấp… Sau đó họ luôn quây kín cả một vùng biển và bờ biển lớn người khác không được vào để họ thi công trong suốt nhiêu năm trời. Và họ thường là đơn vị làm kéo dài các dự án lớn nhưng không ai làm gì được. Khui họ thi công xong chúng tôi mới lên lắp thiết bị và không ai biết bên dưới và bên trong những khối bê tông cầu cảng lớn đó có những gì. Chúng tôi thường đùa nhau: ngày đầu tiên TQ đánh VN họ sẽ cho nổ tung tất cả những cầu cảng trị giá vài chục đến vài trăm triệu đôla này (có thể cặp mạn những con tàu lớn đến 150.000-300.000dwt)… hoặc họ sẽ khống chế chúng để làm điểm đổ quân tuyệt vời cho họ, ở Dung Quất, Vân Phong, Vũng Áng và nhiều nơi nữa phía Bắc và Nam, nhất là Kiên Giang cũng sắn sàng…
Câu chuyên thứ năm. Tôi về quê ngoại Quảng Ninh, ra Hạ Long gặp mấy thằng bạn cũ, trong đó có thằng đại gia chuyên san đất lấp biển bán nền, giầu không để đâu hết tiền, luôn khoe có đội xe máy húc ủi đào đông như quân nguyên, đã phá không biết bao đồi núi, lấp biết bao bờ vịnh san hô và sú vẹt để bán trên giấy, từ Quảng yên đến Hải Hà… Gặp nó tôi bảo:
- “Tội phá hoại môi trường Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long của mày phải đem ra bắn!”
- Nó cười khẩy: “Bắn tao hơi khó! Mày phải bắn hết các bí thư và chủ tịch, phó chủ tịch tỉnh và các huyện thị Quảng Ninh này đi đã!” Rồi nó quàng vai người ngồi cạnh: “A, cả thằng này nữa, giám đốc Sở tài nguyên Môi trường mà…” Tôi nhăn mặt nghĩ: Đúng thật, nếu muốn bảo vệ môi trường Vịnh Hạ Long và Bái Tử long mà tôi yêu quí, tôi sẽ phải bắn gần hết các bạn học cũ của mình, vì chúng nó làm quan chức kín cả cái tỉnh quê ngoại của tôi rồi…
Tôi phán tiếp:
“Mày còn một tội lớn nữa! Mày đem xe máy lên Tiên Yên, Ba Chẽ (hai huyện núi biên giới) làm đường từ biên giới xuống cho bọn Ba Tàu sau này tấn công mình lần nữa. Lần trước nó tấn công không có đường xuống, tự vệ dân quan còn cản được. Lần này chỉ mấy giờ là xe nó chạy đến Hạ Long này, lại có cầu bãi chấy rồi, Công chúng mày to quá!”
Thằng đại gia xẹp hẳn xuống lẩm bẩm: “Đéo mẹ bọn Tàu! Chúng nó còn không chịu trả tiền công cho tao nữa! Đau quá!” (Đó là nó chửi mấy công ty Đài loan thuê rừng 50 năm rồi thuế nó làm đương lên “trồng rừng”. Đường làm xong lên các đỉnh núi biên giới, không trả tiền và rừng tất nhiên cũng không…).
Và câu chuyện cuối cùng. Tôi đưa con trai lên Tây Nguyên chơi, mới đây thôi, để nó biết Tây Nguyên là thế nào. Một số đoạn đi qua đường Hồ Chí Minh mới làm lớn mà vô cùng hoang vắng, thằng bé rất ngạc nhiên hỏi: “Bố, sao mình làm đường lớn đẹp dài mà không có người đi thì làm gì vậy?” Tôi thở dài chua chát “Bố chịu!” Chả lẽ nói ra ý nghĩ thật của mình: “Bố sợ rằng người ta làm đường để sau này TQ đánh VN sẽ dễ chiếm và không chế Tây Nguyên và rồi cả đất nước này?”
Sau chuyến đi Tây Nguyên về, tôi đùa với con trai: “Con ơi, hãy học tiếng Anh giỏi để du học rồi ở lại đó luôn, như chị con vậy đó. Bằng không, hãy học tiếng Tàu! Nước mình sắp thay quốc ngữ rồi!”
Vâng, ý của tôi là thế đó. Người Việt nam, chính quyền Việt Nam hiện nay đã chuẩn bị sẵn sàng địa thế và mọi cửa ngõ Lãnh thổ quốc gia để TQ tràn vào dễ dàng nhất. Tinh thần quân đội và sức chiến đấu thì rất bạc nhược rồi, cảnh giác thì… chĩa súng vào dân rồi. Các chiến sĩ Trung Hoa cứ yên tâm mà đến!
Từ San Jose, tôi đón xe đò Hoàng xuôi Nam. Từ hôm cùng với mấy đứa con của Hà bí mật bàn tính chuyện tổ chức buổi lễ sinh nhật thứ 60 cho Hà ở San Diego, tôi rất nôn nóng chuẩn bị cho chuyến đi này. Đây không phải một họp mặt sinh nhật bình thường như những lần trước. Đến đó tôi sẽ gặp lũ đông đủ lũ bạn “quỷ sứ” của trường tiểu học và trung học ngày xưa.
*
Hà là một người chị họ con bà bác, chỉ hơn tôi một tuổi và học cùng lớp nên hai chị em thân nhau hơn bạn. Hai đứa từ giã Hà Nội cùng gia đình di cư vào Nam và cùng định cư tại Tuy Hòa, cùng ở gần nhà nhau trong khu “Bắc Kỳ di cư” từ ngày “tóc còn để chỏm.”
Dù là vai chị nhưng vì xuýt xoát tuổi nhau, lại học cùng lớp nên hai đứa tôi vẫn mày tao. Hà và tôi lúc nào cũng ngồi bàn đầu và sát cạnh nhau vì chúng tôi vừa nhỏ tuổi lại vừa nhỏ con, cùng nổi tiếng là “cây gạo”. Chúng tôi thân nhau đến độ cắt tóc và mặc quần áo giống nhau.
Ngoài giờ học ở trường, hai đứa thường đến nhà nhau học bài chung. Đi thi Tú Tài I ở Quy Nhơn và Tú Tài II ở Nha Trang đều ngồi cạnh nhau vì tên cùng vần.
Đậu Tú Tài Toàn xong, như chim rời tổ, mỗi đứa một nơi, Hoành vào Saigon học tiếp, Hà đi Nha Trang, riêng tôi ở lại Tuy Hòa đi làm giúp đỡ gia đình một thời gian.
Cuộc sống nổi trôi theo dòng đời, tôi thuyên chuyền vào Saigon, mãi đến năm 1974, mới tình cờ gặp lại Hà ở Chợ Bến Thành thì cả hai đã tay bế tay bồng, mỗi đứa đều có hai con gái và một con trai. Gia đình Hà rất hạnh phúc, hai vợ chồng làm cùng nghề. Phong, chồng Hà cưng chiều vợ hết mực.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 như cơn hồng thủy đổ ập lên đầu mọi người, chúng tôi mất liên lạc một lần nữa. Gia đình tôi may mắn được di tản và định cư tại Mỹ, còn Hà ở lại sống với gian truân thử thách.
Phong bị đi tù cải tạo như hàng vạn quân dân cán chính khác. Hà lo sợ hoảng hốt vì chồng đi biệt tăm không trở về sau 10 ngày như lời hứa hẹn của chính quyền, cũng không có tin tức còn sống hay chết dù chỉ một lời nhắn. Cũng như những gia đình của miền Nam phải đối mặt với cuộc sống mới khó khăn vô định, Hà bắt đầu bán tất cả những gì có thể, từ cái TV, tủ lạnh, bộ bàn thờ, giường tủ, bát đĩa, xoong nồi đến những bộ quần áo, giầy dép của hai vợ chồng đều từ từ bỏ Hà ra đi để đổi lấy gạo và thức ăn nuôi ba đứa con đang sức lớn mà không được ăn đủ no. Hà phải thoát ra khỏi cái vỏ ốc của một phụ nữ yếu đuối mong manh, bươn chải theo những người bạn đi buôn để có tiền nuôi con và chờ tin tức của chồng
Rồi Hà được tin về Phong từ những trại tù ở những tỉnh miền Bắc xa xôi chưa bao giờ Hà nghe tên. Những chuyến thăm nuôi vất vả, ngủ đêm chờ đợi ở bến xe, rồi băng rừng lội suối, đi bộ trên những đoạn đường mấp mô gập ghềnh khó khăn để rồi nhìn thấy một hình hài quắt queo, nhăn nhúm của chồng chỉ làm Hà thêm quyết tâm cố gắng làm ra tiền dù phải vất vả trăm bề để nuôi chồng sống sót mong một ngày trở về.
Gần sáu năm sau, Phong ra tù, tinh thần và thể xác đều kiệt quệ. Hà đau lòng nhìn thấy chổng tàn tạ rũ rượi như tàu lá héo trong khi các con ở trường thì bị trù dập vì là “con của ngụy”, học thì bị nhồi sọ những giáo điều cũ kỹ, không tưởng, bịa đặt và láo khoét. Để phụ với mẹ kiếm sống, sau giờ học, chúng đi bán bánh kẹo nên phải học cách mánh mung, gian trá.
Thời ấy, bên cạnh phong trào đi bán chính thức đang rầm rộ, có những chuyến vượt biên không chính thức cũng diễn ra trong âm thầm, các con Hà cũng được tập nói dối trơn tru khi bị hạch hỏi tra gạn về những chuyến vượt biên hụt của gia đình.
Ngay khi Phong trở về từ nhà tù, hai vợ chồng đã quyết định phải tìm cách mang các con ra đi, dù có cùng bỏ mạng trên biển cả còn hơn sống trên quê hương mà như trong cõi chết.
Cả gia đình đã vài lần cùng đi nhưng thất bại và đồng tiền Hà dè xẻn, dành dụm đã cạn dần, cuối cùng phải quyết định để Phong đi một mình trước rồi Hà sẽ tìm đường đem các con đi sau.
Ngày Phong ra đi, Hà đeo vào cổ anh sợi dây chuyền có tượng Phật Bà Quan Âm nhỏ bằng vàng giả, giống hệt như cái nàng đang đeo, Hà bảo anh rằng gặp cơn hoạn nạn thì nhớ cầu Phật Bà che chở.
Ba tháng, rồi sáu tháng, chờ mãi không được tin tức gì của chồng, chỉ nghe người ta xì xào là chuyến ghe đó bị chìm, cả gia đình chủ tàu cũng không ai sống sót.
Hà bèn liều mạng dùng mấy lạng vàng cuối cùng dẫn các con đi với gia đình một người bạn. May mắn thay mẹ con Hà đã đến được bến bờ tự do.
Năm 1983, tôi được tin Hà đã một mình vượt biển mang theo ba đứa con, Linh 14. Nga 11 và Nhi 4 tuổi, vừa được Lộc, người em kế rất thân với Hà, bảo lãnh ra San Diego ở với vợ chồng cậu ấy, cả gia đình tôi lập tức xuống vùng Nam California để gặp Hà.
Phút tương phùng, chúng tôi ôm nhau mừng rỡ trong nước mắt. Nhìn một Hà gầy guộc, đen xạm, dấu tích của những ngày lao động cơ cực, tôi không khỏi đau xót nhớ đến một Hà xinh đẹp, duyên dáng, ăn mặc thanh nhã nhưng hợp thời trang của thời đi học và trước năm 1975.
Hà ôm lấy tôi nức nở: “Anh Phong bỏ tao đi rồi Hằng ơi, gần một năm rồi còn gì.” Tôi thương bạn quá đỗi nên an ủi: “Đã chắc gì, nhiều khi anh ấy trôi giạt vào một hoang đảo nào đấy thôi, từ từ xem.” Tôi nói nhưng thực sự không tin điều mình nói. Tôi nhìn những ngón tay xương xẩu của bạn mà lòng xót xa. Tôi đã ở lại mấy ngày với Hà và lũ nhỏ để chia sẻ, an ủi với Hà những bất hạnh, giúp ý kiến cho Hà trong những ngày đầu bỡ ngỡ nơi xứ lạ.
- Rất may là Hà và tụi nhỏ đã đến bến bờ tự do, thôi thì muộn còn hơn không! Hãy làm lại từ đầu, nước Mỹ sẽ là nơi cho chúng mặc sức học hành và phát triển tài năng. Tôi nói. Hãy nhìn về phía trước Hà ơi…
Mới vừa được tạm ổn dưới mái nhà của Lộc, “họa vô đơn chí” vẫn không buông tha người bạn khốn khổ của tôi. Ở chung trong gia đình với người em được gần sáu tháng, Lộc mới trên ba chục tuổi đang khỏe mạnh, có việc làm tốt, bỗng nhiên đột tử chỉ sau một cơn nhức đầu. Hà đã lăn lộn vật vã khóc thương Lộc, người em mà Hà thương nhất trong các anh chị em. Được tin, dù đang bận việc sở cho cuối tài khóa, tôi cũng lập tức chạy xuống thăm để nâng đỡ tinh thần bạn tôi.
Tôi vừa bước vào cửa, Hà đã rũ xuống tay tôi như cây chuối bị đốn. Tôi chỉ còn đủ sức dìu Hà vào phòng đặt nằm trên giường, kéo gối và đắp mền cho thẳng thắn rồi ghé nằm xuống bên cạnh, tay tôi lại chạm vào đôi vai gầy gò đang rung lên từng hồi theo tiếng kể lể thảm thiết đứt quãng của bạn mà lòng đau như cắt. Lúc đó tôi thực sự oán trách ông Trời. Chúa ơi, Phật ơi, các Ngài ở đâu mà để cho một người đàn bà chân yếu tay mềm như Hà gánh hết oan khiên khổ nạn của cuộc đời! Chỉ trong hai năm mà chồng mất tích, hai đứa em vượt biển bị chết và bây giờ cái phao cuối cùng để Hà bám vào cho sự sống cũng không còn nữa.” Tôi chỉ có thể nắm chặt hai bàn tay lạnh giá run rẩy của bạn như một lời hứa “bên mày luôn có tao, Hà ơi.”
Về lại San Jose, hằng ngày tôi điện thoại xuống an ủi, động viên và khích lệ tinh thần Hà để vượt qua những tai ương nghiệt ngã đeo đẳng. Phải mất mấy tháng Hà mới lấy lại bình tĩnh và lo cho cuộc sống thường nhật. Lúc đầu rất khó khăn vì Hà chưa biết lái xe và các con còn nhỏ. Nhờ tính tần tiện và vén khéo, tiền trợ cấp cũng đủ cho mẹ con sống và ăn học. Cũng may, một mình lo cho bốn mẹ con vừa ăn vừa học lại thêm bài vở của mình, Hà không có rảnh một phút để buồn tủi cho thân phận cô đơn vất vả của mình trên đất lạ. Các con cũng biết thương mẹ khổ sở nên chịu khó học hành và ngoan ngoản vâng lời mẹ dạy.
Tuy tiếng Anh hơi yếu, nhưng nhờ quyết tâm và vốn liếng chữ nghĩa có sẵn, Hà đã lấy được mảnh bằng đại học sau bốn năm miệt mài kinh sử. Hè năm 1987, Linh xong trung học và Hà đậu bằng cử nhân. Tôi xuống San Diego dự lễ ra trường của hai mẹ con. Chúng tôi thật là hạnh phúc!
Biết là Hà không có thì giờ và tâm trí để đi mua sắm, thỉnh thoảng trong những chuyến công tác xuống Santa Ana, tôi vẫn ghé thăm Hà cùng 3 đứa con và những khi đi “shopping”, thấy quần áo hay ví tay mà tôi thích, tôi mua luôn một cặp, để hai đứa tôi vẫn còn được mặc quần áo giống nhau như ngày xưa còn bé.
Khi chúng tôi có thì giờ tâm sự, tôi nói bóng gió xa gần về sự lẻ loi đơn chiếc của Hà:
- Mày cứ thui thủi một mình làm tao không yên tâm tí nào.
- Còn đám con tao đấy thôi. Hà ngắt lời.
- Con khác. Chúng nó có đời sống riêng. Mày phải cần kiếm một bờ vai của một người đàn ông cho mày tựa những lúc cuộc đời làm khó mày, hay những lúc mày ốm đau xuống tinh thần là những điều không đứa con nào có thể cho được.
Lúc nào Hà cũng gạt đi:
- Tao đã sống quá nửa đời người, qua bao nhiêu khổ đau nghiệt ngã, đâu còn thiết tha gì chuyện tình ái. Tao chỉ mong cho mấy đứa nhỏ ăn học thành tài, sống cuộc đời ngay thẳng đạo đức như ông bà nội ngoại và vợ chồng tao đã dạy, muốn vậy thì chính tao phải là một tấm gương tốt cho chúng nó noi theo, với lại…
Tôi ngắt lời:
- Với lại gì?
Hà ngập ngừng:
- Với lại… tao vẫn có một linh tính mơ hồ là anh ấy chưa chết cho nên tao vẫn…đợi. Mày có nghĩ tao hoang tưởng thì tao cũng đành vậy thôi
Không chịu thua, thỉnh thoảng tôi vẫn gợi tên những người đàn ông yêu mến Hà và muốn cho Hà hạnh phúc. Họ thấy không cách nào gây được sự chú ý của Hà nên đã nhờ cậy đến tôi, nhưng những lời bóng gió, khuyên nhủ, dỗ dành của tôi đều như gió thoảng mây bay, Hà vẫn một mực ôm ấp và gìn giữ tình yêu cho chồng. Bây giờ Hà đã 60, nhưng tình yêu ấy không hề suy giảm.
Hà cũng tâm sự về con. Thằng Linh có tính nghệ sĩ, nó nói với tao rằng:
- Từ bé con đã mê hội họa và đàn dương cầm, con xin phép Me cho con học hai môn này.
- Me biết con thích những thứ đó, nhưng hãy thực tế một chút đi con. Gia đình mình nghèo, con là anh cả trong nhà thay ba con làm cột trụ gia đình, con nên chọn một nghề có thể nuôi sống gia đình và giúp đỡ bà con nội ngoại còn đang sống nghèo khổ thiếu thốn ở Việt Nam. Sau này, con vẫn có thể học thêm những món ưa thích kia cho con vui và giải trí, nghe lời me đi con.
Thế là Linh chọn nghề bác sĩ, ngành giải phẫu cho Mẹ vui lòng với lý do rất nhân bản là để cứu giúp những người đau ốm bệnh tật ngoài việc kiếm đủ tiền nuôi gia đình.
Nga là một đứa con gái hiền lành, nền nếp dễ bảo, lúc nào cũng muốn làm vừa ý mẹ, nó học làm dược sĩ để cùng hợp tác với Linh trong vấn đề thuốc thang cho bệnh nhân. Hai anh em vẫn thường bàn cãi sôi nổi về những phát minh y khoa và dược khoa.
Nhi, bé út nhưng ngỗ nghịch và hay lý sự nhất nhà. Mặc dù rất thương mẹ, nhưng đôi khi cũng làm phật ý mẹ, Nhi luôn làm theo ý mình. Nó bảo trong nhà có hai bác sĩ là quá nhiều rồi, nó muốn làm kỹ sư. Nhờ có dòng máu thông minh của cả ba lẫn mẹ, Nhi đã trở thành một chuyên gia xuất sắc trong ngành của mình và làm chủ nhiều bằng phát minh.
Người bạn mà tôi rất thương yêu và khâm phục ấy, một người đàn bà chân yếu tay mềm như thế đó, trải qua bao nhiêu gian truân, đau thương trong cuộc đời, đã đơn thương độc mã chiến đấu với cuộc sống mới khó khăn trên đất Mỹ, bắt đầu với hai bàn tay trắng cùng ba đứa con nhỏ dại và mấy cái khăn tang dấu kín trong lòng đã vượt thoát khỏi nghịch cảnh, tự xây dựng cho mình một cơ sở làm ăn vững vàng nhờ bản tính trung thực, nhã nhặn và ba đứa con thành công trong những lãnh vực khác nhau.
Đã gần 35 năm, kể từ ngày mẹ con Hà đến được nước Mỹ. Còn số phận của Phong, người chồng mất tích trong chuyến vượt biển trước đó thì sao?
...
Sau chín ngày lênh đênh trên biển cả, con tầu hết dầu, chết máy, thả neo trông đợi thuyền tàu nào tới cứu. Rồi ngày qua ngày, không thấy gì ngoài bầu trời mênh mông và biển dữ cuồng nộ. Khi thì mưa tầm tã, lúc lại nắng chang chang rát mặt, đêm bao la đen tối đến rợn người. Những mảnh khăn trắng treo trên cột buồm không mảy may làm xúc động những con tầu đi ngang, những lời lạy lục van xin cũng không động tâm những người trên các chuyến tàu vô tình kia. Mỗi ngày là một thách đố cho sự sống còn của mấy chục mạng người trên chiếc thuyền mong manh ấy. Lương thực đã hết. Cái chết đầu tiên đã làm mọi người hoang mang, hoảng loạn. Ngày hôm sau, hôm sau nữa lại thêm những cái chết cô đơn trong đói khát, nằm ngồi ngổn ngang. Tiếng khóc than tuyệt vọng tắt dần. Phần Phong, cũng chỉ còn sức để lặng lẽ cầu nguyện.
Thuyền cứ lênh đênh trôi cho đến khi vừa nhìn thấy bờ ở xa xa thì chiếc tàu bị đội lên, một tiếng soạc khủng khiếp và chiếc tàu bị nứt rạn do đá tảng cứa vào, tiếng la hét vang dội, nhưng không ai còn sức lực nào để có thể bơi vào được tới bờ.
Phong chỉ nhớ được rằng khi chiếc tàu lật úp, đập lên người Phong, chàng thấy đau nhói ở đùi bên trái và máu ra lênh láng, chàng cố vẫy vùng trong tuyệt vọng, cuối cùng bám được một mảnh gỗ của chiếc ghe, phó mặc cho số mạng…
Sau cơn trôi dạt vô vọng không biết bao lâu, Phong bỗng thấy quanh mình lao xao tiếng người, rồi chàng dần hồi tỉnh. Một thanh niên cho Phong biết là khi tàu của họ được vớt sau khi đã chết gần hết thì thấy trên bờ xa xa hình như có một thân người, họ đến nơi thấy chàng còn thoi thóp thở nên kéo chàng nhập chung vào nhóm người cùng ghe của họ và tất cả 9 người đều được hội Hồng Thập Tự chăm sóc sức khỏe.
Phong bị con thuyền đập vào gẫy chân trái, máu ra nhiều mà không được cứu chữa ngay, nên bị nhiễm độc và bác sĩ phải cưa chân trái của chàng tới trên đầu gối.
Lúc tỉnh dậy, Phong thấy mình cụt một chân, tay trái bị bó bột, toàn thân đau đớn vì xương sườn bị dập. Thấy mình đã thành người tàn phế, chàng không muốn sau này trở thành gánh nặng cho vợ con nếu chàng may mắn tìm được họ vì vậy chàng chỉ muốn tự vẫn, hóa kiếp cái hình hài dị dạng này cho xong một đời người. Một tuần sau mọi người đã có mặt trên đảo Pulau Bidong, Malaysia.
Nhờ sự giúp đỡ của các bác sĩ, nhất là sự chăm sóc tận tình của một nữ y tá người địa phương tên Wani Avarat và lời khuyên răn của những thuyền nhân khác, Phong dần dần nguôi ngoai nhưng vẫn nhất quyết không trở thành một gánh nặng cho vợ con với một tinh thần sa sút và một thân xác tàn tật.
Cô y tá Wani, một người đàn bà trẻ góa chồng và không có con, tìm thấy trên mặt của chàng còn phảng phất nét thông minh tuấn tú của một người có học thức dù bao năm bị tù đầy vùi dập và chuyến vượt biển thập tử nhất sinh của Phong nên ngoài việc lưu tâm săn sóc thể chất, cô luôn luôn động viên tinh thần cho Phong. Chờ khi Phong tỉnh táo, cô đã đề nghị với chàng để cô bảo lãnh ra sống với cô ở Mã Lai với lời hứa là Phong có thể đi tìm và trở về với gia đình của chàng bất cứ lúc nào.
Nhờ có sự khuyến khích của cô Wani, Phong dần dần hồi phục. Sau khi đã được lắp chân giả, Phong đi học lại và cũng theo ngành y tá. Hai người sống với nhau hạnh phúc cho đến hai năm trước đây, cô Wani bị bệnh ung thư. Để đền đáp mối ân tình cho người đã cứu mạng sống của mình, Phong đã tận tụy săn sóc Wani, nhưng cuối cùng, Wani vẫn không thể vượt qua cơn bệnh ngặt nghèo. Hai năm trước đây, Wani đã giã biệt cõi đời. Từ đó Phong xin làm thiện nguyện và rồi trời đã xếp đặt cho chàng có cơ duyên làm việc cùng toán với Linh, một bác sĩ giải phẫu từ Hoa Kỳ sang làm thiện nguyện tại một làng nghèo bên Mã Lai.
Ngày cuối của công việc thiện nguyện, sau khi đã hoàn tất một ca giải phẫu cho bệnh nhân, Bác sĩ Linh mời y tá Phong ra ngoài sân bệnh viện uống cà phê cho tỉnh táo. Sau mấy ngày làm việc với ông y tá đứng tuổi của địa phương có nước da nâu sạm và đôi tay gân guốc, hai người đều đeo khẩu trang nên Linh không thấy rõ chi tiết trên khuôn mặt, ngoại trừ đôi mắt sâu thẳm u uẩn của ông ta. Nay xong công việc, khẩu trang đã gỡ bỏ, thong thả bên ly cà phê, bác sĩ và y tá biết nhau cùng là người Việt, trò truyện bằng tiếng Việt, Linh bỗng cảm thấy một cái gì gần gũi thân quen khác thường.
Khi ông Phong cúi xuống dập tàn thuốc lá, nhìn khuôn mặt khắc khổ của người bạn lớn tuổi mới quen, Linh bỗng giật mình khi thấy trên cổ ông ta một sợi dây chuyền có tượng Phật Bà. Phải rôi, cũng sợi dây chuyền ấy, tượng Phật Bà ấy, Linh từng thấy Mẹ mang trên cổ hàng ngày. Cho tới bây giờ, thỉnh thoảng mẹ vẫn mân mê cái tượng đã xám xỉn lâm râm lời cầu nguyện. Linh kiên nhẫn gợi chuyện và ngồi yên lắng nghe về chuyến hải hành đầy khủng khiếp của Phong.
Bây giờ thì Linh đã chắc chắn người y tá già ngồi trước mặt là người cha mất tích suốt tuổi niên thiếu của mình vì nơi chốn và ngày đi của ông ấy đều trùng hợp với cha mình.
Hai bố con nhận ra nhau. Linh ôm ông, chàng khóc như chưa từng khóc trong đời, chàng thương cho sự bất hạnh của Ba và nhất là cho Mẹ đã bao năm vò võ ở vậy nuôi con chờ chồng.
Trên đây là chuyện do chính Linh kể lại cho tôi nghe. Chú bé 13 tuổi khi theo mẹ đến Mỹ năm xưa nay đã là một bác sĩ giải phẫu 48 tuổi. Hàng năm, thay vì đi du lịch ngắm thắng cảnh thế giới, Bác sĩ Linh dành 2 tuần lễ nghỉ phép, đi theo đoàn thiện nguyện đến chữa bệnh ở những nơi mà người dân thiếu may mắn trong vùng Đông Nam Á. Nhờ đó mà sau 35 năm thất lạc, bố con có dịp nhận ra nhau. Giấc mơ đoàn tụ bao năm thành sự thật. Sinh nhật mẹ Hà cũng sắp tới. Đâu còn món quà sinh nhật nào quí hơn. Mọi thủ tục bảo lãnh, đưa Bố Phong từ Mã Lai vào Mỹ được lặng lẽ hoàn tất. Mọi diễn tiến, với sự đồng ý của bố, anh em Linh giữ kín, mẹ Hà hoàn toàn không hay biết.
Là người thân trong nhà, tôi được các cháu của Hà nhờ mời dùm đông đủ các bạn học cũ của chúng tôi từ thời ở Tuy Hoà về dự sinh nhật mẹ năm nay. Nhưng cũng chỉ tới giờ chót, mới được cho biết câu chuyện, mà còn nghe cháu Nga dặn đi dặn lại “không cho mẹ biết trước, nghe dì”.
*
Sinh nhật của Hà năm nay được tổ chức tại nhà cháu Linh. Tuổi sáu mươi sắp đến, nhưng Hà vẫn tươi tắn, rạng rỡ cùng các con chào đón các bạn cũ, bạn mới.
Trong phòng khách rộng l;ớn của ngôi nhà, bánh sinh nhật và các bàn ăn đã sẵn sàng. Đúng giờ phút định trước, ánh sáng thay đổi. Hà được mời đứng giữa Linh và Nhi, con trưởng và con út. Tất cả được thông báo bắt đầu những phút trân trọng nhất của đông đủ gia đình cùng ra mắt trong tiệc sinh nhật. Linh rời mẹ, trong lễ phục nghiêm chỉnh, bước lên mấy bước, cầm micro, hướng về phía mẹ Hà
- Thưa Mẹ. Chúng con xin cám ơn Mẹ và tất cả bà con bạn bè có mặt hôm nay. Đây là lần đầu tiên đông đủ gia đình ta cùng mừng sinh nhật mẹ. Xin mẹ cho phép con có vài lời về gia đình chúng ta. Hơn bốn mươi năm trước đây, Sàigòn sụp đổ, miền Nam đổi chủ, bố chúng con phải đi tù cải tạo. Từ ngày ấy, tuy còn là đứa trẻ mới sáu bẩy tuổi, con vẫn không quên những ngày tháng mẹ vất vả, cực nhọc thay bố nuôi chúng con. Sau 6 năm tù đầy, trở về với gia đình không được bao lâu, mẹ lại phải cắn răng để Bố một mình ra đi và từ đó mất tích. Có tin chuyến tầu vượt biển có bố đi theo đã tan tành, không còn ai sống sót. Sau nhiều tháng vô vọng, mẹ lại một mình mang chúng con ra đi, lo cho chúng con thành người trên đất Mỹ. Đã 35 năm qua, hàng ngày, mẹ không ngừng cầu nguyện gia đình có ngày được đoàn tụ. Hôm nay, xin Mẹ quay nhìn sang phía trái...
Không chỉ Hà mà tất cả cùng nhìn theo hướng tay của Linh. Từ bao giờ, trên lối đi từ phía cầu thang, em gái Nga của Linh xuất hiện trong áo dài vàng rực, bên vai Nga là một người đàn ông cao gầy. Trong ánh nến bập bùng ven lối đi, cả hai đang bước ra. Từng bước. Từng bước chậm.
Cả sảnh đường bỗng im lặng tới mức nghe được từng hơi thở.
- Thưa Mẹ, Linh tiếp tục nói, em Nga đang cùng Ba bước về phía Mẹ. Hôm nay Ba đã trở về từ một nơi xa xôi để dự lễ sinh nhật của Mẹ và đoàn tụ với gia đình. Và thưa Ba, Mẹ và em Nhi đang chờ Ba. Thưa bà con, thưa các bạn, sau bao năm cầu nguyện, đây là lần đầu tiên Ba Mẹ chúng tôi chúng tôi thấy lai nhau. Cám ơn Trời Phật đã đáp ứng lời cầu nguyện kiên trì của bốn mẹ con mình.
Hai bố con Phong và Nga đã đến trước mặt mẹ con Hà. Họ đứng lặng nhìn nhau. Hà bước tới, tưởng như mình đang bước trong cơn mơ. Đúng Phong đây rồi, Phong bằng xương bằng thịt vẫn thường hiện ra trong giấc ngủ của nàng làm lệ ướt gối chăn. Dù có bao nhiêu nếp nhăn hằn sâu trên khuôn mặt, dù có bao vết thương, vết sẹo trên thân thể chàng, dù Phong có bước đi chân thấp chân cao, đây vẫn là người chồng mà Hà một đời yêu thương mong nhớ và chung thủy đợi chờ. Họ lặng lẽ ôm nhau. Linh cũng đã lặng lẽ bước lại đứng cạnh bố mẹ và các em. Đúng là đông đủ cả nhà đang đoàn tụ. Cả sảnh đường đang im lặng bỗng cùng lúc vỡ òa. Rồi Phong sẽ nói, Hà sẽ nói, không biết bao lời chúc tụng sẽ được nói lên.
Ai bảo là “phước bất trùng lai?”
Cuối cùng thì bạn tôi sau những đau thương, mất mát khủng khiếp trong cuộc đời, bây giờ được đền bù xứng đáng.
Tôi trao cho Hà món quà sinh nhật của tôi tặng và Linh được yêu cầu đọc mấy dòng tôi viết trong tấm thiệp mừng bạn. Đó là mấy câu thơ nổi tiếng của thi sĩ Hồ Dzếnh:
Cô gái Việt Nam ơi!
Nếu chữ hy sinh có ở đời,
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi.
Tôi đã chép những câu thơ trên cho bạn tôi và viết thêm đoạn tường thuật này tặng chung các Bà Mẹ Việt Nam.
Nước sâu chảy không một tiếng động, nước nông, nước cạn sẽ chảy róc rách. Người nông cạn, khoa trương sẽ giống như nước cạn vậy. Còn người có đủ tĩnh khí, khiêm nhường, biết mình sẽ giống như một nguồn nước sâu. Bạn muốn mình là nguồn nước sâu hay là một dòng nước cạn?
Walter Raleigh (1552 – 29 .10. 1618) là nhà chính trị, nhà sử học, nhà thơ nổi tiếng của Anh thời kỳ văn hóa phục hưng từng sáng tác một bài thơ về tình yêu. Trong đó ông đem tình cảm mãnh liệt ví như dòng nước chảy.
Ông viết: “Nước cạn chảy róc rách mà nước sâu lại chảy không phát ra một tiếng động. Một người nếu luôn nói lời đường mật thì trong lòng sẽ là “hư tình giả ý”!”
Kỳ thực, trong cuộc sống, sự thành thật và lương thiện cũng giống như nước chảy vậy, cũng không cần phải tận lực khoa trương, ca ngợi. Con người chỉ có tâm thái bình tĩnh và tường hòa mới có thể đạt được cảnh giới tư tưởng cao thượng.
Ở một ngôi làng nọ, có hai cha con người đàn ông trung niên sống cùng nhau. Một hôm trời đẹp, người cha rủ con trai đi vào rừng dạo chơi. Cậu con trai vô cùng cao hứng đi cùng bố. Hai cha con đi đến đoạn đường uốn lượn thì dừng lại.
Trong một phút trầm lặng ngắn ngủi, người cha hỏi con: “Con trai! Ngoài tiếng chim đang hót ra, con còn nghe được thấy tiếng gì khác không?”
Cậu bé sau một hồi lắng nghe liền trả lời cha: “Cha ơi, con còn nghe được cả tiếng xe ngựa nữa ạ!”
Người cha lại hỏi tiếp: “Đúng rồi! Đó là một chiếc xe ngựa trống, không chở gì cả.”
Cậu con trai ngạc nhiên hỏi lại: “Chúng ta con chưa nhìn thấy nó, sao cha lại biết đó là chiếc xe ngựa trống rỗng?”
Người cha đáp: “Từ âm thanh con có thể dễ dàng nhận ra đó là một chiếc xe trống không. Xe ngựa càng trống rỗng, thì âm thanh sẽ càng to.”
Về sau này, cậu con trai trưởng thành, là một người thông minh, giỏi giang và thành đạt. Mỗi lần cậu chứng kiến một ai đó dùng lời lẽ ba hoa, lỗ mãng để nói chuyện, tự cho là mình đúng, tự cao tự đại, hạ thấp người khác thì cậu đều nhớ đến lời nói của cha vẫn như đang văng vẳng bên tai mình: “Xe ngựa càng trống rỗng thì âm thanh sẽ càng to.”
Những người đã từng qua sông cũng biết rằng, trước khi qua sông, người ta thường lấy một hòn đá ném nó xuống nước để phỏng đoán độ sâu của con sông. Bọt nước bắn lên càng cao thì chứng tỏ nước sông càng cạn, càng nông. Trái lại, nơi nào không có bọt nước bắn lên, không nghe thấy âm thanh lớn thì chứng tỏ chỗ ấy nước càng sâu, thậm chí sâu không thể đo được…
Nước càng sâu, chảy càng không có tiếng động. Xe ngựa càng trống rỗng thì tiếng động càng lớn. Làm người cũng nên như vậy!
Người có thể dùng tâm thái bình tĩnh, “bình tâm tĩnh khí” để nói chuyện với người khác thì sẽ trách được việc khắc khẩu, cãi vã giữa đôi bên. Người như vậy cũng sẽ càng học được cách lắng nghe người khác, mà lại không cường điệu, khoa trương chính mình!
Tôi đã nhiều lần trải nghiệm thực tế trong đời sống của mình, khi suy ngẫm và nhìn về những diễn biến trước mắt qua những hoàn cảnh và trường hợp khác nhau để tôi và chúng ta cùng suy ngẫm thật sâu sắc.
Có nhiều người thích sống đời sống hưởng thụ cho bản thân, và họ xem thường việc giúp đỡ người khác cho đến vô tâm đến những cảnh khó khổ của những người sống quanh t...a.
Vì họ tin vào bản thân mình sẽ luôn thành công, khỏe mạnh và giàu sang cho đến sắc đẹp. Để vội xem chuyện giúp đỡ người khác hay sống vì người khác là chuyện "bao đồng".
Và kết quả, những người có suy niệm như thế thì thường khi lâm vào hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật, cho đến qua đời thì ngoài người thân trong gia đình thì chẳng được mấy ai muốn quan tâm hay để ý đến.
Nên hãy suy ngẫm:
KHI bạn mạnh khỏe, THÌ hãy nghĩ đến khi bạn ốm đau. Phải cần có người chăm sóc.
KHI bạn thành công, THÌ hãy nghĩ đến khi mình thất bại. Phải cần có người sẻ chia và giúp đỡ.
KHI bạn vinh quang, THÌ hãy nghĩ đến khi mình vấp ngã. Phải cần có người đỡ mình lên để đi tiếp.
KHI bạn có đầy đủ người thân, THÌ hãy nghĩ đến khi mình chẳng còn ai bên cạnh. Phải cần có người để an ủi và động viên.
KHI bạn còn sống, THÌ hãy nghĩ đến khi mình mất đi. Phải cần có người đưa bước về nơi an nghĩ cuối cùng.
Có một kinh nghiệm mà tôi thường lưu tâm. Khi đi đến những đám tang, hay bắt gặp đám tang đi ngang qua của người đã mất, tôi thường quan sát chung quanh. Để phần nào đoán được khi sinh tiền người này đã sống ra sao, giữa sự so sánh một bên thì hiu quạnh không người đưa tiễn, một bên thì đầy ấm người thương tiếc đi sau.
Đó gọi là tinh thần Nhân quả một cách rất vi tế trong đạo Phật. Nếu chúng ta để tâm và quan sát. Và hãy sống theo tinh thần "làm gì được cho đời thì cứ làm".
Vì BIẾT ĐÂU,...ngày mai ta sẽ ra sao.
Thì hôm nay hãy trân quý cuộc sống và yêu thương nhiều hơn khi có thể.
Ở đời, chúng ta thường thấy có người bên ngoài dáng vẻ giàu sang, thành công, đi xe sang trọng, nhà ở thật đẹp và quý phái. Nhưng trên thực tế, họ rất chật vật trong đời sống hằng ngày. Tôi có một anh bạn quen sang Mỹ chỉ mới hơn 5 năm. Thế mà, đi xe hiệu BMW và ở nhà trong khu đắt tiền, cao cấp, lên đến bạc triệu. Hỏi ra thì anh chỉ cười buồn và than rằng lúc nào cũng bận rộn, không có thời gian rảnh. Sau này mới biết rằng anh làm 3 việc (job) cùng một lúc để có thể xoay sở trả cho căn nhà sang trọng và chiếc xe đắt tiền. Bề ngoài trông anh giàu có, nhưng bên trong anh thật sự túng thiếu quanh năm. Chắc bạn cũng muốn biết tại sao họ phải làm vậy? Mình có cơm ăn cơm, có muối thì ăn muối, có sao đâu! Mặc cảm nghèo nàn, thua thiệt đóng một vai trò quan trọng trong trường hợp này.
Hình như chúng ta khoe khoang sự giàu sang, thành đạt của mình để tìm kiếm một lời khen thưởng, một sự thán phục từ bên ngoài. Nghĩa là, mình làm cật lực, nhọc mệt cả đời để đổi lại những ganh tức, bực bội của người bên ngoài vì họ không có những thứ mình đang hưởng thụ. Chạy theo danh vọng, tiền tài thì chẳng phải là điều gì mới mẻ! Hầu như đa số cho rằng đó chính là mục đích sống của mình, dù phần lớn không ai muốn nói ra vì sợ bị chê là thiển cận, tham lam.
Dù biết là thế! Nhưng ai cũng cứ cho là ‘hữu danh thì hữu thực’ nên mọi người cứ bon chen, bươn chải tìm kiếm vật dục, giàu sang bên ngoài. Có người dù đời sống trong gia đình thật là nhọc nhằn, vất vả nhưng vẫn cứ chạy theo đua đòi vẻ bề ngoài, và tìm mọi cách che dấu cái khổ đau, nhọc mệt mà mình và gia đình đang gánh chịu. Giống như một người nghiện rượu, dù biết rằng thói hư, tật xấu này sẽ chỉ mang lại niềm vui tạm bợ, và sẽ dìm mình xuống hố khổ đau về sau. Nhưng vẫn tìm cách biện hộ, bào chữa rằng là mình chỉ uống cho vui, để giải sầu. Rồi đến một hôm, bừng tỉnh nhìn lại thì thấy mình thực là: ‘hữu danh, vô thực.’
Nếu bạn đi hỏi thử 100 người ngoài đường, ai cũng nói họ cần tiền, cần danh lợi vì những thứ này sẽ mang lại hạnh phúc cho họ. Có ai đó nói rằng: sống đời xứng đáng, có hạnh phúc không thể đo lường bằng tiếng tăm, tiền tài, hay vật chất, mà bằng hạnh phúc, yêu thương mà mình trao đổi trong đời. Đó là nói về mặt vật chất. Phần tâm linh, cũng không ngoại lệ. Có người tu tập nhưng chỉ chuộng dáng vẻ bề ngoài nên thỉnh thoảng có người cười nhạo bằng câu: ‘Đường đường tăng tướng, dung mạo khả nghi!’ Dù biết rằng ‘chiếc áo không làm nên thầy tu’ nhưng với vẻ ngoài đạo mạo, họ lầm tưởng rằng làm vậy sẽ được mọi người nể trọng.
Thực ra, đức Phật không ngăn cấm việc làm giàu và cầu danh nếu những thứ này thực sự mang lại hạnh phúc, an lạc cho mình, và cho người. Như trong kinh Pháp Hoa, phẩm Tựa thứ nhất: Ngài Văn Thù nói rằng Ngài Di Lặc trước kia là Cầu Danh bồ tát nhưng vẫn giữ trọn công hạnh bồ tát lợi mình, lợi người, và sau cùng, vẫn thành Phật. Vả lại, những trưởng giả giàu có trong thời đức Phật tại thế, như ông Cấp Cô Độc, đã đóng góp, cúng dường, xây dựng tịnh xá cho chư tăng. Nhờ vậy mà Phật pháp được tuyên dương, hưng thịnh. Công lao của các vị đại thí chủ này thật là đáng tán dương và vô cùng to lớn về mặt góp phần tạo dựng, phát huy, và duy trì văn hóa Phật giáo ở Ấn độ thời đó. Phải nói rằng, nếu không có những đại thí chủ giàu có như vậy đóng góp thì việc phát triển Phật pháp thật là đã khó khăn hơn nhiều!
Chúng ta không phải khao khát thành danh để được mọi người ca tụng, khen tặng. Chúng ta cũng không khao khát xem mình là một người ‘làm cái gì cũng được, cũng thành công.’ Sở dĩ mình không khao khát được như vậy vì mình hiểu rằng những cái mình mong mỏi đó sẽ khó mà mang lại hạnh phúc, an lạc bền lâu cho chính bản thân mình. Khi mình đánh giá bản thân qua những việc mình làm, giá trị hay không giá trị, mình đang phụng sự cho cái bản ngã (ego) của chính mình. Mình sẽ không bao giờ thỏa mãn sự đòi hỏi của bản ngã. Ngược lại, rất là đau khổ khi mình nếm mùi thất bại. Giá trị thật không phải ở chỗ mình thành công được cái gì, mà là mình có đang thật sự sống và cảm nhận sự thành công đó, hay ngay như cả thất bại, của chính mình.
Trong kinh Trung bộ - số 29-30, Thí dụ lõi cây (đại kinh và tiểu kinh) Phật dạy rằng: ‘mục đích chính của đời sống phạm hạnh là tâm giải thoát bất động, đối với mục đích này thì tất cả những lợi lạc khác chỉ là cặn bã.’ (Ni Sư Trí Hải tóm lượt). Như vậy, muốn sống thật với tâm giải thoát bất động mình phải hiểu rõ mình là ai, và sẽ không để bị 8 ngọn gió đời (bát phong), lợi suy, vui khổ, vinh nhục, và khen chê, làm rúng động. Tình thực mà nói để tâm không bị 8 ngọn gió đời lay chuyển là một điều rất khó làm! Như trong trường hợp của thi hào Tô Đông Pha (1037-1101) gởi tặng cho Thiền sư Phật Ấn (1032-1098), một bài thơ ông sáng tác:
Thân tâm cúi lạy đấng Chí Tôn
Hào quang tỏa sáng khắp càn khôn
Tám ngọn gió đời lay chẳng động
Thân tọa đài sen nét nghiêm trang.
(Khể thủ thiên trung thiên
Hào quang chiếu đại thiên
Bát phong xuy bất động
Đoan tọa tử kim liên.)
Sau khi làm xong bài thơ này, Tô Đông Pha rất hài lòng bèn cho người đem tặng Thiền sư Phật Ấn đang ở chùa Kim Sơn. Sau khi Thiền sư Phật Ấn xem qua bài thơ, bèn lấy bút phê vào hai chữ ''phóng thí'' (có nghĩa là đánh rắm) và gởi lại cho Tô Đông Pha. Nhận thấy lời phê của Thiền sư Phật Ấn, Tô Đông Pha đùng đùng nổi giận vội bươn bả vượt sông sang chùa Kim Sơn để bắt tội Thiền sư Phật Ấn.
Gặp nhau ở bến sông, Tô Đông Pha lớn tiếng trách:
- Bài thơ tôi sai sót ở chỗ nào mà ông phê vào hai chữ ''đánh rắm'' kia.
Thiền sư Phật Ấn cười xòa:
- Ông nói ''Tám gió thổi không động'' mà chỉ cần một cái ''đánh rắm'' thôi đã bay sang sông rồi.
Đến lúc ấy, Tô Đông Pha mới hiểu rằng tâm mình rõ ràng chưa bất động.
Cho nên Thiền sư Hoàng Bá có dạy:
Nhược bất nhứt phiên hàn triệt cốt.
Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.
Nghĩa là: "Nếu không một phen sương thấm lạnh. Hoa mai đâu nở ngát hương thơm".
Ông bà mình cũng có câu: ‘Có thực mới vực được đạo.’ Vì vậy, nếu chỉ hiểu nghĩa của đạo thì vẫn chưa đủ. Phải biết sống với đạo thì mới có thể ‘vực được’ đạo! Trong kinh Tăng Chi Bộ số 6 - Tùy Chuyển Thế Giới (Lokavipatti Sutta) HT. Minh Châu dịch, có dạy cách sống đạo như sau: ‘Đây là đặc thù, này các Tỷ-Kheo, đây là thù thắng, đây là sai biệt giữa vị Thánh đệ tử có nghe pháp và kẻ phàm phu không nghe pháp.
Vì không còn bị ám ảnh bởi cái bả danh vọng, lợi dưỡng chúng ta sẵn sàng mở lòng chấp nhận con người thật của mình, xấu có, tốt có, và cũng chấp nhận bất cứ cái gì đến với mình, thành công hay thất bại. Mình không để sự thôi thúc của sự hám danh hám lợi, từ bên ngoài lẫn bên trong, làm chủ, mà trở về tập trung sống thực với chính mình.
Mình có sự tự do để chọn lựa giữa hiểu biết, yêu thương, và sợ hãi, oán hận. Bất cứ những trải nghiệm, hay hoàn cảnh nào mình có sự chọn lựa đó. Sợ hãi, âu lo sẽ khiến mình giới hạn sự tự do chọn lựa, và giới hạn niềm tin của mình vào bản thân: ‘Tôi muốn làm cái đó nhưng sợ làm không nỗi!’ Sự hiểu biết, yêu thương, ngược lại, khuyến khích chúng ta thử nghiệm khả năng mình, và không coi giá trị của bản thân mình là do kết quả của sự thành công hay thất bại. Mình đang tu tập cái tâm giải thoát bất động mà Phật dạy ở trên, không để cho thành bại quyết định con người mình.
Như vậy, sống có tiếng tăm, danh vọng nhưng thực chất không an lạc, không phải là mục đích của đời người, và cũng không phải là những lời dạy bảo của Phật. Thà là mình sống không ai biết nhưng vui vẻ, tươi mát. Các pháp thuận hay nghịch là pháp luôn biến diệt, không thường còn. Tiếng tăm, danh vọng, lợi dưỡng cũng vậy, chúng đến rồi lại đi. Nếu sống với những cái giả tạm, mà cho là hạnh phúc thật sự, sẽ chỉ làm cho mình thêm đau khổ mà thôi! Cho nên, người nào hiểu đạo sâu sắc sẽ thấy danh lợi bề ngoài chỉ là ảo tướng.
Xin lỗi lại lẩn thẩn vào thế giới: ‘Biết rồi! Khổ lắm nói mãi!’ Dù biết vậy, nhưng cái thế giới vật chất càng ngày càng lớn mạnh. Nó đang dần chiếm mất cái nét đẹp của tâm linh, tình người, nhân nghĩa… Thế giới chúng ta đang sống không còn mênh mông to lớn nữa. Mà giờ đây đang thu nhỏ dần qua những phương tiện truyền thông hiện đại, như mạng internet, và luôn cả phương tiện giao thông, như máy bay càng ngày càng nhiều. Chính vậy mà việc hưởng thụ dục lạc, và danh vọng lợi dưỡng cũng tăng theo cấp số nhân. Những hình thức bề ngoài, dù không có gì xa lạ, nhưng rất thịnh hành và phổ biến vì chúng ta đang tận mắt chứng kiến khắp nơi trên thế giới, qua mạng truyền thông, những cảnh sống xa hoa, phù phiếm. Nhưng mình có biết đâu rằng: Đó chỉ là những nét đẹp bề ngoài. Còn con người thật bên trong có hạnh phúc hay không, lại là chuyện khác!
Theo nhân sinh quan của đạo Phật, chúng ta cùng nương nhau mà tồn tại. Hạnh phúc của người này, có thể, là nhân làm sinh ra hạnh phúc cho người kia. Nếu chúng ta cứ chật vật chạy theo những danh lợi, hạnh phúc, tiếng tăm giả tạm bên ngoài, và chà đạp lên mọi giá trị, đạo đức làm người, mình đang làm một khuôn mẫu xấu, ảnh hưởng đến người khác và, có thể, cho cả thế hệ mai sau. Cho nên, có đôi lúc mình cần những sự giúp đỡ để vượt qua những khó khăn, chướng ngại. Mỗi lần nhờ sự giúp đỡ của người khác, nếu mình không để cho cái cảm giác thấy mình bất lực, yếu kém xâm chiếm, mình đang mở rộng lòng đón nhận con người thật của mình. Chấp nhận sự thật và thôi tìm kiếm những giá trị ngoài bản thân mình, và đôi khi mình phải đầu hàng với sự thật, là một quá trình đầy khó khăn, phiền não. Nhưng nếu chúng ta biết dừng lại, lắng nghe bản thân mình, và hết lòng ôm trọn những khiếm khuyết và tốt đẹp của con người mình, và trở về bản chất chân thật của mình, thì đây mới chính là chỗ mình tìm thấy hạnh phúc và an lạc thật sự.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.