HOME-Au
HOME-Au
24h
24h
USA
USA
GOP
GOP
Phim Bộ
Phim Bộ
Phim-Online
Phim On
Videoauto
VIDEO-Au
Donation
Donation
News Book
News Book
News 50
News 50
worldautoscroll
WORLD-Au
Breaking
Breaking
 

Go Back   VietBF > Announcement|Thông Báo > Member News | Tin thành viên


Reply
 
Thread Tools
Old 12-14-2020   #321
hoathienly19
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 1,444
Thanks: 2,311
Thanked 1,686 Times in 782 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 24 Post(s)
Rep Power: 8
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default



CHƯƠNG 12



Bốn năm lưu lạc, tôi chưa làm được gì cho ra hồn, ngoại trừ miếng cơm manh áo. Với đại gia đình bên kia đại dương đang sống đọa đày trong hờn tủi xót xa, tôi cũng không có lấy một cánh thư an ủi.

Mà thực ra, tôi biết nói gì ? Nói về gia đình mình ư ? Thì phải mô tả nhà có hai, ba phòng, có điện, có nước nóng, có điện thoại, có máy lạnh, có ti-vi màu, có cassette, có vườn trước sân sau cỏ mọc xanh rờn.

Nhà ở cạnh hồ lớn, có bè rau muống, có thuyền đi câu, có gió mát trăng thanh, hương hoa bưởi, hoa cam thơm lừng một vùng trời an lạc.

Kể về tiện nghi ư ? Thì nào là xe hơi Huê-Kỳ chạy êm như ru, chợ búa gần gũi, thịt thà, rau cỏ, sữa, trái cây e hề, mùa nào thức đó. Quần áo giày dép thì đủ kiểu, đủ màu cho hợp thời trang.

Phấn son, mỹ phẩm tha hồ chọn lựa.

Chuyện học hành con cái ư ? Thì có nhà nước lo xe đưa đón hàng ngày, lớp học mát mẻ, sáng sủa, thoải mái, lâu lâu lại nghỉ lễ, nghỉ chơi, nghỉ hè, cứ tuần tự lên lớp.

Còn cái mục học trò Việt Nam chăm chỉ, lễ độ, thông minh, giỏi toán, giỏi cả anh- văn, cuối năm thường đứng đầu lớp thì đó là chuyện thường tình...

Hay là kèm theo thư, gửi về nhà một vài tấm hình lưu niệm ư ? Thì hình là hình màu, người là người từ tiên giới, đầy đủ, ấm no... Người ở bên nhà đang chật vật, đói rách với hộ khẩu, với kinh tế mới, đang thất điên bát đảo với hội họp, kiểm thảo, tự khai và bắt bớ rình rập, nay nhận thư, nhận ảnh ngoại quốc, bỗng so sánh như địa ngục với thiên đường, ắt kẻ ở lại đau khổ dập vùi thêm, thất vọng hơn chứ nào có xoa dịu được chút nào đâu!

Thành ra, chỉ có những gói quà lớn nhỏ, tùy khả năng, tùy hoàn cảnh mà an ủi gia đình là xem ra cụ thể và có giá trị hơn cả.

Cũng có người ở nhà bảo rằng chỉ mong thư từ hình ảnh của kẻ ở miền xa mà thôi, chứ đâu có cần quà cáp mà không thấy hồi âm. Nhưng sự thực đắng cay là cho dù những người có tư cách nhất, đạo đức nhất, tự ái nhất, một khi đã sống dưới chế độ Cộng sản do nhà nước quản trị, giám sát cái dạ dày, kiểm soát thanh tra luôn tư tưởng thì con người đã mất đi tất cả tự do và bị lệ thuộc nhiều vào miếng cơm, miếng khoai, củ sắn.

Nên dẫu quân tử Tàu cách mấy, vẫn mơ ước những giúp đỡ, tiếp tế dù to dù nhỏ từ ngoại quốc gửi về.

Như kẻ sắp chết đuối vớ được tấm gỗ, thanh củi hoặc đám bèo... Cái gì cũng quí. Bởi đó là sự sống. Bởi đó là hy vọng...






Tôi chưa làm được chuyện gì ngoạn mục với gia đình, lâu lắm mới có tí quà về biếu ông bố già cô độc. Với đàn em, đàn cháu, tôi xa cách chúng nó mấy chục năm lưu lạc giang hồ, cái tình ruột thịt đâm ra cách xa, hầu như đến độ vô tình và tự cảm như vô trách nhiệm.

Lũ em tôi, dẫu sống từ tấm bé dưới chế độ Cộng Sản, được nhồi sọ khá đủ các giáo điều, vẫn ôm mộng một ngày nào đó vượt biển tìm tự do. Tôi chả dám khuyên chúng nó nên ở hay nên đi, chỉ biết qui vào số mạng. Đứa nào thoát được ngục tù thì đứa ấy may mắn. Qua đến đảo là tôi có bổn phận bảo lãnh, lúc đó tôi trách nhiệm đã đành.

Chuyện vượt biển đã là chuyện có thực, xẩy ra hàng ngày tại Việt Nam.

Trước năm 1975,
chả thấy ai hành trang lên tàu lớn tàu nhỏ ra khơi qua Thái, qua Mã Lai, qua Úc, qua Phi, qua Nhật... Mà chỉ từ khi Cộng Sản được trao lại miền Nam mới thấy ào ào thuyền nhân đi tìm tự do liều lĩnh.

Những con thuyền gỗ mỏng manh, yếu đuối, chứa mấy chục người già trẻ lớn bé. Người lái tàu chưa từng đọc địa bàn, không hề biết sửa máy móc. Ấy thế mà họ vẫn ra đi, một liều ba bẩy cũng liều.

Con thuyền trong đại dương còn nhỏ bé hơn chiếc lá tre trên sông lạch, lại sóng nước bao la dập vùi xô đẩy, lại bão tố ngập trời. Vực sâu, miệng cá vẫn đợi chờ rình rập. Họ vẫn ra đi.

Trên đại dương, ngoài sóng to gió lớn biển sâu cá dữ, còn có một thứ dữ hơn cả thiên tai, ấy là bọn hải tặc. Bọn chúng đã cướp bóc, hành hạ, hãm hiếp, bắt cóc, thủ tiêu không biết bao nhiêu thuyền nhân.

Trước thảm trạng đó, lương tâm nhân loại hầu như vẫn ngủ im lìm.



Tôi thường nghe chuyện thương tâm, đau đớn về thuyền nhân nhưng trong lòng chẳng may may xót thương, lo lắng. Bởi những người chịu thảm trạng đó chẳng ai là ruột thịt của mình. Nên bình chân như vại.

Cả đến những công cuộc lạc quyên giúp đỡ trại tỵ nạn, tiếp tế cho thuyền nhân, cứu vớt người vượt biển, các công tác xã hội, у tế để an ủi đồng bào kém may mắn, tôi cũng đều không tham gia, không đóng góp làm gì.

Tôi nghĩ rằng nhu cầu thì nhiều, mình có giúp cũng như muối bỏ biển. Hai nữa, nếu tôi giúp thì tiền ấy liệu có đến tận tay nạn nhân hay lại trôi dạt phương nào ? Ngoài ra, quanh tôi còn biết bao nhiêu kẻ tiền rừng bạc bể đã thấy nhúc nhích đóng góp gì đâu?

Với các tôn giáo như Phật Giáo, Công Giáo. Tin Lành, tôi ít khi lai vãng tới chốn tôn nghiêm. Thôi thì bên cha cũng kính, bên mẹ cũng vái, mình bận rộn quanh năm, đâu có thời giờ đi lễ bái. Chưa lần nào tôi đóng góp cho chùa để cầu phước, cầu an. Còn những hoạt động xã hội, Phật tử, tôi lại càng không mấy quan tâm ủng hộ.

Những ngày Quốc Hận,
cộng đồng tổ chức kỷ niệm ngày bỏ nước ra đi, bày tỏ niềm nhớ quê hương, xót xa thân phận những người ở lại, những người bị đày ải giam cầm hành hạ nơi các trại cải tạo tập trung hàng đêm không ngủ, bằng chương trình họp mặt văn nghệ để nung nấu ý chí hờn căm phục hận, mong một ngày về thì tôi cũng nhớ đấy nhưng nghĩ có tham gia thì chưa chắc đã chết thằng Cộng Sản nào cho nên nằm nhà nghỉ khoẻ để còn giữ sức đi cầy.






Những đám mít-tinh, biểu tình lên án chế độ Cộng Sản đã được nhiều giới tham dự, dù trời gió trời mưa, dù phải lái xe hàng bẩy chục dặm đường mới đến nơi, dù phải nghĩ việc một buổi làm, dù có người già vẫn chống gậy lẽo đẽo theo con cháu, dù có kẻ con thơ bế ẵm trên tay cũng cầm thêm được lá cờ quốc gia để bày tỏ lập trường. Các đài truyền hình địa phương đã quay những cảnh hội họp và chiếu trên ti-vi, tôi vẫn theo dõi đầy đủ cả đấy chứ !

Lớp người trẻ sang đây rất dễ hội nhập với cuộc sống Âu Mỹ mà có cái lạ làm sao họ vẫn thiết tha với Việt Nam.


Bằng cớ là
chính lớp trẻ thường đứng ra tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương, kỷ niệm các bậc anh hùng hào kiệt, đảm trách Chợ Tết, lo văn nghệ liên trường, tổ chức văn nghệ đấu tranh, mở các lớp dạy Việt Ngữ cho thiếu nhi, làm báo, sinh hoạt tập thể. Họ làm việc rất hăng say, dù ít người được người lớn làm cố vấn, yểm trợ, tiếp sức.

Họ làm việc với tinh thần của tuổi trẻ, với trách nhiệm tự đề ra, với lòng nhiệt thành và tình yêu mến quê hương đã tiềm tàng trong dòng máu.


Những khi đi dự lễ, đi coi chương trình văn nghệ do sinh viên tổ chức, nhiều lúc tôi cũng xúc động đến tràn nước mắt vì được nhìn lại hình bóng cố hương qua các màn ca nhạc kịch vui tươi, được nghe lại những âm điệu với tiếng hát lời ca quen thuộc xa xăm, được theo rõi múa lân, ông địa, trống phách rộn ràng linh động, được trò chuyện gặp gỡ bạn cũ mới đồng hương. được sống lại một mảnh đất quê hương trên đất nước người.

Những giây phút ấy, thực tình là tôi quyến luyến Việt Nam, vui với cái vui tập thể.

Rồi khi chia tay, cuộc sống thực tại lại kéo tôi về với bổn phận riêng tư. Rồi mọi chuyện lại chìm sâu vào quên lãng mơ hồ.

Đôi lúc nghĩ quẩn nghĩ quanh, tôi không biết tôi là Việt Nam hay là Mỹ nữa...






Đời sống bên những vòi xăng, lốp xe, kìm khoá. dầu nhớt tuy không quá nặng nề nhưng tuổi đời chồng chất mỗi năm một tuổi như đuổi xuân đi, nó làm cho tóc ngả muối tiêu, mắt mờ chân chậm, còn hai cánh tay lực sĩ kiến càng ngày nào nay chỉ là hai que củi tong teo, bê cái lốp xe thấy như bê cối đá, dù cái lốp xe vẫn nặng có bấy nhiêu thôi...

Thế là tôi biết tôi đi xuống, tinh thần thể xác yếu nhiều. Nếu không mau tìm đường thoát thì chắc chắn có ngày sụm bà chè, tôi quỵ tại cái tỉnh nhỏ đêm buồn này lúc nào không biết...

Nhân một chuyến ngao du dịp hè qua tiểu bang Tếch-Xịt, tá túc nhà Hoán Tàu tại Houston, hắn nghe tôi tả oán cuộc sống lam lũ vất vưởng nên động tâm bồ đề trắc ẩn ra tay cứu vớt. Lại được bà vợ hắn rất dễ chịu dễ thương đồng ý sẵn lòng cưu mang bao bọc cho nên gia đình tôi quyết định bỏ nghề bơm xăng ở Florida để đi Texas làm nghề quét chợ.

Quyết định mau lẹ đến nỗi lúc đi chào bạn bè ở đơn vị chót, ai cũng cười tình cho là tôi rỡn chơi chứ đi đứng vào cái khổ nào. Tôi phải làm ra bộ nghiêm nghị đứng đắn, thề thốt dăm ba-phùa, lúc đó anh em mới ngỡ ngàng chia tay từ biệt ngẩn ngơ.

Sự ra đi là chẳng đặng dừng, chứ đất nước người, nơi nào cũng vậy. Đất mát thì cò đậu. Nhẩy lắm cũng mệt, dù là nhẩy... đầm! Vậy mà tôi phải rũ áo Amoco ra đi là chuyện không làm sao hơn được.

Về Houston, sau thời gian mấy tuần lễ ở nhà Hoán Tàu đớp hít thả dàn, tôi được Hoán Tàu giới thiệu với xếp lớn UTOTEM là mông-sừ Lê Phú Thịnh.

Dăm bữa sau, xếp Thịnh cho gia đình tôi quản trị một tiệm Utotem nho nhỏ. Thế là tôi lại có chân đứng khá vững vàng, có nghề ngỗng kiếm ăn. Bỏ nghề bơm xăng qua nghề chạp phô, tưởng giã từ xăng nhớt, ai ngờ nó vẫn cứ lẽo đẽo theo đuôi.

Tiệm chạp phô này, ngoài các mục bán hầm bà lằng đồ ăn thức uống, vật dụng linh tinh, còn bán cả xăng “rề-gu-la” “ân-lít” .

Tôi lại phải kiêm nhiệm luôn vụ đo xăng, bấm máy, báo cáo xăng hàng ngày. Chỉ có điều là không phải giãi nắng dầm mưa đứng tựa cây xăng nhìn trời mây non nước, còn thì trách nhiệm vẫn cứ như thường.

Ba năm ròng rã làm mỗi ngày 18 tiếng liên miên, gia đình từng năm bảy lần bị Mỹ Trắng, Mỹ Đen, Mể cầm súng ngắn, súng săn vào tiệm dơ súng bắt nạp tiền, có đứa lúc rút lui còn bắn pằng pằng lên trần nhà, giống như cao bồi trong phim xi-la-ma vậy. Vợ con xanh máu mặt, khóc ròng vì những cú “hít-cốc” .lạnh người.

Nhân lúc nhận định tình hình chạp phô người khôn của khó, lắm chuyện phiền hà, gia đình tôi lại thêm một phen giã từ vòi xăng, máy tính chạp phô để xoay nghề khác. Bỏ thì thương, mà vương thì... hãi ! Dầu gì cũng xin cám ơn thành phố có chạp phô, đã nuôi mình no đủ.

Làm nghề chạp phô cốt sao
nhận hàng cho đủ. bán hàng đúng giá, bày hàng cho đầy cho đẹp, giữ gìn cửa tiệm ngăn nắp sạch sẽ, tiếp khách niềm nở ân cần, thi hành chu đáo các chỉ thị của hãng, kiểm hàng không thiếu hụt quá mức ấn định, thế là tà tà kéo dài ngày giờ lao động dễ thương.

Điều quan trọng nhất là giữ sao trong ấm ngoài êm, chớ có nổi nóng gây lộn, súng ống đì đùng gây án mạng thương tích.

Mọi chuyện cứ là [color=]“thân trọng thiên kim” [/color]chịu đựng, bình tĩnh để tránh nguy hiểm khi bị cướp đến viếng tiệm.

Lúc nào rảnh tay, buồn chân thì ta vận động thể dục thẩm mỹ bằng cách cầm cái chổi chà, cái hốt rác ra sân trước chợ, quét dăm ba cái rác rưởi chai lọ giấy gói, sao cho thẩm mỹ quan tươm tất. Cho nên gọi nghề “chạp-phô” tức nghề “quét chợ” hay “lau chợ” là vậy.






Bỗng dưng bỏ tiệm, không mau tay là thất nghiệp như chơi. Tôi xoay ra đi làm công cho một tiệm bách hoá Mỹ. Lại cũng phải nhờ đến tay Hoán Tàu một keo nữa, bởi hắn có mấy năm thâm niên mần việc tại nơi này.

Cuộc đời tỵ nạn bảy năm, nghĩ cũng cám cảnh thiên địa phong trần, thấm thía cái buồn hải ngoại thương ca, tôi lại nổi hứng mần một mài thơ tức cảnh sinh tình, tự vịnh như sau:

Chẳng phải là ông, chẳng phải thằng

Khôn khôn dại dại múa lăng nhăng

Ba mùa hạ héo đi lau chợ

Bốn độ thu tàn đứng đổ xăng

Chữ nghĩa phất phơ sinh loạc choạc

Học hành lẩm cẩm hoá lai căng

Kèm nhèm mắt mũi, đầu thêm bạc

Lủi thủi ra vào, hết tháng năm...


Lâu lắm không có tin tức gia đình, một bữa tôi nhận thư của chú em nói bóng gió rằng vợ chồng nó cùng thằng em thế nào cũng sang thăm các cháu bên này. Nghĩa là chúng nó tính đường vượt biển tìm tự do. Qua được đảo, có ông anh bảo trợ vào Mỹ thì yên chí rồi.

Chú em tôi tốt nghiệp kỹ sư, vợ nó giáo sư, lấy nhau mới được một, hai năm chưa con cái gì. Cậu em kế độc thân, có bằng dược sĩ.

Dẫu là “ sĩ ” hay “sư” thì dưới chế độ Cộng Sản, bằng cấp cũng như tờ giấy lộn. Đời sống luôn luôn bị đe dọa, cả vật chất lẫn tinh thần, nói chi đến tương lai mù mịt.

Chúng nó quyết tâm đi tìm tự do và biết rằng chuyến ra khơi nào cũng đầy bắt trắc, hiểm nguy. Từ khi nghe tin nhà, tôi đâm ra lo lắng, không biết chúng nó đi đứng ra làm sao. Đồng thời, tôi cũng phải chuẩn bị chỗ ăn chỗ ở cho chúng nó sang nữa chứ.

Thế là mấy cha con tôi, nhân cơ hội sắp tiếp đón cô chú tỵ nạn, bèn ra tay sửa sang lại cái “ga- ra” cho sạch sẽ, nối ống dẫn hơi lạnh, đổ thêm bông cách nhiệt trên trần nhà, gắn thêm đèn, kê thêm giường, bàn ghế, cứ у như các cô chú ấy đã đến đảo, chỉ vài ngày nữa là qua Mỹ vậy.

Tôi theo rõi tin tức Việt Nam, theo rõi tình hình đi biển, tình trạng thuyền nhân bên đảo Mã, đảo Thái, bám sát các hoạt động cứu trợ quốc tế.

Rồi tôi nhận được một điện tín từ Việt Nam, nói ý rằng hai em trai và em dâu đã lên thuyền. Tôi bồn chồn xúc động, nửa mừng, nửa lo, tối nào cũng thắp nhang chắp tay niệm Phật.





Qua ba tuần lễ, tôi không thấy tin tức gì. Đợi đến hơn một tháng, vẫn tuyệt vô âm tín. Một bữa đi làm về buổi chiều, tôi nhận được lá thư từ đảo gửi sang, hồi hộp như muốn vỡ tim.

Đúng là thư của chú em tôi rồi, mà sao bì thư lại đề tên người khác. Tôi xé vội thư, đọc vài hàng xong choáng váng mặt mày té xỉu. Vợ con giựt tóc, đổ thuốc, khóc lóc gọi ầm ĩ làng xóm mãi mới tỉnh. Người viết thư là một thuyền nhân, cùng đi chuyến vượt biển với các em tôi, sống sót tới đảo, nhờ có địa chỉ em tôi dặn dò trước nên báo cho hay rằng cả ba đứa đều chết trên đảo san hô như báo chí có lần đăng tải.

Chiếc thuyên trôi dạt vào đảo, không thức ăn, không nước uống, rồi phải ăn thịt người để sống. Các em tôi là các nạn nhân cuối cùng, trước khi có tàu lớn phát giác tiếp cứu mấy người sống sót.

Coi xong thư, tôi như kẻ mất hồn, như điên như dại. Bỗng chốc mất đi ba kẻ thân yêu. Các em tôi dư biết về hải tặc cướp bóc, hãm hiếp, chém giết, vậy mà chúng nó vẫn chấp nhận để mong vượt thoát. Nhưng các em tôi không bao giờ lại có thể ngờ rằng sẽ bị phơi xương trên đảo san hô cả. Và không có đứa nào thoát nạn để ít ra còn được một người đến bến Tự Do .

Từ khi chịu cái tang đau đớn đó, tôi bắt đầu suy nghĩ về nhân quả, nghiệp chướng, luân hồi, sắc sắc không không. Tôi thấy mình có trách nhiệm về cái chết của các em. Nếu tôi không làm tôi mất nước thì đâu đến nỗi các em tôi phải vượt biển để chết thảm thương trên đảo san hô định mệnh.

Cũng từ đó, tôi cảm thông được với những đớn đau của tử biệt sinh ly, biết thế nào là đùm bọc yêu thương, hiểu thế nào là tình đồng bào một nước.

Và ngày rằm, mùng một lên chùa lễ Phật nghe kinh, tôi cảm thấy tâm hồn như được vỗ về, an ủi, vơi đi rất nhiều khổ não ưu phiền của tục lụy trần gian...

Còn tiếp ,

hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (12-14-2020)
Old 12-16-2020   #322
hoathienly19
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 1,444
Thanks: 2,311
Thanked 1,686 Times in 782 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 24 Post(s)
Rep Power: 8
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default CHƯƠNG 13


CHƯƠNG 13



Dẫu được nghe kinh và thành khẩn chiêm bái hình ảnh từ bi bác ái của đức Phật tỏa ánh đạo vàng như thế, nhưng qua làn khói hương nghi ngút chốn tôn nghiêm, tôi vẫn thấy ẩn hiện những đôi mắt nhìn mình không chớp.

Những đôi mắt
mòn mỏi đợi chờ của mẹ của cha, những đôi mắt căm hờn của bạn bè trong trại cải tạo, những đôi mắt ngơ ngác của bầy em thơ dại, những đôi mắt khiếp đảm của thuyền nhân, những đôi mắt tuyệt vọng của bắt cóc, hãm hiếp, những đôi mắt cầu cứu của người ở đảo...

Những đôi mắt ấy hình như nhìn tôi trách móc, như khinh bỉ, như oán than, như kết tội, như có ý bảo rằng nếu không có những kẻ tồi tệ, ươn hèn, đốn mạt như tôi thì đâu có đến nỗi nước mất nhà tan, sẻ đàn tan gánh, đâu đến nỗi đau thương uất hận ngút trời !

Những đôi mắt ấy theo tôi cả trong lúc ăn, lúc ngủ, trong lúc tôi khiêu vũ, đánh bài.

Những đôi mắt ấy ám ảnh tôi ray rứt, triền miên như các chứng nhân theo sát một tội đồ.

Rồi đến một hôm, nhân đọc cuốn sách “ Cõi Tự Do ” của Giao Chỉ, tôi biết đích thực trăm phần trăm không còn chút gì ngờ vực nữa.

“ Rằng chính tôi là một trong những thủ phạm làm mất nước .”







Tôi vẫn ao ước được quen biết với giới văn nghệ sĩ - nhất là nữ giới - nên khi có ai nhờ vả chuyện gì tại địa phương thì lấy làm vinh dự lắm. Như đưa truyện, thơ, nhạc, báo tới các tiệm sách nhờ phát mại giùm, lâu lâu đảo qua đảo lại xem tình hình tiêu thụ tới đâu thì liệu thu tiền chuyển về tác giả.

Như khi nào có các nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ, nhiếp ảnh gia, chủ báo... tới địa phương thì làm thổ công chùa hướng dẫn thăm viếng loanh quanh. Và được chụp hình màu chung với quý vị ấy thì thực là lưu niệm để đời, sướng không chịu được. Để ít ra đời con, đời cháu mình còn được nhòm hình mình một thời văn nghệ.

Giao Chỉ với tôi khác nhau một trời một vực.

Lẽ tự nhiên, tôi là kẻ ở dưới vực. Cứ xét hồ sơ quân ngũ thì rõ :

Ông này đi lính, xuất thân Đà Lạt nên tự nhận là lính trận và có bút hiệu “ Lính Chiến ” . Còn tôi, sinh viên sĩ quan Thủ Đức hùng anh - như lời bản nhạc của trường - nhưng về binh sở nên gọi là “ Lính Văn Phòng ”.

Giá trị của Lính Chiến nghe vẫn oai hơn là Lính Văn Phòng rồi nhá. Ông này ở nhà binh, đóng tới lon đại tá là làm lớn lắm, ba bông màu bạc chớ bộ. Còn tôi, lèo tèo hai bông mai vàng bé xíu xìu xiu.

Tôi có mỗi cái tên cúng cơm đem ra làm chuẩn mọi mục đề, còn ông này nào Hồng Hà, Lính Chiến xong lại lấy bút hiệu Giao Chỉ - đại diện cho cả dân An-Nam ta thời xưa nữa - thế là bao quát vấn đề lắm.

Cứ xét về hồ sơ quân bạ như rứa, hai bên khó lòng ngồi chung với nhau. Hơn nữa, ông này lại viết báo, viết văn lừng lẫy một cây xanh rờn, tôi rất hãi và khép nép tránh xa.

Đùng một cái, trên bàn giấy của tôi có cuốn “ Cõi Tự Do ” do tác giả gửi tặng. Lòng ưu ái ấy, kèm theo cái chỉ thị nghiên cứu tình hình địa phương tẩu tán dùm ít sách, tôi chưa phúc trình thượng cấp vụ bán sách, vì mải mê đọc cuốn sách mới ra lò xem nó ra sao.

Cuốn sách được giới thiệu là tác phẩm tiêu biểu cho 8 năm sinh hoạt cộng đồng, khi người lính “giá súng” để chiến đấu bằng cây bút có lửa, thiên hùng ca tặng QLVNCH... và còn nhiều nữa. Tác giả viết về cuộc sống phiêu bạt giang hồ của một nhóm gia đình đi từ miền Đông qua miền Tây để tìm chút nắng ấm quê hương qua mái tóc đen, mớ rau muống, cọng giá sống, lá rau dấp cá, để đứng bên này đại dương vời trông cố hương xa cách muôn trùng, để tìm về kỷ niệm...

Giao Chỉ phê bình một cuốn sách của tác giả Nguyễn Cao Kỳ, và theo thứ tự thời gian kể những chuyện về quê hương, chiến tranh, đời sống tỵ nạn với khá nhiều vấn đề phức tạp.

Báo chí đã có những bài điểm sách, ca ngợi nhiệt tình. Lại có các nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, nhạc sĩ phát biểu cảm tưởng kịch liệt.






Tất cả những bài trong cuốn sách tôi đều yêu. Yêu vì sự chân thực, nhiệt tình và phong cách. Nhưng điều mà tôi yêu nhất, khoái nhất với riêng tôi, là bài “Ngôi Trường Cũ”.


Tác giả nhớ về Khóa Cương Quyết Đà Lạt 1954,
những ngày thụ huấn gian lao, những kỷ niệm vui buồn quân ngũ, những kẻ còn người khuất, những kẻ lạc loài... Ngày họp mặt Hội Ái Hữu Cựu SVSQ Đà Lạt với các đàn em tại xứ người, niên trưởng Giao Chỉ cùng anh em ôn lại chuyện cũ tích xưa.

“Chả hiểu đàn anh ra trường làm ăn ấm ớ thế nào mà nước non cùng quân lực tan tành trong khoảnh khắc.”

Rồi đoạn chót, Giao Chỉ nhắc anh em cố giữ lấy “chút tình cốt nhục” để “làm sao mà gắn thành một khối.”

“Và nếu sau này, có ai tổ chức “Hội Những Người Làm Mất Nước” cũng xin vui lòng kết nạp tôi làm hội viên, bởi vì khi ta đã từng học ở ngôi trường cao cả ấy thì chắc chắn hôm nay phải chỉa sẻ nỗi nhục nhằn dù là với tư cách của kẻ thất phu.”

Mấy hàng chữ chót của trang 132 đã khiến tôi nhảy tưng tưng lên như vừa khám phá ra cái gì mới lạ.

Đây rồi, ông này nói rằng thì là ai lập hội “Những Người Làm Mất Nước” thì cho ông ấy vào một chân.

Cái ý tưởng viết về một bài tố khổ, tả oán chính mình làm cho đất nước đi đoong thì tôi đã có trong đầu từ mấy năm nay mà chưa dám nói ra đấy thôi. Nay được lời như cởi tấm lòng, đã có Giao Chỉ nổ pháo lệnh rồi thì mình a-la-xô xung phong làm lẹ đi chứ, kẻo có người khác lẹ mồm nhận họ là kẻ làm mất nước thì mình làm quái gì còn cái chi chi để nói nữa bi giờ ?

Cho nên, như một mớ lửa rơm nổi cháy phừng phừng, tôi viết “ Tôi Làm Tôi Mất Nước”. Đó là lý do tại sao có loạt bài này.

Lại nói về đọc “Cõi Tự Do”, tôi là thứ lửa rơm nên cháy một chút xong là tịt ngúm.

Cuộc đời trước mặt vẫn chỉ là áo cơm cơm áo nhọc nhằn, nên ngày nghĩ, thay vì tham gia công tác xã hội, sinh viên, đoàn thể, cộng đồng thì tôi lại tìm niềm vui bên cạnh cái cần câu, ra ngoài biển thả hồn về Vũng Tàu, Cam Ranh, PhúQuốc, Nha Trang, Đà Nẵng...

Và lại mần thơ tựa một nhà thơ hải ngoại thương ca vọng về cố quốc mà ruột rối tơ tằm, não nề tâm sự đầy vơi:







Sương Khuya


Một mình bên ghềnh đá

hững hờ buông giây câu

mênh mang trời biển cả

xôn xao sóng bạc đầu

nhấp nhô thuyền mấy lá

trôi dạt biết về đâu

trời chiều đùn mây toả

chập chờn cánh hải âu

lạc loài trên xứ lạ

nhìn nước cuộn lòng đau

nước dập vùi tàn phá

nước chia cách địa cầu

nước ngăn tình đôi ngả

nước khơi mối thảm sầu

cố hương vời vợi quá

nhớ nhung gửi về đâu

quê nghèo xưa vất vả

nắng mưa phận dãi dầu

đất cầy thơm lúa mạ

nhọc nhằn tấm ảo nâu

gái quê hồng đôi má

xinh xinh giấc mộng đầu

giọng hò ru lơi lả

đong đưa mấy hàng cau

bờ tre xanh bóng lá

nong tầm thương cành dâu

sáo diều nhà ai thả

trẻ đùa bên lũ trâu

chim hót ngoài mái rạ

đàn cò lội trắng phau

khói lam chiều nhẹ tỏa

lối mòn vương ánh sao

đã xa rồi tất cả

thân ga kiếp con tàu

cánh bèo trôi nghiệt ngã

nước vẫn chảy qua cầu

gió lạnh hồn băng giá

sương khuya tóc ngả màu

ta nhìn ta khác lạ

người cũ tìm nơi đâu

những mảnh đời tơi tả

bao giờ còn thấy nhau ?







Thế là, không như tôi tưởng, rằng Giao Chỉ Vũ Văn Lộc và tôi xa cách nhau muôn trùng cả về cấp bậc lẫn uy danh lại có thể ngồi chung được với nhau, thì hôm nay đây, hai quân trường Đà Lạt - Thủ Đức đã thành liên trường.

Hai cấp Tá - Úy đã là huynh đệ chi binh vì mình cùng chung đời lính, thương nhau khác chi nhân tình. Hai kẻ viết lách, một “ nhà văn ” và một “chòi văn” đã cùng chung lối về xóm nhỏ. Và nhất là cả hai đều có tư tưởng hùng vĩ trùng hợp у chang, tự nhận mình là kẻ đã làm mất nước, dám nói khơi khơi bằng văn tự thì kể như anh em nhà binh chúng tôi từ nay trở thành những kẻ khác hội cùng thuyền.

Từ đó suy ra, chúng tôi cùng chung chiến tuyến. Đại Tá Giao Chỉ đã tiếp tế cho tôi một chút xăng vào ngòi bút để khi viết họa may có chút lửa. Nếu không có lửa, ít ra cũng bay lên tí khói.

Nhòm vào sinh hoạt văn học nghệ thuật hải ngoại, từ khi mất nước đến nay, giới văn nghệ sĩ đã đóng góp tuy chưa nhiều nhưng cũng khá bộn.

Bộ môn nào cũng hướng chủ đề về quê hương đất nước mến yêu, về hình ảnh ba miền Huế- Saigon- Hà Nội, về người chiến sĩ Cộng Hòa dũng cảm, về những trại cải tạo tù đày, về những chờ đợi của người ở quê nhà mong ngày giải phóng Việt Nam, về những tâm tình của kẻ ở người đi ngậm ngùi thương nhớ, về những hy vọng phục quốc, nối lại tình người...

Như Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo, Tạ Ty, Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh, Phạm Cao Dương, Bùi Văn Bảo, Nguyễn Đông Thành, Phan Lạc Tiếp, Phạm Kim Vinh, Võ Phiến, Lê Tất Điều, Cao Thế Dung, Túy Hồng,Vũ Thụy Hoàng, Nguyễn Ngọc Ngạn, Tưởng Năng Tiến, Võ Hoàng... qua nghị luận, biên khảo, sử liệu, sách truyện, tùy bút..

Như Hà Huyền Chi, Nhất Tuấn, Thanh Nam, Cao Tần, Bội Điệp, Du Tử Lê, Bảo Vân, Hoàng Ngọc Ẩn, Tuệ Nga, Đinh Tuấn, Đào Hữu Dương, Lưu Văn Vong, Bắc Phong, Vũ Kiện, Nguyễn Văn Hưng, Minh Lãng... với những bài thơ chất chứa thành sầu, tha thiết quê cha đất tổ...

Như Phạm Duy, Việt Dzũng, Nguyệt Ánh, Nguyễn Đức Quang, Nguyễn Hữu Nghĩa, Phan Ni Tấn, Huỳnh Công Anh, Khúc Lan, Hà Thúc Sinh, Trần Lãng Minh, Lê Uyên Phương, Trần Quan Long... với những nhạc phẩm nung đúc ý chí đấu tranh để có một ngày về...

Như Hoàng Oanh, Hoàng Tường, Diễm Chi, Nguyễn Thanh, Tuấn Minh, Châu Đình An, Hoàng Long, Quỳnh Như đã khơi ngọn lửa hồng mỗi người tỵ nạn để tích cực hăng say tham gia phục quốc...

Như một Trần Cao Lĩnh
đi khắp bốn phương trời, hành trang chỉ là những tấm ảnh quê hương để cho đồng bào được nhìn rõ đền thờ Quốc Tổ, hình ảnh ba miền đất nước Việt Nam, nếp sống dân tộc cần cù, nhẫn nại, hiếu hòa, những cảnh đẹp hơn tranh vẽ.

Đó là tình tự dân tộc, là tổ quốc chúng ta. Hãy nhớ quay về.






Và còn biết bao nhiêu hoạt động khác của hội đoàn, của sinh viên, của cựu quân nhân, của phụ nữ, các vị lão niên, của giới thông tin, báo chí, phát thanh, điện ảnh, truyền hình, của các phong trào, lực lượng... vẫn ngày đêm ấp ủ tình đoàn kết, tình đồng bào, cố vun bồi cho gốc nhà Nam được vững vàng dẫu rằng nay sống đất tạm dung.

Nhìn vào các hình ảnh tập thể, sinh hoạt mạnh mẽ và đầy tin tưởng như thế, tôi tự nhận thấy rằng ngay cả lúc bỏ quê hương đi tỵ nạn, tôi cũng không đóng góp được gì cho đại cuộc, trái lại vẫn còn cái đầu óc nhỏ nhen tự ái, khoe khoang, chỉ trích, bất hợp tác, tiếp tục làm những điều lăng nhăng cà chớn.

Đã một lần mất nước, nay không hối hận, ăn năn chuộc tội mà còn kéo cho dài thêm ngày về thì quả là tội tôi lớn lắm.

Khi nhìn rõ chính mình, thời gian đã vùn vụt hơn chín năm quê người lưu lạc. Dẫu muộn còn hơn không, tôi cần phải tham gia hội hè như Giao Chỉ đã khơi mào, để làm một cái gì chuộc tội.

Hội đó có tên: “ Hội Những Người Làm Mất Nước. ”

Mỗi khi lập hội, những người chủ trương thường nhắm vào các mục đích cao cả đầy lý tưởng, hoặc đa mang tinh thần tương trợ tương thân tương ái, hoặc đầy ắp cử chỉ xã hội học đường, hoặc liên quan đến tôn giáo vinh danh, hoặc đồng nghề nghiệp, hoặc cùng hàng xóm láng tỏi xưa kia, hoặc cùng họ cùng hàng cùng tổ, hoặc cùng thú vui chơi văn nghệ văn giềng tài tử, hoặc độc đáo riêng tư giới hạn, hoặc nhân đạo vị tha công bình bác ái, hoặc vân vân và vân vân...

Như “hội kín” là một thứ hội bàn các chuyện bí mật, hành tung nguy hiểm, nguyên tắc là kín như bưng nhưng nhiều khi bị “ hở ”, thế là vỡ mặt. Như hội “ ái hữu ” tự nó có định nghĩa thương nhau cởi áo cho nhau, lá lành đùm lá rách.

Như hội “ ái hữu cựu học sinh ”, hội ái hữu cựu sinh viên, quây quần các người cùng chung dưới mái nhà trường hoặc quân trường. Nhà trường như Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Trưng Vương, Gia Long, Hồ Ngọc Cẩn, Lê Bảo Tịnh, Pétrus Ký...

Quân trường như Huế, Nam Định, Thủ Đức, Đà Lạt, Nha Trang, Vũng Tàu... Như hội “ Phủ Giày ”, hội “Thánh Mẫu”, hội “ La Vang ” ...






Như hội у sĩ,
hội nữ hộ sinh quốc gia, hội võ thuật, hội ngân hàng...

Như hội đồng hương
Nam Định, hội tương tế Hà Đông, hội tương tế Quảng Ngãi...

Như hội
Lê tộc, Nguyễn tộc, Trần tộc, Đinh tộc...

Như hội ái hữu
nghệ sĩ cải lương, hội văn nghệ sĩ, hội điện ảnh, hội nhiếp ảnh, hội tao đàn, hội bát âm, hội chèo cổ Bắc Phần...

Như hội
cờ tướng, hội đua ngựa, hội sư tử, Thanh Thương hội, Quốc hội...

Như hội bạn
người cùi, hội bạn người câm, hội bạn người mù, hội bạn người điếc, hội hoa tình thương, v.v...

Cứ phác họa sơ sơ như thế, thì chỗ nào có người thì chỗ ấy có hội. Các hội đã hoạt động lớn nhỏ, ồn ào hay âm thầm, phát triển hay thụt lùi tuột dốc, có lẽ chỉ có người trong hội là rành mà thôi.

Hội nào cũng có danh xưng bảng hiệu từ lâu đời, quen thuộc với mọi giới đồng bào bà con cô bác...

Duy có cái hội với tên nghe lạ hoắc là “Hội Những Người Làm Mất Nước” thì chưa có môn bài hành nghề, cũng chưa ai xin cầu chứng tại tòa, cho nên bây giờ xuất hiện tuy hơi muộn nhưng có còn hơn không, muộn còn hơn để cho nó chìm xuồng.

Hội có tuyên cáo trước quốc dân đồng hồ như vầy :

- Nhận định chắc chắn rằng “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Nay nước mất, không trách chỉ ai mà kẻ thất phu phải cúi đầu chịu tội trước mới phải đạo làm dân .

- Nhận định rõ ràng dù mất nước nhưng thực tế và thực thể thì nước vẫn còn đó, trơ trơ hình cong chữ S chứ đâu có suy suyển chút nào.

- Nhận định
tuy không nhìn thấy rõ bàn cờ quốc tế, nhưng thân phận nhược tiểu luôn luôn là quân cờ đổi tốt thay xe bất cứ lúc nào đại cường quốc cần quân bình cán cân lực lượng.

- Nhận định
nghiêm chỉnh rằng từ ngày bỏ nước ra đi, thân phận lưu vong dù ấm no rủng rỉnh, vẫn cứ mơ về chốn cũ người xưa, nhớ nhung chất ngất.

Nhận định đúng đắn rằng :


- Vận nước qua cơn bỉ cực ắt tới thuở thịnh trị thanh bình ca hạnh phúc.

- Nhận định chủ quan rằng :


- “Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn kiến trung thần”,
tổ quốc có lâm nguy mới rõ mặt quân tử anh hùng, mới tỏ tường tiểu nhân phản phúc.

- Nhận định khách quan rằng
luật tạo hóa cũng như luật nhân quả, có trả có vay, đứa nào gây tội thì phải đền tội, không thể lấp liếm, đổ thửa đổ vạ cho ai.

- Nhận định lạc quan rằng
căn cứ vào các nhận định trên, tất nhiên sẽ có một ngày về trên quê hương ta tự do, no ấm.

Nay tuyên cáo :

Thành lập “HỘI NHỮNG NGƯỜI LÀM MẤT NƯỚC”.







Tuy hội có cái tên lạ hoắc như rứa, nhưng cơ cấu tổ chức, điều hành, nội quy, ngoại vụ lại thi hành theo một lề lối rất ư là quen thuộc, hoàn toàn mang tánh cách tồn cổ, hoài cổ và vọng cổ, đầy dân tộc tính.

Hội không có các chức vụ nghe lớn lao, xôm trò như Thống Đốc, Chủ Tịch, Phó Chủ Tịch, Tổng Thư Ký, Ủy Viên...

Hội không họp mũ cao áo dài cổ cồn cà-vạt giầy giầy tây quanh bàn tiệc sâm-banh, khiêu vũ.

Hội không có nhiệm kỳ, không bầu bán chức vị. Hội không tổ chức thành liên danh, thành khối, thành nhóm. Hội không tuyên dương thành tích công trạng, không có ai là cá nhân xuất sắc.

Hội được tổ chức theo chế độ cổ xưa, kêu bằng chế độ xã thôn tự trị.

Chế độ này lấy “làng” làm đơn vị, tự cai quản hành chánh, thuế khóa, công việc xã thôn, có thẩm quyền rộng rãi mà ngay cả đến nhà vua cũng không dám xía vào.

“Phép vua thua lệ làng là vậy”. Theo qui tắc trên, mỗi địa phương tổ chức một hội độc lập, không lệ thuộc và chỉ liên lạc với hội bạn, hay làng bạn, theo hàng ngang mà thôi.

Các vai vế trong làng gồm có tiên chỉ, thứ chỉ, các chức sắc vua ban, ngồi họp trên chiếu cạp điều, loại chiếu nhất.

Các hương chức trên như tân, cựu chánh tổng, lý trưởng, hương trưởng, khán thư, trương tuần, nhiêu, xã... ngồi chiếu hoa hạng nhì, chỗ thấp hơn các vị chức sắc.

Còn mõ làng, ngồi riêng một chiếc chiếu manh, một mình một cỗ.

Dân làng, tức hội viên, được chia thành nhiều hạng:

- Danh dự hội viên :
Là những người tỵ nạn lưu vong nhưng chưa có hoàn cảnh gia nhập hội, đã đôi ba bẩy lần làm tổn thương và mất danh dự của Quân Đội.

- Chính thức hội viên:
Là những người có đơn xin gia nhập Hội và được tối thiểu một trung đội sáng lập viên giới thiệu, ký tên và thị thực đàng hoàng.

- Dự khuyết hội viên :
Là những người có đơn xin nhập hội nhưng chưa đủ túc số giới thiệu, phải lấy số thứ tự chờ đến số mới được kêu bổ túc hồ sơ cứu xét đặc biệt.

- Thân hữu hội viên :
Là những người không nhận làm mất nước nhưng là anh em bà con thân hữu với hội viên, từng liên kết với hội viên làm sụp đổ cơ đồ.

- Bảo trợ hội viên :
Là những người từng che chở, bao bọc, lấp liếm cho hội viên để làm mất nước.

- Tán trợ hoặc hỗ trợ hội viên :
Là những người thường xúi giục, tĩ tê, dụ khị hội viên làm điều phi pháp, hoặc phe lờ ngoảnh mặt cho hội viên quấy nhiễu.

- Định kỳ hội viên :
Là những người chỉ tham gia khi có lợi cho cá nhân, còn khi không sơ múi gì thì tự động rút dù chìm sâu lặn kỹ.

Hội còn có một
“hội đồng cố vấn” gồm đại diện các quốc gia đã gởi quân tham chiến hoặc đóng góp kỹ thuật, у tế, tài chánh, v.v... như Mỹ, Úc, Phi, Đại Hàn, Thái Lan, v.v...






Cạnh hội đồng cố vấn lại có “hội đồng tiểu Liên Hiệp Quốc” gồm đại diện cho các cường quốc từng góp công làm cho Việt Nam ba chìm bảy nổi, vô tình hay cố ý, trực tiếp hay gián tiếp đã tiếp tay cho Cộng Sản làm mất nước Việt Nam: Nga Sô, Trung Cộng, Hoa Kỳ, Pháp, Ăng-Lê , Nhật Bổn...

Thành phần các hội đồng trên, được mời tham gia qua sự giới thiệu của Liên Hiệp Quốc. Hội không có trụ sở chính thức, nên mỗi khi cần hội họp sẽ mượn sân banh, trường học, nhà thờ, nhà chùa, công viên, bãi biển làm nơi tập trung.

Hội viên khi tới họp
không mang cấp bậc, phù hiệu, huy hiệu, không đeo mề-đay cả cụm hay mề- đay toàn cuống, mà chỉ gắn một lá cờ Việt Nam nhỏ trên ve áo.

Hội không có vấn đề
bầu cử, đề cử, độc cử, tiến cử, tái cử. Ai tự nhận thấy mình ở chiếu nào thì vào chiếu ấy.[b][size=3][color=indigo][i]

Hội có mục đích qui tụ đủ mọi thành phần hội viên, cố vấn đoàn, và có trách nhiệm đề cao cảnh giác mọi âm mưu làm phân hóa người Việt Quốc Gia, tạo hoàn cảnh tốt để gây tình đoàn kết, khuyến khích con em học hành tiếng Việt Nam và nói tiếng Việt Nam khi ở nhà, lúc hội họp, tiếp tay cho các hội đoàn trong các chương trình :

- Giỗ Tổ, sùng bái các anh hùng hào kiệt, đề cao lý tưởng quốc gia, hỗ trợ các sinh hoạt xã hội, thể thao, văn nghệ, sáng tác, tham gia cứu trợ thuyền nhân, vớt người vượt biển, ủy lạo người già yếu bệnh tật, thăm nom kẻ côi cút bần hàn.

Và những công tác tương tự có ích lợi cho đồng bào.


Riêng các anh hùng dám bỏ gia đình, bỏ công việc, bỏ tiện nghi để phục quốc, giải phóng quê hương thì Hội xin cúi đầu khoanh tay, câm họng, không dám mời vào Hội.

Tất cả các chức vụ lớn nhỏ trong Hội, các hội viên tự vấn lương tâm và tự tìm cho mình một chỗ ngồi tương xứng trên chiếu làng.

Hiện nay, hội chưa có ai xuất hiện vào cái thuở ban đầu thành lập. Duy có sáng lập hội viên Giao Chỉ và Cai Phúc là hai kẻ trình diện sớm ở trong làng.

Giao Chỉ vốn làm lớn, tội nhiều, chắc sẽ can đảm lên ngồi chiếu cạp điều hoặc chiếu hoa chịu trận.

Phần Cai tôi, nhân Hội còn khuyết chân thằng mõ nên xin nhận làm mõ làng. Cái chức này tiếng thế nhưng rất kêu, vì bản chất là mõ tất phải gõ mõ lốc cốc hô chiêng làng nước lắng tai nghe tin tức, tình hình. Nên mỗi khi cần triệu tập hội hè, Cai tôi sẽ đánh mõ, gân cổ loan tin rõ ràng, chính xác.

Cai tôi theo lệ làng, được một mình một cỗ thảnh thơi ngồi đớp hít. Chức vụ và quyền lợi như thế rất thuận tình, họp lý và công bằng, không chỉ théc méc gì sốt cả...

Đại khái cái sườn của Hội là thế, các địa phương cứ tùy nghi như thế thi hành...


Còn tiếp ,


Last edited by hoathienly19; 12-16-2020 at 08:31.
hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (12-16-2020)
Old 12-17-2020   #323
hoathienly19
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 1,444
Thanks: 2,311
Thanked 1,686 Times in 782 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 24 Post(s)
Rep Power: 8
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default CHƯƠNG 14


CHƯƠNG 14



THAY LỜI KẾT



Đã gần mười năm tôi làm tôi mất nước, ngẫm lại mới như vừa bỏ nước hôm qua. Thời gian trôi mau biền biệt, không giống nhau, không ngừng lại.

Cuộc sống lưu vong mà Giao Chỉ gọi đó là nơi sống không bị cùm kẹp, bố ráp tinh thần mang tên “ Cõi Tự Do” . Cõi đó đúng là “ cõi tự do 100 phần trăm ” của nhân loại văn minh, nhưng cõi đó cũng còn mang nhiều cái tên tùy theo từng tâm trạng.

Cõi đó còn là “ Cõi Mơ Hồ ” , cái ta có ta không, ta là ai, ai là ta và chẳng ai giống ta cả.

Cõi đó như là “ Cõi Buồn ” vây kín chung quanh, chỉ đủ cho ta thở, ta ăn, ta đi làm kéo cầy trả nợ.

Cõi đó là “ Cõi Tiên ” , cõi thiên đàng cho những ai chấp nhận nơi này làm quê hương và quên khuấy đi cái dĩ vãng một thời sinh mạng mình gắn liền vào sinh mạng Việt Nam.

Cõi đó là “ Cõi Ưu Phiền ” của tuổi già quạnh quẽ, lạnh lùng dẫu đây bốn mùa xuân hạ thu đông, mùa nào cũng đẹp như tranh vẽ.

Cõi đó là “ Cõi Mộng ” với những ai ước ao được đặt chân tới miền đất thừa thãi vật chất ấm no.

Cõi đó là “ Cõi Bềnh Bồng ” của những tâm hồn lạc loài cô đơn, như cánh bèo trôi theo giòng nước.

Cõi đó là “ Cõi Nhớ ” chập chùng về những kỷ niệm xa xôi kỳ ảo.

Cõi đó là “ Cõi Tương Tư ” ta ở đây mà tâm hồn lúc ở Saigon, khi Cần Thơ, khi Đà Lạt.

Với cái tôi, ví mình cũng giống như thân phận Thúy Kiều, mà còn khổ hơn Thúy Kiều ở cái điểm là “không hồng nhan mà cũng vướng nhiều gian truân”.

Gian truân từ khi định cư đất lạ đi làm cu- li của đời mưa gió bơm xăng vá lốp lau nhà. Gánh nặng gia đình đè trĩu hai vai, mới biết thế nào là trách nhiệm cụ thể, thế nào là chịu đựng hy sinh cho đàn con khôn lớn.

Rồi lại chuyển bến xoay vần cuốn theo chiều gió, một xe trong cõi hồng trần đi làm ăn phương khác vì nghĩ câu “ đâu cũng là nhà ”.

Qua dăm bẩy tám chín thứ nghề, từ văn phòng bàn giấy, com-lê cà-vạt đến chân bấm giá hàng, dọn kho, lau chợ, còng lưng vẫn gánh nặng đôi vai, vẫn khối buồn đeo đẳng, vẫn canh cánh bên lòng cái tội cái nợ làm mất nước.

Đời sống xứ người càng đầy đủ ấm no bao nhiêu, phong cảnh càng xinh đẹp mỹ miều bao nhiêu, Cai tôi càng cảm thấy chán ngán, dập vùi, lạc lõng bấy nhiêu...

Nên “Cõi Tự Do” này, tôi gọi nó bằng một cái tên khác, ít ra nó đúng với tôi :

“ Cõi Lêu Bêu ” ! Nó vừa lênh đênh bất trắc với tôi, vừa làm cho tôi cứ nhớ cứ thương về quê hương bản quán.

Chốn đó là nơi Cai tôi sinh ra, lớn lên, nửa đời được ăn rau muống với cà, được ê а đánh vần hai tiếng “ Mẹ, Cha ” , được nghe tiếng đại bác ru đêm chập chờn hỏa châu soi sáng tiền đồn, được nằm lều vải cá nhân ôm súng bên đồi sim tím, được ngắm suối reo thác đổ miền cao nguyên trùng điệp, được về miền Tây sông nước bao la cuộc sống hiền hòa, được nghe dân ca, vọng cổ, hát chèo những ngày mở hội, được đọc dòng lịch sử liệt oanh, lẫy lừng của dân tộc Việt Nam, được chứng kiến những thăng trầm của vận nước điêu linh, tang tóc...

Thất phu hữu trách, nên Cai tôi cũng trách nhiệm như ai .
Nay xin làm thân mất nước ráng làm một cái gì trong cõi lêu bêu, cõi tự do này để chuộc tội.

Nếu chuộc tội kiếp này chưa xong, thì kiếp sau còn dịp tái sanh duyên, xin lại được làm người. Và làm người Việt Nam để vẫn còn tiếp tục chuộc tội với lương tâm, với gia đình, với bạn bè, với tổ quốc...

Được vậy, khi hai tay buông xuôi nghỉ nơi nghĩa trang quân đội, Cai tôi sẽ yên tâm nhắm mắt mà cười khì khì, coi như đã thi hành xong nghĩa vụ quân dịch, trang trải nợ nần, rũ sạch bụi đời, thoát nợ trần gian và khò khò vùi sâu giấc cuối...






(Houston, Texas / 1984)

hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (12-17-2020)
Old 12-23-2020   #324
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,408
Thanks: 21,690
Thanked 38,200 Times in 12,887 Posts
Mentioned: 636 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7247 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Cô Giáo Miền Nam, Học Trò Miền Bắc



Hơn 30 năm sau, họ mới gặp lại nhau trên đất Hợp Chủng Quốc. Cô giáo nay đã già. Học trò cũng không còn trẻ nữa. Cô dĩ nhiên không nhận ra trò, nhưng trò đã nhận ra cô. Và cô giáo Oanh bỗng nhớ lại tất cả những ngày giờ tai hoạ.
------
- Các đằng ấy ơi, cho tớ chơi với!
Con nhỏ cố nở nụ cười thân thiện nhất năn nỉ ba đứa bạn khác cùng lớp đang đánh đũa trước sân. Một đứa đang định tung trái banh lên, bỗng dừng lại, che miệng cười khúc khích.
- Đằng ấy? Hí! Hí!
Đứa kia chanh chua hơn:
- Ậy, tụi “tớ” chơi dở lắm, không dám chơi với “đằng ấy” đâu.
Cả bọn cùng cười xòa sau câu đùa của đồng bọn. Đứa thứ ba có vẻ biết điều hơn một chút:
-Tụi tao chơi gần hết bàn rồi, để mai rồi mày chơi chung nghe.
Con nhỏ buồn rầu quay lại. Nó biết con kia chỉ nói cho có lệ mà thôi. Ngày mai tụi nó sẽ nói những câu tương tự, hay cũng kiếm những cớ khác để từ chối không muốn cho nó chơi chung. Đây không phải là lần đầu tôi chứng kiến những đứa học trò trong lớp đồng lõa nhau cô lập Vân. Nó là đứa học sinh miền Bắc đầu tiên trong lớp tôi của niên khóa 1976/77.

Nhớ lại sau hôm khai giảng niên khóa mới được hai ngày, tôi đã giật mình lo lắng khi bỗng nhiên bị gọi lên phòng Giám Hiệu có chuyện cần! Chuyện gì? Đối với tình hình bây giờ, bị gọi lên văn phòng riêng rẻ như lúc này là một dấu hiệu không tốt. Nhưng sau khi “tự kiểm điểm”, tôi thấy mình không phạm điều gì sai nên cũng yên tâm đôi chút.

Mụ hiệu trưởng đón tôi niềm nở hơn mọi ngày. Thấy tôi đi vào, một người đàn ông trong trang phục bộ đội với cái nón cối trên bàn ngừng tay vấn thuốc đứng dậy chào. “Đồng chí” Trần Bình, theo lời giới thiệu, là một cán bộ cao cấp từ Hà Nội đang trong thời gian công tác dài hạn tại thành phố Hồ Chí Minh. Vân là con gái ông ta. Con bé hôm đó mặc áo bà ba trắng, quần satin đen, tóc dài và rậm kẹp lại gọn gàng phía sau … Nhìn Vân lễ phép chào, tôi bỗng nghe bỗng nghe một chút xót xa. Quả là một xưởng đúc tuyệt vời! Con nhỏ trông không khác chi một cô cán bộ tí hon. Màu sắc duy nhất trên người con bé là đôi dép rỗ màu vàng nhạt. Đôi dép vẫn còn mới lắm.

Tôi dắt Vân về lớp và xếp ngồi bàn đầu để có thể dễ dàng “chú ý giúp đỡ” như lời cha nó ân cần nhắn nhủ. Bỏ qua những gì bên ngoài, nó cũng khá xinh xắn. Gương mặt bầu bĩnh tuy hơi đen, nói thưa lễ độ. Tuy chán ghét mụ hiệu trưởng đến thậm tệ, không chút cảm tình với người đàn ông trong bộ quân phục chuyên chính màu xanh ấy, tôi vẫn không thấy có lý do gì để ghét bỏ Vân.

Nhưng, bốn mươi mấy học sinh trong lớp tôi lại không nghĩ như vậy. Những ánh mắt kỳ thị ngày càng rõ rệt. Những mái đầu xanh tụm năm tụm ba xì xầm bàn tán. Tôi nghe rõ một lần chúng gọi Vân là “con bộ đội”, kháo nhau “Coi chừng nó cho mày đi học tập cải tạo đó!” v.v và vv…Vì thế mà đã gần tháng, con bé vẫn chưa hội nhập vào chúng bạn, mặc dù nó cũng cố gắng lắm. Tôi tội nghiệp giùm Vân, nhưng cũng không trách được lũ học trò còn lại. Xã hội và hoàn cảnh đã gieo vào đầu óc lũ trẻ thơ ngây những tư tưởng nghi kỵ, oán ghét tất cả những người đã trực tiếp, hay có liên hệ đến sự mất mát trong gia đình chúng. Tôi biết trong lớp có đứa cha là lính Cộng Hòa đã hy sinh đền nợ nước. Một số khác là con em của sĩ quan hay công chức dưới chế độ Sai gon cũ đang bị đi học tập cải tạo tại một vùng hoang vu nào đó, chưa rõ ngày về.

Anh Hai tôi là Đại Úy Biệt Động Quân, cũng khăn gói quả mướp theo lời nửa dụ dỗ nửa đe dọa của chính quyền nay đã hơn một năm. Tin tức duy nhất nhận được là vài lá thư gởi về mà địa chỉ là một hòm thư vô nghĩa. Lá thơ theo một khuôn mẫu nhất định như trăm ngàn cái khác, trấn an và động viên gia đình tham gia lao động, triệt để thi hành chính sách của nhà nước. Chị dâu tôi mòn mỏi trông chờ. Quỹ gia đình thu hẹp, chị phải dấn thân ra chợ trời chụp giựt, tráo trở để kiếm tiền nuôi ba đứa con. Những lúc tôi sang thăm cháu là dịp chị mở bầu tâm sự. Chị nguyền rủa, oán than không tiếc lời với thời thế đảo diên sâu bọ làm người … ngay trước bọn nhỏ.

Cha mẹ đã vậy, con cái cũng dễ dàng ảnh hưởng. Người lớn oán người lớn, thì trẻ con cũng …ghét trẻ con. Dĩ nhiên những mái đầu thơ chưa đủ trí khôn để hiểu thế nào là độc tài, là đảng trị, là mất mát tự do … Đầu óc lũ trẻ như những trang giấy trắng mà lớp cha anh đã vô tình quệt vào một vết đen thù ghét, tị hiềm.

Tôi không ghét Vân như học trò tôi. Trái lại là khác. Tôi biết nó đang bị cô lập và lạc loài giữa một môi trường xa lạ. Nhưng mỗi lần nhìn Vân, tôi không khỏi liên tưởng tới mụ hiệu trưởng hợm hĩnh, lúc nào cũng rình rập các giáo viên. Mụ cũng đi làm bằng áo bà ba trắng, quần satin đen khuôn mẩu đó, ngồi bắt chân lên ghế salon trong văn phòng say sửa giảng chủ nghĩa Mác-Lê. Tôi cũng thấy qua con bé, cha nó hôm gặp mặt. Mặc dù ông ta vẫn lịch sự và nhũn nhặn, tôi cũng không khỏi mang tư tưởng đây là người đã cướp đi tất cả tự do của toàn miền nam, trong đó có tôi.
Không chừng ông ta đã đối diện với anh tôi trong một trận chiến nào đó.
Vân học thua kém chúng bạn rõ ràng. Những môn phải học thuộc lòng, con bé tương đối chu toàn một cách chăm chỉ. Nhưng về toán số thì thật bết bát. Những bài toán đố đơn giản với trình độ học sinh lớp bốn cũng khiến con bé ngồi cắn bút. Tôi cũng không rõ ngoài Bắc nó đã học lớp mấy, nên khi lên gặp mụ hiệu trưởng, tưởng là sẽ tìm hiểu thêm trình độ con bé để xếp lớp cho đúng. Ai ngờ mụ trừng mắt nhìn tôi:
- Chị bảo sao? Vân mà kém toán ư? Vô lý thật. Nó là học sinh tiên tiến, và xong lớp hai ở Hà Nội rồi. Chị cũng biết trung học ở miền Bắc ưu việt chỉ 10 năm thôi là đã tương đương với lớp 12 trong này rồi (mụ hãnh diện). Nếu cứ học ngoài ấy, nó lên lớp ba, là phải bằng… lớp năm trong này cơ đấy. Tôi xếp nó vào lớp bốn của chị để thử, rồi tính sau…
Mụ ngừng một chút lấy hơi, rồi tiếp:
- Chị có theo đúng chương trình không? Tôi muốn xem lại giáo án của chị.
Trời ơi lý luận như mụ thật là độc đáo. Bỏ qua trình độ của hai học sinh tốt nghiệp hệ 10 năm và 12 năm. Nhưng nói một học sinh lớp hai miền Bắc đã tương đương với lớp bốn trong Nam, thì tôi cũng đành chịu. Cơn tức giận trào lên, tôi định cãi. Nhưng câu cuối cùng của mụ làm tôi chột dạ, ngậm bồ hòn nuốt xuống. Nói thêm với người đàn bà này chỉ vô ích. Không chừng mụ lại ghép cho tôi tội phản động, bài bác chế độ … thì mất việc. Đối với hoàn cảnh hiện nay, mất việc là không lao động, là kinh tế mới. Thôi được, mụ là kẻ chiến thắng làm vua, tôi thua phải làm giặc thôi!

Chiến tranh đã qua, Nam Bắc một nhà cùng nhau tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa. Những cái loa thông tin nhai đi nhai lại một điệp khúc cằn cỗi và trơ trẽn. Chỉ một thời gian ngắn, toàn miền Nam đã thấm đòn. Người ta bảo nhau trông thấy Văn Vĩ lái xe Honda dạo mát Sàigòn! Đi đâu tôi cũng nghe bàn tán về những chuyến đi danh từ nói: tàu 3 blocks, máy Yammar đầu xanh, đầu bạc v.v…Chỉ nghe và biết thế thôi, tôi hiểu mình không có diễm phúc tham dự vì gia đình không đủ khả năng tài chánh. Nếu có, ba mẹ tôi cũng phải ưu tiên cho hai đứa em trai đang tuổi sắp đi nghĩa vụ quân sự. Tôi chuẩn bị tinh thần làm cái cột đèn bất đắc dĩ.

Một người bạn tù chung trại vốn là bác sĩ quân y có chuyên môn nên được thả về trong đợt đầu tiên ghé qua báo tin, anh Hai tôi đã ra đi vĩnh viễn. Mấy tháng trước, đúng một năm sau ngày tình nguyện đi học tập cải tạo, anh và một số sĩ quan khác chung cảnh ngộ đã cùng nhau đòi hỏi ban quản giáo nếu họ có tội gì hãy đưa ra tòa xét xử công bằng. Tại sao lừa dối họ nói đi học tập có 10 ngày mà nay đã một năm trôi qua, ai cũng để lại vợ dại con thơ không rõ cuộc sống thế nào, đem thân khổ sai lao động trên những vùng rừng thiêng nước độc mà ngày về tăm tối mù khơi.
Kết quả nhóm sĩ quan đó bị kết tội toan tính chống đối nhà nước, biệt giam với những hình phạt khắc nghiệt. Anh Hai tôi vốn đang bị bệnh, thể chất suy yếu nên không kham nổi, ra đi về miền vĩnh cửu. Anh mất đã mấy tháng rồi nhưng gia đình, cha mẹ, vợ con hoàn toàn không hay…

Tôi lãnh nhiệm vụ qua báo tin dữ cho chị Hai, vì người bạn tù chỉ đến nhà ba mẹ tôi nói vài câu ngắn rồi phải đi ngay. Tối hôm đó, mắt tôi quầng đỏ ấp a ấp úng không thành lời. Chị vẫn bình tĩnh hỏi chuyện gì đã xẩy ra cho anh Hai? Tôi như được mở khóa, khóc òa như đứa trẻ, kể lể. Chị ngồi bất động, không một phản ứng. Nhìn chị, tự nhiên tôi cảm thấy rờn rợn. Người đàn bà trước mặt chỉ hơn tôi hai tuổi mà như xa cách đến hai mươi năm. Chỉ hai năm trời tảo tần nuôi con, nuôi chồng, đã tàn phá dung nhan chị đến độ tàn nhẫn. Nay niềm hy vọng cuối cùng đã tắt. Chị ngồi yên hồi lâu, lẳng lặng đứng dậy bên giường ôm thằng Út lúc đó đang ngủ vùi vào lòng, xua tay ra hiệu cho tôi đi về. Tôi biết mình không thể nói được điều gì thêm. Tất cả những lời an ủi hay khuyên nhủ lúc này chỉ là vô nghĩa. Bước ra cửa, tôi quay lại nhìn và thấy giọt nước mắt đầu tiên của chị rơi trên mặt thằng bé.

*
Hòa bình rồi mà súng vẫn nổ trên khắp mọi miền. Đâu đó vẫn còn có kẻ ngã gục, còn tù tội, chống đối. Suốt hai mươi năm nội chiến, gia đình tôi đã may mắn toàn vẹn. Anh Hai tôi là người duy nhất trong gia đình chính thức cầm súng chiến đấu, nhưng đã trở về với mái ấm gia đình sau lời kêu gọi đầu hàng của cấp lãnh đạo từ tháng tư năm ấy. Nay anh đã nằm xuống, hy sinh trong muộn màng và tức tưởi. Sự ra đi của anh đã tác động vào tâm lý tôi mãnh liệt.

Ngày Sàigòn hoàn toàn rơi vào tay cộng sản, gia đình tôi cũng như tất cả người miền nam dù biết là tương lai bất định, nhưng dù sao cũng còn niềm hy vọng mong manh: hòa bình. Cộng sản hay quốc gia, cũng là người Việt. Giải đất này từ bắc chí nam đã rách nát sau bao năm chịu đựng bom đạn. Đã đến lúc mọi người dẹp hết hận thù, chủ nghĩa, để cùng nhau hàn gắn.

Mọi hy vọng chỉ là cái bánh vẽ to tướng. Dân miền Nam thấm đòn. Đã muộn rồi. Mỹ đã cút và Ngụy cũng đã nhào. Chính phủ mới nắm chặt bao tử người dân qua chính sách hộ khẩu. Hàng ngũ công an dày đặc khắp phố phường làm dân chúng hết đường cục cựa, chỉ còn âm thầm chịu đựng và… nguyền rủa.

Đến bây giờ tôi mới biết thế nào là căm hờn. Thời gian qua, tôi cũng như bao người khác, chán chường một cách thụ động. Nhưng ngoài những mất mát chung, chế độ cũng chưa đụng chạm gì đến gia đình tôi. Nhìn chung quanh, những gia đình với nhiều bất hạnh; những người mất nhà mất cửa từ vùng kinh tế mới trở về thành phố lang thang đói khát không hiện tại không tương lai.. tôi đã thấy thỏa mãn vì hoàn cảnh mình cũng còn sáng sủa hơn bao người khác.

Tôi đã lầm. Sự yên ổn hiện tại của mình chỉ là tạm thời. Chế độ sẽ không chừa một ai khi thời gian cho phép. Cái chết của anh Hai tôi là phát súng khai hỏa đầu tiên. Tôi căm hờn nhìn những cái nón cối, đôi dép râu, khẩu súng AK … những thứ tiểu biểu tượng trưng cho chế độ.

Vân đập vào mắt tôi mỗi ngày qua cách ăn mặc và cái giọng Bắc Kỳ chua chua của nó. Ôi đối tôi, con nhỏ này đã được nhào nặn từ lúc mới sinh ra. Đầu óc nó chắc chứa đầy những …Bác, và đương nhiên khi lớn lên sẽ sẵn sàng chết cho Đảng. Trời ơi, nó sẽ là một con nhỏ cộng-sản!

Trước kia tôi còn thông cảm, giúp đỡ Vân, nay tôi lại ngấm ngầm khoái trá nhìn học trò cô lập “con bộ đội” này (?). Tôi biết mình đã nhỏ mọn và sai lầm khi tự nhiên ghét bỏ Vân, nhưng cái chết của anh tôi như đám mây đen kịt che khuất mọi suy nghĩ công bằng mà một người lớn, có học như tôi phải nhận rõ.

Có lẽ Vân cũng thấy sự thay đổi và thắc mắc lắm. Người duy nhất trong lớp đối xử tốt với nó đã về hùa với đám đông để nó một mình. Vân càng mặc cảm hơn khi biết mình thua kém bạn bè trong các môn học. Đôi khi nhìn con bé ở lại trong lớp lơ đãng nhìn các đứa khác chơi đùa ngoài sân trong giờ giải lao, tôi cảm thấy tội nghiệp. Nhưng rồi hình ảnh anh tôi ngã gục nơi trại cải tạo nổi lên, tôi lại ghét nó thêm.
*
Sau khi vào lớp độ nửa tiếng, tôi được gọi lên phòng Giám Hiệu. Thôi chết! Hậu quả đã đến như tôi lo sợ, nhất là hôm nay Vân vắng mặt.
Sự việc bắt đầu từ tuần trước, khi trong giờ sinh hoạt tôi chọn bài hát “Đêm qua em mơ gặp bác Hồ” cho cả lớp cùng ca. Thay vì câu “râu bác dài tóc bác bạc phơ”, hai ba cái miệng từ cuối lớp gào lên “chân bác dài, bác đạp xích lô” tôi thấy Vân quay lại nhìn thằng Tùng to giọng nhất. Thằng nhỏ không biết tai họa sắp tới, còn làm mặt xấu chọc Vân. Tôi làm ngơ, vội vàng chấm dứt ngay giờ sinh hoạt và để ý Vân. Nhưng con nhỏ không để lộ nét gì khác hơn ra ngoài mặt.
Một tuần qua, tôi hồi hộp sợ Vân lên báo cáo mụ hiệu trưởng. Thằng Tùng chắc chắn bị đuổi học vì tội phản động. Ba mẹ nó ở nhà dĩ nhiên gánh lấy hậu quả. Và tôi cũng bị rắc rối to, nhất là đã lơ qua không xét đến.

Khi lên tới phòng giám hiệu và nhìn vào, tim tôi chùng xuống vì thấy Vân lấp ló trong đó. Niềm lo âu đã thành sự thật! Không còn đường tháo lui, đành đẩy cửa bước vô. Tôi ngạc nhiên vì người đứng dậy chào không phải mụ hiệu trưởng đáng ghét. Người đàn ông là cha của Vân. Ông ta vẫn trong bộ quân phục màu xanh, cái nón cối để bên cạnh như lần đầu gặp gỡ cách đây mấy tháng. Hắn đến đây để bắt tôi ư? Câu hát giễu vô ý thức của một đứa trẻ có thể đưa đến kết quả nghiêm trọng như vậy sao? Tôi thực sự lo sợ.

Cha của Vân không đi ngay vào vấn đề như tôi nghĩ. Ông ta quanh co hỏi thăm tình hình nhà trường học sinh … đủ mọi chuyện. Đôi khi đi vào chuyện cá nhân riêng tôi nữa. Hắn muốn gì đây? Định giở trò mèo vờn chuột ư? Tự ái sùng sục nổi dậy đẩy lui niềm lo sợ lúc ban đầu. Tôi thấy mình đang đối diện với một kẻ thù xảo trá. Hắn đã chiến thắng chúng tôi bằng vũ lực, và nay đang muốn đánh gục tôi bằng tâm lý.Tôi ngang nhiên đối đáp với tất cả niềm ấm ức bấy lâu chất chứa về phương pháp giảng dạy, chương trình, giáo án v.v… và nhất là nhấn mạnh về trường hợp Vân không thể theo nổi các bạn cùng lớp khác. Hắn kiên nhẫn nghe, thỉnh thoảng gật gù. Tôi hăng say bày tỏ tư tưởng không chút e ngại. Tôi cảm thấy sung sướng. Ít ra tôi cũng một lần hiên ngang đối diện với hoàn cảnh.

Khi tôi ngưng nói, người đàn ông nhìn tôi thật lâu, và chậm rãi:
- Cám ơn cô đã cho biết những điều vừa rồi. Quả thực tôi chưa bao giờ nghĩ đến … Dù sao, tôi đến đây hôm nay là để cùng cháu Vân từ giã cô. Tuần tới tôi trở ra công tác tại Hà Nội và Vân sẽ theo tôi ra ngoài ấy.
Câu nói thật bất ngờ làm tôi không tin ở tai mình. Ông ta và Vân gọi tôi lên đây để từ giã, không phải để bắt mình ư? Tôi quay sang nhìn Vân và nghe nó nói:
- Thưa cô, em xin chào cô.
Sự việc xẩy ra làm tôi hơi lúng túng. Thì ra Vân không báo cáo gì về vụ thằng Tùng. Bỗng dưng tôi thấy hổ thẹn. Mình đã ngờ oan, lại thêm đối xử không đẹp với Vân gần tháng qua. Tôi cảm thấy cay cay ở mắt. Bỗng nhiên cái nón cối không còn nằm trên đầu của Vân nữa. Đôi dép râu cũng trở lại nguyên hình đôi dép ny-lông màu vàng nhạt. Trước mặt tôi là một học trò thơ ngây như bao nhiêu đứa trẻ khác. Nhân chi sơ, tính bản thiện. Trong đầu óc của Vân có thể chứa đầy bác và đảng, đoàn và đội, nhưng tất cả cũng chỉ vì nó lỡ sinh ra và lớn lên trong xã hội, trong một chế độ như vậy. Hay đúng ra, Vân cũng như bao kẻ khác, là nạn nhân của chính sách “Vì lợi ích mười năm: trồng cây; vì lợi ích trăm năm: trồng người” mà thôi.

Lần đầu tiên sau cái chết của anh Hai, tôi trở về với bản ngã vô tư của mình. Đành rằng chế độ có nghiệt ngã, đó là chuyện người lớn. Trẻ thơ ở đâu cũng chỉ là những trang giấy trắng. Nếu tôi không thể tô xanh điểm hồng trên những trang giấy ấy, thì ít nhứt cũng không có quyền bôi lọ bằng những giọt mực đen.

Vân đứng khép nép ở góc phòng, sau lưng cha nó, ngượng nghịu cúi gầm mặt, thỉnh thoảng len lén nhìn tôi. Năm năm trời làm nghề giáo, trường hợp học trò nghỉ học giữa niên khóa là chuyện đã xẩy ra. Những lần ấy, tôi thường cảm động nắm tay chúng để nhắn nhủ, cầu chúc em những lời sau cùng. Nhìn đứa học trò bé dại vì hoàn cảnh phải rời ghế nhà trường, tôi thường bâng khuâng khi nghĩ rằng trong lớp từ đây sẽ thiếu vắng một bóng dáng quen thuộc, giọng nói ngây thơ. Nhưng tôi cũng cảm thấy tâm hồn yên ổn vì những ngày tháng qua đã hết lòng thương yêu, dạy dỗ chúng. Đối với Vân lúc này, tôi thấy có sự thiếu sót, một món nợ ân tình với con bé. Tôi muốn chạy lại ôm Vân vào lòng, quên đi tất cả những hận thù, bom đạn, chủ nghĩa…, tất cả những gì đã chia cách hai chúng tôi.
Cha của Vân nhìn đồng hồ và đứng dậy:
- Đến giờ chúng tôi phải lên đường. Xin chào cô.
Ông ta bắt tay tôi từ giã. Vân lẳng lặng theo sau, nó lí nhí:
- Thưa cô em đi.
Cổ tôi nghèn nghẹn, muốn nói vài lời, nhưng không thốt lên được, chỉ gật đầu.
Ra tới cửa, ba của Vân dừng lại, hơi đắn đo một chút rồi nói:
- Tôi muốn thành thực khuyên cô một điều. Những gì cô vừa nói với tôi, đừng nói thế với ai cả. Không thay đổi gì được đâu. Với thời thế bây giờ, cô cũng biết…
Ông bỏ dở câu nói. Tôi gật đầu hiểu ý, và nhìn hai cha con bước mau trên sân trường đầy nắng.

*
Món nợ ân tình của cô giáo Oanh, nhân vật xưng “tôi” từ đầu câu chuyện với cô bé Vân đó, đến hơn ba mươi năm sau mới được trả, trên mảnh đất tự do có tên Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ này.
Cô học trò từ miền bắc xã hội chủ nghĩa đi lao động xuất khẩu tại Cộng Hoà Dân Chủ Đức. Năm 1989, khi bức tường Bá Linh sụp đổ, đánh dấu sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Âu, Vân đã mau mắn xin ở lại xin tỵ nạn với nước Đức tự do nhân ái, không về Việt Nam nữa. Ba năm sau, cô gặp một người Việt du lịch từ Hoa Kỳ sang, kết hôn, và di dân theo chồng về Mỹ. Cô đang làm phụ tá văn phòng cho một bác sĩ Việt Nam ở Cali

Cô giáo Oanh ở lại Sài Gòn một thời gian, cùng chồng là một sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa từng bị đi học tập cải tạo. Hai vợ chồng và gia đình được chương trình HO đưa sang định cư tại Cali 1991.
Cô nay đã già, hồi hưu, và đi khám bác sĩ.
Hai người gặp lại nhau tại phòng mạch. Cô dĩ nhiên không nhận ra trò, nhưng trò đã nhận ra cô. Hai cô trò đã ôm nhau mừng mừng tủi tủi sau hơn ba mươi năm xa cách.

Còn ông cán bộ Trần Bình?
Vân ngậm ngùi cho hay cha của cô đã tử trận trong cuộc chiến biên giới 1979 với Trung Cộng. Mẹ của Vân đã dùng tất cả tài sản dành dụm được chạy chọt cho Vân đi lao động sang Đông Đức, dặn dò con gái tìm cơ hội đi luôn, nếu có thời cơ hãy đào thoát về miền tự do, đừng bao giờ trở lại Việt Nam nữa.
Vân đã thành công. Cô đã là một công dân Mỹ. Các con của Vân đều được sinh ra trên đất nước tự do này.
Về phần tôi, tác giả bài viết, may mắn được cô giáo Oanh kể lại mối duyên gặp gỡ với cô học trò tên Vân.
Cô giáo Oanh đó, là chị của tôi.

TháiNC
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	131142436_3720017218064979_4870901088873576027_n.jpg
Views:	0
Size:	63.2 KB
ID:	1712438  
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (12-23-2020), huudangdo1 (12-23-2020)
Old 12-27-2020   #325
hoathienly19
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 1,444
Thanks: 2,311
Thanked 1,686 Times in 782 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 24 Post(s)
Rep Power: 8
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default NOEL Ở CẨM - NHÂN



NOEL Ở CẨM - NHÂN



Tháng 7 năm 1976
tàu Sông Hương cập bến Hải-Phòng. Chúng tôi, khoảng ba ngàn tù cải tạo, cựu sĩ quan của Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa, được chuyển lên tạm nghỉ một ngày ở Sáu-Kho.

Trong chuyến đi này, đội ngũ hành khách tù binh đã hao hụt mất hai người.

Một người bị trượt chân, rớt từ sàn tàu xuống nước chìm luôn ở Tân-Cảng, Sài-Gòn đêm khởi hành. Người thứ nhì chết trên tàu giữa biển khơi.

Trước đây, trong tháng 6 năm 1976,
cũng đã có vài chuyến tàu chuyển tù, ghé bến Sáu-Kho. Nhưng trí tò mò của dân địa phương, nhất là những đứa trẻ con, vẫn bị lôi cuốn bởi hình ảnh khác thường của đoàn hành khách mới tới.

Người từ phương Nam ra, đi từng cặp một, tay trái của người đi bên phải, còng với tay phải của người đi bên trái. Mọi người vai mang nặng, mặt mày buồn rầu, xanh xao, thân hình gầy gò, tong teo. Họ nối đuôi nhau đi thành hàng im lặng, cúi đầu không nhìn ai. Hai bên là những họng súng AK với lưỡi lê tuốt trần. An ninh thật là nghiêm ngặt.






Ðoàn tù được lùa vào khu đất rộng, có sáu cái nhà vòm dài và cao bằng tôn. Xung quanh khu nhà vòm này là bãi cỏ cháy khô, hôi thối, vì đây là bãi đại tiện lộ thiên, công cộng, của xóm dân cư lao động gần đó. Quanh đây, dày đặc hố bom B 52 khổng lồ. Nước trong hố bom màu cà phê sữa lợt, mặt nước lác đác bèo tấm.

Sau khi được cởi khóa cái còng, tôi gởi ba-lô cho anh bạn tù Ngô Văn Niếu giữ giùm. Tôi lang thang trên sân cỏ Sáu-Kho, rồi tạt vào căn nhà vòm của những tù binh cấp úy. Vừa bước qua cửa đã có người nhận ra tôi rồi. Anh ta ôm chầm lấy tôi, xuýt xoa :

– Thái Sơn ! Anh còn sống ư ? Ðộ đây! Em nghe đồn anh chết ngày Ba Mươi. Vậy mà anh còn đây. Ôi ! Mừng quá ! Anh ngồi xuống đi !

Anh Phạm Xuân Ðộ là đại úy sĩ quan chỉ huy hậu cứ của Liên Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân. Chúng tôi quen nhau lâu lắm rồi, từ ngày Ðộ mới từ Lực Lượng Ðặc Biệt chuyển sang Biệt Ðộng Quân.

Ðộ cầm tay tôi, cao giọng giới thiệu với bạn của anh ta,

– Ðây là Thái-Sơn, đàn anh của tớ. Xin giới thiệu với các bồ, để các bồ quen biết một đàn anh, đúng nghĩa một đàn anh.

Nghe anh Ðộ quảng cáo ồn ào như thế, những người bạn của anh ta liền tỏ thiện cảm với tôi ngay. Họ kéo tôi ngồi xuống manh chiếu góc nhà. Họ mời tôi hút thuốc lào. Họ tíu tít hỏi tôi ở trại nào trong Nam ? Tôi có quen, có gặp người này, người kia hay không ?

Sau khi quân đội ta tan rã, nhiều cấp chỉ huy trở thành những cái bia hứng chịu phỉ nhổ của người dưới. Tuy thế, cũng có nhiều cấp chỉ huy trở thành nỗi luyến tiếc cho thuộc cấp, mỗi khi họ nói về kỷ niệm một thời đã qua.

Cũng may, cái cung cách chỉ huy nghiêm khắc tại mặt trận và thân ái hòa đồng ở hậu cứ của tôi, không làm thuộc cấp ghét bỏ hay hận thù.

Vì thế mà hôm ấy, ở một nơi nghìn trùng xa Sài-Gòn, vào cái thời buổi không còn gì nhục nhã hơn, thật khó tin còn có người lễ phép mời mình ngồi uống ly cà phê nấu bằng cơm cháy pha với đường thẻ, rồi cùng nhau ôn lại những kỷ niệm oanh liệt, vàng son.






Một người vừa sà xuống chiếu, nhìn tôi gật đầu chào thân thiện. Tôi vội vàng gật đầu chào lại.

Người sĩ quan này da ngăm ngăm. Má anh ta có cái nốt ruồi bằng hạt đậu. Dáng anh ta quen quen… Tôi ngờ ngợ đã gặp anh ta ở đâu đó?

Anh bạn mới, giọng Bắc trầm trầm, tự giới thiệu :

– Tôi tên là Trần Gia Toản, “ Toản Thuốc Lào” . Tôi là em ruột của Trần Gia Toàn cùng khóa với anh. Tôi là bạn thân của Ðộ. Tôi có rất nhiều bạn Biệt Ðộng Quân. Bạn tôi ai cũng thương anh và phục anh lắm. Tôi đã nghe tên anh nhiều lần. Nay có dịp gặp anh, thật là hân hạnh.

Tôi chợt hiểu, thì ra anh ta là em ruột của Trần Gia Toàn, bạn cùng Khóa 20 Võ Bị của tôi. Anh em nhà này giống nhau quá, hèn nào tôi thấy anh ta trông quen quen…

Những người tuổi trẻ thích nói thật, không vòng vo, quanh co. Hiểu nhau rồi thì chúng tôi dễ trở thành thân. Từ hôm ấy tôi có thêm một số bạn.

Những người bạn mới lấy mì gói ra, giấy bao mì gói trở thành củi, cái lon Guigoz trở thành nồi, vỉ cơm cháy trở thành cà phê.

Bỗng nhiên, tôi thành người khách quý của nhóm bạn tù cấp úy trong góc một căn vòm Sáu-Kho hôm ấy.

Ăn mì xong, chúng tôi chuyền tay nhau ca cà phê cơm cháy. Uống cà phê mà không kèm theo khói thuốc thì không đúng “gu”. Anh em mời tôi hút thuốc lào.

Khi biết tôi chưa tập hút được thuốc lào, thì chỉ nháy mắt sau tôi đã có một bao thuốc lá Sài-Gòn Giải-Phóng.

Qua trao đổi với họ, tôi được tin tức của vài sĩ quan cấp úy cùng đơn vị như chú Lý Ngọc Châu, chú Trần Cao Chánh, chú Nguyễn Ngọc Khoan…

Tôi cũng có tin những bạn cũ đã chết vì vượt trại như Quách Hồng Quang và Phạm Hữu Thịnh.

Buổi chiều, chúng tôi bị lùa xuống các hố B52, nước màu cà phê sữa, để tắm rửa. Lúc lên bờ, đỉa đói còn bám từng chùm, lủng lẳng trên vế trên đùi, chúng tôi giựt mãi chúng không chịu nhả ra.

Sau khi được phát mỗi người một gói lương khô Trung-Cộng, đoàn tù được lệnh chuẩn bị đội ngũ chờ xe lửa để lên đường. Nghe đâu, người ta sẽ đưa chúng tôi lên mạn ngược, vùng biên giới Trung-Hoa, thuộc tỉnh Yên-Bái, Thái-Nguyên, Tuyên-Quang…

Chuyến xe lửa Hải- Phòng Yên- Bái khởi hành lúc nửa đêm.


Chúng tôi được dồn lên những toa chở súc vật.
Cứ bốn mươi người một toa, khóa trái bên ngoài. Diện tích của toa xe chỉ đủ chỗ cho chúng tôi ngồi hoặc đứng chứ không thể nằm. Mỗi toa có bốn cái cửa tò vò to bằng bàn tay xoè nơi bốn góc.

Tôi chui vào chiếm một góc và thò mũi ra lỗ cửa tò vò để thở. Ngồi kế tôi là Thiếu tá Hoàng Ðình Mẫn nguyên tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân. Thiếu tá Mẫn là vị tiểu đoàn trưởng già nhất của liên đoàn tôi. Ông Mẫn với tôi thương nhau như anh em.







Xe chạy được khoảng một giờ thì không khí trong toa bắt đầu ngột ngạt.

Lúc lên xe, trưởng đoàn vệ binh có chỉ định anh cựu Ðại úy tên là Thu làm trưởng toa.

Từ đầu hôm, anh Thu chiếm cái góc có thùng phuy vệ sinh. Giờ này, thùng cứt đái bắt đầu bốc mùi. Anh Thu bước tới góc cuối toa, và ra lệnh cho tôi nhường chỗ cho anh.

Tôi chưa kịp phản ứng thì anh Thu đã dện một đạp vào mặt ông già Mẫn để dành cái cửa sổ. Lúc đó ông Mẫn đang ghé mũi vào cửa tò vò hít khí trời.

Ông Mẫn vừa ôm mặt khóc, vừa chửi rủa.

Anh Thu có dáng dấp của một võ sĩ. Anh không cao lắm nhưng rất “đô” con.

Anh cởi áo và vắt những dòng mồ hôi vừa nóng vừa nồng trên đầu tôi vì lúc đó tôi ngồi dưới chân anh. Rồi anh ngồi xuống bên tôi, thò mũi ra lỗ tò vò. Mồ hôi của anh nồng kinh khủng . Tôi nhè nhẹ đẩy anh ra xa tôi một chút .

Anh hậm hẹ ,

– Ðù mạ ! Lộn xộn ăn đòn à con ! Mày nhỏ con, tao cho ngồi cạnh để đỡ choán chỗ. Biết điều thì ngồi êm ! Cục cựa ông bẻ răng à !

Anh Thu ngồi chồm hổm, nách anh choàng qua gáy tôi. Mùi hôi nách làm tôi tắc hơi. Tôi lách đầu cho mũi tôi ghé vào một góc cửa sổ. Tôi hít lấy, hít để cái không khí thơm mùi đòng đòng, lúa mới ngoài kia.






Chợt anh tù trưởng toa hẩy mạnh vai, mặt tôi đập vào thành xe nghe “kịch!” một cái, đau tới hoa cả mắt .

– Ê ! Ê ! Ê !… anh này chơi ác quá vậy ?

Trong lúc quýnh quáng, tôi quýu lưỡi, nói xàm như một đứa bé.

Chưa xong, hai bàn tay hộ pháp của tên du côn chẹt cổ tôi, tống tôi vào góc xe,

– Ngồi im ! Cục cựa ông bóp chết !

Tôi chợt cảm thấy có cái gì đó ứ nơi cổ.

Mặt tôi nóng dần. Tay tôi run run. Tôi hít vào một hơi dài, rồi thở ra từ từ.

Tôi ra chiều ngồi êm, nhưng tay tôi mò tìm… mò tìm…

Tôi tìm được nó rồi! Cái nĩa U.S bằng inox, tôi cài nó trong cái túi bên hông ba lô…

Cú đâm quyết định bị trệch mục tiêu vì thế ngồi quá chật. Cái nĩa đâm sượt mắt trái của anh võ sĩ, rạch một vết rách sâu trên trán anh.

Tay trái tôi hất mạnh một cái cùi chỏ ngay cằm anh.

Anh chưa kịp la lên thì cái nĩa đã nằm dưới yết hầu.

Tôi ghì ngược cái nĩa bằng cả hai tay ngay yết hầu kẻ thù.

Nhiều lần đánh lộn thời học sinh, cũng như trong chiến trận sau này, tôi đã áp dụng thành thạo những đòn cận chiến học từ tuổi lên mười ở Trung-Tâm Huấn-Luyện Nhảy Dù Chèm Vẽ (1951-1954).

Hồi đó nhà tôi ở sát cạnh bãi tập thể chất của lính Nhảy Dù Liên Hiệp Pháp trước cổng Ðông làng Vẽ.

Ngày ngày chứng kiến tân binh Nhảy Dù học cận chiến, tôi thuộc nằm lòng những thế dao găm đâm ngang, đâm dọc, đâm ngược, đâm xuôi…

Hơn hai mươi năm sau, trong một góc toa xe chở súc vật, tôi phải sử dụng cái thế đâm ngược lợi hại này, với một cái nĩa, để hạ một đồng đội.

Tôi chỉ cần nhấn mạnh thêm năm phân, rồi xoay hai tay theo chiều kim đồng hồ là cái yết hầu của thằng du côn sẽ bị móc ra khỏi cần cổ nó.

Tôi nghe tiếng :

– Em lạy anh, tha cho em !

Tôi lơi tay, nhổ nước miếng vào mặt anh võ sĩ và nói nhỏ :

– Cút về bên cái cầu tiêu của mày mà ngồi. Tên tao là Vương Mộng Long, tao đã từng là Tiểu đoàn trưởng Biệt Ðộng Quân. Sau khi xuống ga, mày có thể tìm tao bất cứ lúc nào.






Ông võ sĩ trưởng toa ôm trán đầy máu bò về hướng đầu toa, trả lại cái cửa tò vò cho mười anh tù ở cuối toa thay phiên nhau ló mũi ra để hít chút không khí mà sống.

Tàu đi ngang cầu Phú-Lương, Hải-Dương, tôi xin anh em cho tôi được ngồi lâu hơn một chút nơi cửa sổ để ngắm nhìn cây cầu tuổi thơ của tôi.

Tôi đã đi qua cây cầu này bằng đôi chân trần tuổi lên sáu, từ vùng “Tề ” chạy giặc trở về thành phố Hải-Dương đổ nát điêu tàn.

Trong trí nhớ non nớt của tôi chỉ còn :

Cầu Phú-Lương đồng nghĩa với cầu Ðen. Cầu dài lắm, những cái vài khổng lồ sơn đen, lính gác cầu cũng là lính Marốc da đen.

Tôi qua cầu một ngày cuối năm 1948.
Từ ấy tôi không còn thấy nó. Cho mãi tới đêm nay, tháng 7 năm 1976 tôi mới có dịp qua cầu lần nữa.

Hôm nay, cầu Phú-Lương có vẻ đen hơn ngày xưa, vì tôi qua đó vào lúc nửa đêm, trời tối như mực. Tôi nhìn cây cầu nơi chôn nhau cắt rốn từ cái cửa tò vò của một toa xe chở súc vật. Trong toa xe chở súc vật này là những sinh vật ưu tú của một dân tộc anh hùng.






Những sinh vật ưu tú ấy đang bị chuyển hóa thành súc vật. Những con vật này đang tranh sống. Chúng đang giết lẫn nhau để sống.

Toa xe lao nhanh. Ðộng cơ hơi nước phì phà “sình sịch! sình sịch!” Bánh sắt rít trên tà vẹt nghe “ken két! ken két!” rợn người. Những thanh sắt vài cầu loang loáng sát thành xe.

Rồi tôi không nhìn được gì thêm, nước mắt đã rơi, nước mắt bốc thành hơi, đôi mắt cay…

Trời mờ sáng thì tàu đi ngang Vĩnh-Phúc-Yên, những hố bom B52 còn như rất tươi trên ruộng lúa, dọc hai bên đường tàu. Những đoạn đường sắt ở đây cũng thấy như mới được đắp vá. Không khí trong xe ngột ngạt hơn.

Chúng tôi thay nhau cái lỗ tò vò với tốc độ mau hơn, quyền được thở giảm bớt. Người được thở tự đếm, “một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, hết !” rồi ngồi nhích sang một bên, nhường cho người kế tiếp.

Chúng tôi chia nhau từng giây không khí để sinh tồn.

Ðôi người đã khóc, đôi người vẫn cười.

Giờ phút ấy có lẽ không ai còn nhớ đến vinh quang.

Nơi góc cuối của một toa xe chở súc vật, mười sĩ quan Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa chia sẻ nhục nhằn để sống.

Ba góc còn lại của toa xe không có cái trật tự tự nguyện này. Ðã có chuyện không hay.

Có ai đó nơi đầu toa bị ngộp thở . Tiếng người nói xôn xao :

– Làm hô hấp cho anh ấy đi !

Có tiếng la to :

– Anh bộ đội ơi ! Có người xỉu ! Anh bộ đội ơi !





Tàu vẫn chạy sình sịch, sình sịch… tiếng kêu cứu loãng trong không gian, không lời đáp lại.

Xế trưa hôm đó chúng tôi vào ga Yên-Bái. Ðang phiên thở hít của tôi, tôi nghe tiếng người gọi nhau,

– Tù tới ! Tù tới !

Tôi thấy vài người dân vội vàng cúi lượm những viên đá xanh lót đường tà vẹt. Thấy không ổn, tôi thụt mũi vào trong toa.

Tôi nói với Thiếu tá Trần Ngọc Báu, Trưởng phòng 2 Tiểu khu Pleiku là người kế phiên hít thở :

– Ðừng ló mặt ra, dân nó ném đá đó!

Anh Báu không tin.

Vì tôi ngồi sát cửa với Báu, tôi nghe rõ tiếng reo :

– Thằng Mỹ mày ơi :

Rồi anh Báu ôm mặt. Mặt anh đầy máu. Một cục đá xanh đập vỡ mũi anh. Hình như hai cái răng cửa đã nhảy ra khỏi miệng anh.

Khuôn mặt Tây lai của anh biến thành cái mặt nạ máu me bầy nhầy.

Cái cửa được bít lại ngay bởi cái thùng đựng đạn trung liên chứa nước của ông già Mẫn.

Ðoàn xe lửa bị một trận mưa đá tới tấp tấn công.

Cho tới khi vài viên đá lạc vào toa xe của vệ binh thì tôi nghe tiếng súng bắn chỉ thiên.

Rồi tiếng đá chạm thành toa cũng ngưng.

Ðoàn xe ra khỏi ga chừng hai trăm mét thì ngừng bánh. Tù được lệnh xuống xe. Tôi là một trong những người đạp đất sớm nhứt.

Không đội ngũ, đoàn tù bị lùa lên xe Zin chở về nơi nào đó đã định. Hai bên đường, có những người dân mặc trang phục Dao, Tày, Thái, Mán, Thổ, Mường… ngơ ngác trông theo.

Tới một ngã ba, cứ một xe rẽ về trái, thì xe kế tiếp rẽ về phải. Thì ra, đoàn tù được chia làm đôi, một nửa đi về Ðông Bắc qua hồ Thác-Bà, nửa còn lại qua sông Hồng đi về hướng Tây. Chiếc xe chở tôi đi về hướng Ðông Bắc.

Anh bạn cùng Khóa 20 Võ Bị, cùng binh chủng Biệt Ðộng Quân là Ngô Văn Niếu cũng ngồi chung một xe với tôi.

Ðoàn 776 Cộng-Sản không đủ phương tiện đưa hết đoàn tù đi trong ngày. Chúng tôi được chia ra thành nhiều đợt lên ca nô vượt hồ.

Toán của tôi là toán chót, lên ca nô sau toán đầu hai ngày, hai đêm.

Hồ Thác-Bà rộng lắm, mỗi chiều cả chục cây số. Ca nô đưa chúng tôi đi ngược lên đầu nguồn sông Chảy, lướt chậm trên di tích của một thung lũng cổ.

Trong đám đọt cây khô giữa làn nước trắng, một gác chuông thánh giá đứng lẻ loi, phần dưới của nhà thờ chìm trong nước.

Nắng mai từ đỉnh núi hướng Ðông chiếu xuống mặt hồ, làm cho những đợt sóng lăn tăn lấp lánh như dát bạc…

Chúng tôi đến cuối Hồ Thác-Bà, hạ trại nơi không xa một xã người Tày. Xã đó tên là Cẩm-Nhân. Xã Cẩm-Nhân thuộc huyện Yên- Bình, Yên-Bái, tỉnh Hoàng- Liên- Sơn, cách biên giới Việt-Trung gần 50 km.

Bên bờ hồ, nơi một bãi lau sậy được đặt tên là Trại 3 Liên Trại 4, tôi và anh bạn Ngô Văn Niếu, Tiểu đoàn trưởng Biệt Ðộng Quân nằm cạnh nhau. Lán trưởng của tôi lại là anh Ðại úy tên Thu đã có lần tôi gặp cách đó hai ngày, trên chuyến xe lửa Hải-Phòng Yên-Bái.






Anh Thu nhìn tôi như kẻ lạ, như chưa từng thấy nhau. Nhìn cái băng trên trán anh tôi nghĩ anh thật là chóng quên.

Tối đầu tiên ở đây, anh bạn già Nguyễn Tuyên Thùy cho tôi biết một tin buồn:

Có ông Thiếu tá dược sĩ tên là Duy vừa uống thuốc tự tử. Dược sĩ Duy được bó chiếu chôn bên cạnh hồ. Như vậy, trong Nam, gia đình anh Duy sẽ là những người đầu tiên biết chồng con họ đang ở đâu.

Anh Nguyễn Tuyên Thùy đến đây từ tháng trước, nên chứng kiến nhiều chuyện. Anh còn nói rằng,

– Nghe đâu, có vài ba người chết ngộp trên chuyến xe lửa từ Vinh ra Yên-Bái hồi tháng trước…

Anh nói chuyện người chết, người sống nghe nhẹ như không. Mà thực vậy, lúc này sinh mạng một người tù thua trận nhẹ như không…

Sáng hôm sau anh Thu tập họp đồng đội trước lán để truyền lại nội quy của trại cho những người mới tới. Anh phân tích rõ tội nào sẽ bị hình phạt gì. Những tội cải thiện linh tinh sẽ bị cảnh cáo, cúp phần ăn.

Tội phát ngôn bừa bãi có thể bị cùm, bỏ đói…Tội vượt trại có thể bị xử bắn…vân vân. Anh cảnh cáo rằng nếu ai đụng vào chai dầu lửa treo ở đầu giường anh thì sẽ biết tay anh.

Tôi đi quanh trại, la cà trò chuyện cùng vài người quen.

Những vị này, thời chiến tranh Ðông-Dương, 1945-1954 đã có dịp qua đây, như :

- Trung tá Nguyễn Hữu Phú cựu Tham mưu trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/ Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa

- Thiếu tá Hoàng Ðình Mẫn Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân

- Thiếu tá Bùi Ngọc Long Tiểu đoàn trưởng Ðịa Phương Quân Tiểu khu Quảng Ðức

- Thiếu tá Nguyễn Tuyên Thùy ở Bộ Tổng Tham Mưu. Nhưng những đàn anh lớn tuổi này cứ duỗi ra mỗi khi tôi hỏi họ về địa thế, dân tình quanh khu Thác-Bà.

Các vị ấy cứ lắc đầu :

– Ðường xa diệu vợi lắm ! Ðừng dại mà trốn trại ! Mất mạng đó em ơi !

Tôi cứ nghe các anh ấy can ngăn như thế mỗi khi tôi tỏ ý muốn… đi.






Cuối cùng tôi gặp Ðặng Quốc Trụ, người bạn cùng khóa; anh ta đã từng là Tiểu đoàn trưởng của Trung đoàn 48 Sư Ðoàn 18 Bộ Binh. Nghe tôi ngỏ ý tìm bạn đồng hành để đi Lào, anh Ðặng Quốc Trụ hưởng ứng ngay…

Chúng tôi chưa biết rõ xã Cẩm-Nhân nằm ở nơi nào trên bản đồ Việt-Nam thì toán trốn trại đầu đã nhổ neo. Bốn đại úy gồm hai ông ở Tổng Thống Phủ và hai ông pilots trực thăng. Ði được ba ngày thì bốn Papillons bị bắt lại.

Tòa án giữa đồng được thiết lập. Không có lời buộc tội nào từ phía cai tù Cộng-Sản, mà chỉ có quân ta kết tội lẫn nhau. Nghiêm khắc nhất là một cải tạo viên, nguyên là phi công trực thăng, đã đề nghị xử bắn những người đi trốn để anh ta được yên tâm cải tạo (!)

Vài người nữa lên phát biểu ý kiến xin trại phạt nặng những kẻ vô kỷ luật để làm gương cho những kẻ khác.

Ban chỉ huy Cộng-Sản của trại cũng không ý kiến. Tòa giải tán.

Không ai dám hé răng bàn tán về những gì đã xảy ra.

Bốn anh trốn trại bị cùm trên đồi, gần ban chỉ huy trại.

Hai ngày sau, toán trốn trại thứ hai ra đi. Toán này gồm có hai người và được coi là có “kí lô”.

Họ là Ðại úy Biệt Kích Trần Trung Ginh và Ðại úy Nhảy Dù Tôn Thất Ủy (Ủy là tùy viên của Tướng Lưỡng, Tư lệnh Sư Ðoàn Dù /Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa).

Sau khi phát giác có thêm một vụ trốn trại nữa, cán bộ Chính Trị Cộng-Sản của Trại 3 tập họp tất cả chúng tôi lại, răn đe :

– Các anh sẽ phải trả giá . Không ai thoát khỏi mạng lưới của nhân dân. Cứ trốn đi ! Tôi thách các anh đấy !

Giữa đêm đó Vương Mộng Long và Ðặng Quốc Trụ khăn gói lên núi. Cái bật lửa của bác Biệt Ðộng Quân già Hoàng Ðình Mẫn nằm trong hành trang của tôi, và chai dầu lửa của anh đội trưởng tên Thu cũng nằm trong hành trang của tôi.

Vài ngày sau khi tôi và Trụ vượt trại, Trại 3 Liên Trại 4 bị giải tán, tù nhân được chia cho các Trại 5,7,9 kế bên.

Một đoàn tù từ bên hướng Tây sông Hồng được đưa về đây xây Trại 3 mới.

Cái đêm 8 tháng 8 năm 1976,
tôi và Ðặng Quốc Trụ trốn trại lần đầu là một đêm mưa, khởi đầu trận bão Số 6 khốc liệt. Trận bão này gây nên mưa gió kéo dài hơn một tuần lễ.

Mười ngày sau chúng tôi bị mất hướng, luẩn quẩn trong rừng tre, rồi bị vây bắt lại.

Tên Việt-Cộng chấp cung tôi đã thẩm vấn tôi câu đầu

– Có phải anh Thu cho anh chai dầu lửa để anh đi trốn hay không?

Tôi “ thành khẩn ” khai báo :

– Thưa cán bộ không ạ! Tôi ăn trộm nó khi anh đội trưởng còn ngủ.

Tên cán bộ ngạc nhiên lẩm bẩm,

– Lạ nhỉ ? Vậy là anh Thu bị phạt oan, nhưng không hiểu tại sao anh ấy không tự biện bạch?

Từ đêm chui rào khỏi Trại 3, tôi không có dịp gặp lại anh Thu, không rõ đã có hậu quả gì đến cho anh sau khi tôi đi.

Tôi và Trụ được đưa về nhốt ở Trại 4 Liên Trại 4. Tại đây đã có 2 “đồng bọn” đang nằm cùm, đó là Trần Trung Ginh và Tôn Thất Ủy.

Cuối năm ấy tụi tôi được tha ra khỏi cùm để về đội lao động.

Nhiều dân trốn trại đã được quy tụ về đây trước đó. Trong số ấy có một băng Võ-Bị gồm :

- Trần Tấn Hòa (Nhảy Dù, k20 VB)

- Nguyễn Văn Nghiêm (Nhảy Dù, k20 VB)

- Trần Ðăng Khôi (Nhảy Dù, k16 VB)

- Hồ Văn Hòa (Biệt Ðộng Quân, k16 VB)

- Chu Trí Lệ (SÐ23, k16 VB)

- Trần Bá Huệ (Phủ Tổng Thống, k16 VB)

- Trần Ðình Bính (Phủ Tổng Thống, k14 VB).

Anh Ðặng Quốc Trụ được đưa về Ðội 10 dưới quyền đội trưởng là cựu Trung tá Lâm Kỳ Sáng.

Tôi về Ðội 11 dưới quyền cựu Ðại úy Ðặng kim Bảng.

Vừa chui vào lán, tôi đã nghe giọng Bắc Kỳ quen,

– Mừng đại ca, đại ca có nhận ra em không ?

Dù lúc đó là buổi chiều mùa Ðông, trong lán tranh tối tranh sáng, tôi vẫn nhận ra ngay Toản Thuốc Lào.

– Quên sao được hả chú ! Mới tháng trước đây, chúng mình chia tay nhau ở Sáu-Kho…





Ngay lúc ấy người đội trưởng bước vào, anh ta nói tôi sẽ được cử đi gánh gạo tiếp tế chiều nay cùng với đội ở bên Cẩm-Nhân.

Sau nhiều ngày nằm cùm, mới đi được hai cây số đường đồi tới chợ Cẩm-Nhân, chân tôi đã muốn rã ra rồi. Ðến Hợp-Tác Xã Nông-Nghiệp tôi gặp hai anh bạn cùng khóa là Nguyễn Xuân Hoè và Vũ Văn Minh; hai anh này ở trại khác, cũng đi gánh gạo chiều nay, mừng mừng, tủi tủi.

Bên kia đường, tôi thấy có người đưa tay vẫy. Tôi tìm trong óc xem có phải anh ta cùng khóa với mình không ? Không ! Hóa ra đó là anh Thu !

Thấy anh, tôi nhớ chuyến tàu hôm nào từ Hải-Phòng đi Yên-Bái.

Tôi nhớ ra chai dầu lửa anh cố tình treo trên lối ra vào của lán tù Trại 3. Ðêm vượt trại, chỉ cần giơ tay, tôi đã nẫng được chai dầu một cách nhẹ nhàng.

Tôi định đưa tay vẫy lại cái vẫy tay của anh Thu, thì đoàn tù gánh gạo ấy đã đi xa rồi.

Hôm đó, tiêu chuẩn chung của trại, trọng lượng cân đo, đúng 150 kg cho một chuyến hai người.

Toản cao hơn tôi, Toản đi sau, tôi đi trước.

Chúng tôi phải hò “Dô ta!” để lấy đà đứng lên.

Toản hò “Dô… ta!” rồi, nhưng Toản không đứng lên.

Toản cúi xuống lượm cái gì đó. Tôi hỏi :

– Sao không đi Toản ?

Toản cười,

– Em có quà cho đại ca !

Anh ngước mắt lên, vui sướng đưa cho tôi một cục kẹo đường đen,

– Em lượm được cục kẹo, anh ăn cho hồi sức đã mất trong nhà cùm.

Tôi cảm động, nhận cục kẹo đường đen to bằng đầu ngón tay út.

Toản cười :

– Anh có nhớ hôm nay là Noel đó không?

Tôi cắn cục kẹo làm hai, đưa cho Toản một nửa,

- Merry Christmas!

Thấm thoắt đã mấy chục năm đi qua.

Tôi thấy buồn khi nhìn Noel trở lại.

Tôi thấy buồn khi nhớ ra, bây giờ tôi không còn sức để gánh chung cùng bạn một gánh gạo nặng 150 kg trên đoạn đường đồi dài 2 km nữa rồi!

Noel nào tôi cũng nhớ tới buổi chiều đi gánh gạo, nhớ cái vẫy tay của anh Thu, nhớ chai dầu lửa, nhớ cục kẹo đường đen ở Cẩm-Nhân, và nhớ Trần Gia Toản cùng những người bạn tù thuở ấy…

Vương Mộng Long

(Seattle, Noel 2004)

https://hon-viet.co.uk/VuongMongLong_NoelOCamNhan.htm
hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (12-27-2020)
Old 01-01-2021   #326
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,408
Thanks: 21,690
Thanked 38,200 Times in 12,887 Posts
Mentioned: 636 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7247 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Hồi Ký Vượt Biên Đường Bộ



Từ Khao I Đăng đến Sikew, 1980

Đầu năm 1980, nhóm người Việt vượt biên đường bộ đầu tiên đươc chuyển đến trại Sikew khoảng 600 người, một số từ các trại sát biên giới Thái Miên, số khác từ trại Arrange Pathet (trại tù lao công đào binh), đa số còn lại từ trại Khao I Đăng section 13. Tất cả được sắp xếp cho vào các Building 1,2 v à 3. Mỗi Building (B) có trưởng và phó Building do một số cựu quân nhân QL-VNCH được đồng bào bầu ra để đại diện người tị nạn tiếp xúc, liên lạc với người Thái trong mọi công việc về mặt đời sống.

Trại Sikew có lính gác, có trại trưởng và trại phó do quân nhân Thái đảm trách. Gặp 2 người này là phải đứng nghiêm, khoanh tay cúi đầu, cung kính chào: Savadi Khấp!”. Đã có nhiều người bị đánh, cá nhân mình cũng suýt bị ăn gậy vì thấy tên phó trại mà làm bộ ngơ ngác, không chào. Thấy nhóm tị nạn trông đen đủi và cô hồn quá nên trưởng trại cho tập họp, cảnh cáo ngay và cho biết đây cũng là một trại tù của lính Thái, nên kỷ luật rất nghiêm nhặt, áp dụng cho dân tị nạn giống như quân đội, vi phạm kỷ luật sẽ bị cạo trọc đầu, giam vô chuồng cọp, chuồng beo… tù vô thời hạn.

Người Thái giống việt cộng ở chỗ bắt sĩ quan, quân dân cán chính VNCH đi học tập cải tạo mút mùa mà không cho biết thời hạn phải tù bao lâu. Ở trại Sikew nếu bị tù thì chua lắm bởi dù phái đoàn có đến gọi tên lên phỏng vấn hay bạn có danh sách đi định cư thì cũng miễn đi, ở tù đã…

Trại Sikew sẽ có chào cờ ngày 2 lần sáng chiều, mọi người đều phải học thuộc và ca quốc ca Thái Lan, còn nhớ lúc đó anh Trần Thịnh* sau này là danh hề nổi tiếng hải ngoại cứ ca nhại “gà dây thung ta nấu cho thành xé phai,… đi đứng lang bang, 2 tay đút vô túi quần..” làm bà con cứ bò lăn ra cười.

Sikew có 8 building lớn, ngoài 3 building đầu thì các building 4,5,6 dành riêng cho người tị nạn Lào gốc Việt, đến từ trại Nong Khai phía Đông Bắc Thái. Họ nói tiếng Thái (tiếng Lào và Thái xài chung ) và nói tiếng Việt rặt giọng Bắc nghe ngồ ngộ, nhưng dễ hiểu và hiền hòa. Nhìn chung thấy bảnh lắm, vì nước da họ trắng tuốt, quần áo tươm tất, sạch sẽ. Những cô gái Lào gốc Việt ai cũng khá đẹp, và thường quấn xà- rông cho tiện. Phe ta mới đến, nhào qua thăm hỏi tình hình thì họ cho biết người Việt ở Lào đi tị nạn dễ lắm, chỉ bơi qua một con sông là sang đất Thái, qua trại Nòng Khai, ở riết chán, thấy khổ thì lại lẻn bơi về. Nhưng sau này cao ủy chuyển về Sikew. Hỏi tới mới biết họ ở trại Sikew này, người ít nhất, sơ sơ cũng trên 1 năm, còn 3, 4 năm thì nhiều, được đi định cư thì phải là may mắn. Lý do: họ lý luận, đơn giản thôi, người Thái không cho phái đoàn các nước vào trại phỏng vấn?

Vì tị nạn ở trại càng lâu thì càng đẻ ra nhiều công ăn việc làm cho dân Thái. Tiền do cao ủy trả, điều này có lý khi nhìn vào trại Khao I Đăng, trại khá lớn mà người Thái cấm đào giếng và nước phải do họ cung cấp, bạn tính xem, nhiều trăm chuyến xe do công nhân Thái chở nước vào mỗi ngày ngày cho 5 chục ngàn người Kampuchia ròng rã trong nhiều năm…?

Trại Khao I Đăng, được biết chỉ được định nghĩa là nơi để “lánh nạn” chứ không phải là “tị nạn” nên không có phái đoàn đến trại phỏng vấn, bởi vậy khi chuyển trại, có một vài người Miên giả làm người Việt tỉnh queo, lên xe đi theo, sau này định cư thành công.

Khao I Đang có Section 13 mới xây thêm, dành riêng cho nhiều nhóm người Việt đầu tiên vượt biên bằng đường bộ. May là thời gian ở đây chỉ vài tuần ngắn ngủi. Cũng có thể do “trâu cột ghét trâu ăn” hay vì cộng sản Việt Nam đang xâm lăng Kampuchia? nên xảy ra vài đụng chạm nhỏ giữa Miên và Việt, nhờ vậy Cao ủy tị nạn phải di tản đám người Việt về trại Sikew gấp sợ có chuyện.

Nhìn chung thấy đường tương lai sao mù mịt quá! Ở Sikew khoảng vài tháng sau này mới thấy thấm thía hai chữ may mắn mà lúc mới tới không ai để ý. Khi có một gia đình người Lào Việt được đi Đức, loa phóng thanh reo:”Sau đây là danh sách những người… may mắn có tên được đi định cư ở đệ tam quốc gia”. Thôi thế thì cứ yên tâm sống đời tị nạn mà xem tình hình biến chuyển thế nào? Ai siêng chịu khó cắp sách đi học thêm sinh ngữ do các thày tị nạn tự nguyện đứng ra dạy và ráng giữ gìn sức khoẻ chờ thời! Nói giữ gìn sức khoẻ là vì góc trại Sikew cũng có nghĩa trang nhỏ, nơi đó có 12 người tị nạn vĩnh viễn chọn làm nơi an nghỉ!

Thời gian 1980, những người vượt biên đường bộ khá tuyệt vọng vì chưa được thế giới biết đến nhiều bằng những người Việt vượt biên đường biển hiện rầm rộ có mặt khắp nơi tại các nước láng giềng ngoài Thái như Indonesia, Malaysia, Philippine, Hong Kong…

Sikew có Building 8 (B8), rất đặc biệt vì nằm bên kia trại, cửa ra vào đều bị khóa, kiểm soát chặt chẽ, nội bất xuất, ngoại bất nhập, lính gác có súng. Người tị nạn là những cán binh, bộ đội, trong đó có nhiều người thuộc dân con cái “ngụy” tức phe ta chính gốc VNCH, nhà nghèo không tiền lo lót, bị bắt đi nghĩa vụ quân sự, nhân cơ hội vọt luôn qua Thái xin tị nạn. Những người này trước khi tới trại đều được đưa về Bang kok khai thác chán chê rồi mới đưa về Sikew, và có tin đồn họ sẽ vĩnh viễn ở lại đất Thái, phần nữa cũng không quốc gia nào dám nhận cho phe nón cối, dép râu đi định cư? Chuyện người ta đề phòng tình báo phản gián mà. Thiệt là thê thảm!

Lúc đó mình gặp lại đứa em trong xóm thuộc diện này, nay trở thành bộ đội vượt biên hiện nằm trong B8. Mừng quá vì nhà nó chỉ được báo cáo mất tích, mọi người ai cũng nghĩ nó bị tiêu rồi! Chú em bắn tiếng qua hàng rào kẽm gai nhờ mình tìm cách báo về Sài Gòn cho má biết là còn mạnh khỏe.


B8, Tìm Bạn Bốn Phương

Nói về nhân vật của B8, bạn phải nghiêng mình thán phục, nhiều chuyện khôi hài, hồi hộp hay táo tợn. Nhớ có hiện tượng mà toàn trại Sikew ai cũng biết và cười. Các cụ B8 có lạc bước nơi đây, đọc xong xin đại xá..

B8 mặc dù là những người vượt biên tìm Tự Do nhưng đối với người Thái đầy nghi kỵ nên vẫn bị hăm he về chuyện không có ngày đi định cư. Đời sống trong trại tù túng, thiếu thốn không có tương lai kể khá bi đát. Cách hay nhất là viết thư gõ cửa các hội thiện nguyện khắp nơi tìm an ủi, hổ trợ hay sponsor. Kẻ có thân nhân thì nhờ báo chí hải ngoại tiếp tay đăng tìm giúp và có lẽ vụ tìm bạn bốn phương cũng bắt đầu từ đó.

Không biết ai khởi xướng nhưng chỉ thời gian ngắn sau trăm hoa nở rộ… tức là, trự nào ở B8 cũng có một vài người yêu khắp nơi trên thế giới để mà tâm tình, trò truyện, nhưng quan trọng nhứt là có thêm thu nhập tài chánh.

Trên mục kết bạn tâm thư báo Văn Nghệ Tiền Phong và báo Hồn Việt tại hải ngoại, California lúc nào cũng đăng tin rất nhiều các em gái trong trắng, ít tuổi đời, lạc bố mất mẹ trên đường vượt biên, hay goá phụ ngây thơ, nữ sinh Gia Long, Marie Curie, Trưng Vương,… nói chung nhan sắc mặn mà, trên trung bình, con nhà gia giáo, hiện độc thân, cô đơn lắm… đang mong chờ mòn mỏi các ân nhân phương xa ra tay cứu giúp, em nguyện sẽ nâng khăn sửa túi, đáp đền khi gặp lại. Thư từ liên lạc xin gửi về em tên…. Địa chỉ trại Sikiu Camp,…Building 8… Panat Nikhon, Ratchasima- Thailand.

Sau 1975 các đấng liền ông thoát được ra hải ngoại đi tìm các cô mà lấy làm vợ, con mắt đổ ghèn tìm hỏng ra nương nào! Mấy cô tiểu thư dù nhan sắc khiêm nhường, chỉ cần hơi trắng da dài tóc là trước ngõ vương tôn công tử đầy kẻ thập thò, tha hồ mà chọn. Úi chao! sao cái B8 – Sikew này tự dưng có lắm người đẹp thế! Thế là thư từ đáp ứng cứ nườm nượp thay phiên nhau đổ về.

Tình hình lúc ấy “nóng” quá, không ra tay sớm kẻ khác cuỗm mất, người khôn là người biết ra tay cứu vớt các em từ thủa bơ vơ!

Thùy Trang, 26 tuổi, 1 con, bị chồng ruồng bỏ. Hiền, thùy mỵ, đẹp xấu tùy người đối diện, vừa may mắn cùng con thoát được đến bờ tự do, không thân thuộc bảo lãnh. Hiện rất cô đơn, muốn yên phận để nuôi con trưởng thành. Tìm nơi nương tựa, chỉ dẫn Trang bước đầu nơi xứ người. Mong gặp đối tượng thành thật để tính chuyện lâu dài. Xin đừng đùa giỡn, Trang hứa sẽ hồi âm và gửi hình dù thư đến trễ. Thư về Thùy Trang, B8 – Sikiu.

Rồi sao? Người đẹp “trai” Thùy Trang, có ngày nhận cả 2 chục lá thơ gửi tới, tuyên bố ngon lành, anh nào không thực tế, nói toàn chuyện yêu đương tha thiết, lỉnh kỉnh là dẹp, thơ nào check có mấy choạc, tức là dưới trăm đô, cũng dẹp. Thiệt tình Đời tị nạn thành đời vương giả ít ra nơi mặt vật chất!

Màn đại bịp rộ khắp trời Sikiu. Cả nước B8, các đấng nam nhi chuyển giống qua gien “nữ”!

Hình ảnh để làm tin cho các anh yêu nơi phương trời xa xôi thì như phần trên đã nói về các cô gái Lào gốc Việt ở Building 4,5,6, họ giống lai giòng nên ai cũng “đép đẹp”, nói theo lối của họ. Tóm lại, duyên may đưa đẩy…Trai Sài Gòn gặp gái Viêng Chân như cá gặp nước, mê nhau như điếu đổ, dù B8 mỗi ngày chỉ có mấy trự được phép thay phiên nhau qua bên này đi chợ ở khu B4, và thời gian thì không nhiều, nhưng có cô nào mà không thích được chụp hình để các anh coi cho đỡ…nhớ! Thiệt là thiên thời địa lợi, hình các em gái Lào được các “cô” B8 dùng gởi đến quý anh giai bốn phương trời.

Dân hành nghề nhiếp ảnh thời ấy cứ là kiếm khối tiền!


Vượt biên một phút

Những người bộ đội tị nạn Việt Nam tại B8 thì mỗi người đều có một hoàn cảnh vượt thoát khac nhau. Câu chuyện có thật của Nguyễn Tấn X, cấp bậc binh nhất, diện Nghĩa Vụ Quân Sự, anh thuộc sư đoàn 5 ninh 8, trung đoàn 123, đại đội 3 (?) trực diện đêm ngày tại tuyến đầu với tàn quân Polpot trong rừng, ngay sát biên giới Thái.

Vì đóng quân án ngữ ngay bìa rừng cạnh biên giới nên ngày ngày lính biên phòng Thái và bộ đội Việt Nam đều nhìn thấy nhau. Cả hai bên đều canh chừng tàn quân Polpot ở trong rừng. Tuy không có giao tranh nhưng người Thái luôn đề phòng và bố trí lực lượng khá hùng hậu nơi này. Giữa hai đội quân khác màu áo chỉ khoảng hơn trăm thước là một bãi mìn dầy đặc như để phân ranh giới do cả hai bên thay phiên nhau thay đổi vị trí gài đặt mỗi buổi chiều.

Mỗi sáng, phía Thái có chào cờ thì bên này cũng tập họp để nghe chính trị viên đại đội cà kê huấn thị. Bữa kia có chuyện…

Như thường lệ buổi sáng thức dậy trời tờ mờ còn ngái ngủ ra tập họp, đồng chí X lợi dụng lúc mọi người còn đang uể oải, chưa vào hàng đầy đủ đã làm 1 cú lịch sử, đột ngột chạy băng qua bãi mìn trước mắt những người lính của cả 2 bên. Mọi người đều bất động, nín thở chờ mìn nổ, quên cả nằm xuống vì bất ngờ quá. Lúc chính trị viên đại đội phát giác la lên thì mọi người tỉnh hẳn và không tin chuyện xảy ra trước mắt: Hắn la lên: “Đồng chí X, trở lại ngay không tôi bắn…” Đã quá trễ, X cứ chạy, vừa chạy vừa giơ hai tay lên cao tỏ ý đầu hàng để lính Thái khỏi bắn ẩu. Lúc đó phía hàng quân Thái đang tập họp nhìn ra vấn đề ngay và họ lập tức điều động quân lính gờm súng chuẩn bị đáp ứng tình thế. Như một phép lạ, càng chạy càng nhanh.

Sau này anh cho biết cảm tưởng lúc đó chân như không còn chạm đất mà cũng không sợ đạp trúng phải mìn nữa, mọi chuyện đều phó mặc định mệnh an bày. Thời gian chưa đầy 1 phút mà rất dài, mọi người ai cũng nín thở nhìn theo chờ nghe tiếng mìn nổ, và rồi cuối cùng, mìn… không nổ. Anh đã thành công khi liều mạng chạy băng qua bãi mìn để đổi lấy sự Tự Do. Khi chạy đến phần đất Thái, viên sĩ quan Thái ra hiệu anh tiếp tục chạy xuyên qua hàng lính của họ và tự mình đứng chắn trước lối anh vừa qua…

Họ nhanh chóng khám xét anh rất nhanh và cho người áp tải đi vô sâu trong đất Thái. Phía bô đội tức tốc gởi người qua và đòi lính Thái phải giao trả về… “No way Jose!” Bạn ơi làm gì có chuyện này!

Đồng chí X được lên xe Jeep chở ra khỏi vùng hỏa tuyến và ngay chiều đó được chuyển về Bang kok. Khoảng tháng sau khi an ninh Thái điều tra với những thủ tục cần làm, họ chuyển anh về Building 8 Sikew. Như vậy, có thể nói cuộc vượt biên bằng chân vượt qua bãi mìn dầy đặc, đánh cược với tử thần đổi lấy Tự Do này thiệt vô tiền khoáng hậu. Thời gian giữa sống và chết chỉ trong khoảng chưa đầy 1 phút, quá nhanh, như vậy xứng đáng được ghi vào sách những kỷ lục lịch sử Guiness thế giới.

Anh cho biết thêm, trong vụ này thực ra có 2 người, kẻ đưa ra ý kiến vượt qua bãi mìn này lại là người bạn bộ đội gốc Bắc kỳ của đồng chí X. Họ trở thành thân nhau trong dịp anh X cứu anh Y thoát chết trong 1 trận giao tranh (đồng chí Y sau này cũng vượt thoát được khi bộ đội cộng sản đánh tràn qua đất Thái đuổi tàn quân Pôn Pốt khoảng giữa năm 1980).

Anh Y cho biết cả hai đã tính toán trước, chuẩn bị cuộc vượt biên liều mạng này lâu rồi và chỉ chờ dịp thuận tiện… Thường buổi chiều hôm trước nếu được giao nhiệm vụ gài mìn, lúc gài đặt phải lén đánh dấu và cố nhớ kỹ chỗ mình gài để biết mà tránh. Đó là bên này, chưa kể vùng mìn rác ở giữa, và mìn gài bên phía lính Thái thì sẽ tính toán theo sác xuất, quan sát, nhưng họ dĩ nhiên thường hay thay đổi… coi như đánh cuộc số mệnh.

Anh Y cho biết thêm người chính trị viên đại đội đã nhắm bắn anh X nhưng không hiểu sao cuối cùng lại không nổ súng? Anh suy đoán có lẽ hắn cũng hồi hộp không dám bắn thẳng vào anh X vì nếu trật, trúng lính Thái thì sẽ có đáp lễ và thành to chuyện ngay, có điều cả đại đội ai cũng biết tay đó bắn rất giỏi?

Anh Y cho biết đêm đó cá nhân anh nhận phiên gác khá xa, bàn giao trễ nên về tới chỉ kịp lúc thoáng thấy anh X đã chạy rồi.


Trại Sikew Được Phỏng Vấn

Quay trở lại nhóm 6 trăm người đến Sikew từ Khao I Đăng, khoảng đầu tháng hai 1980 được dồn vào các Building 1, 2 v à 3. Rất may mắn vì trong nhóm có người biết tin tức, địa điểm nơi quân nhân mất tích (M.I.A. = missing in action) nên người Mỹ hầu như tuần nào cũng ghé vào trại để làm việc vài ngày. Nhờ vậy nên người Thái cũng phần nào e dè, bớt khắt khe hơn với tị nạn?

Ngoài ra nhóm đầu tiên đa số là dân Sài Gòn, khá nhiều sĩ quan mới học tập cải tạo về, có bác sĩ, giáo sư, luật sư, nhiều cô bác từng làm việc cho sở Mỹ… Trình độ tiếng tây tiếng u như gió. Quả thực là may mắn được ở chung với nhiều người giỏi, vì vậy nhóm 6 trăm chinh phục được nhiều giới chức, các cô chú còn nhờ cao ủy đi gõ cửa các tòa đại sứ giùm, đánh động phương tây giúp can thiệp định cư.

Cho đến khoảng tháng 8, 9 có tin trại Sikew cho phép các phái đoàn vào phỏng vấn sau nhiều đánh tiếng lên tới cả nhà vua Thái. Dân con côi cũng được phái đoàn Mỹ phỏng vấn theo diện “xì bông xô hốt rác” nếu kiên quyết chờ và không có thân nhân các nước khác. Lúc ấy thì “thung thướng” lắm. Thêm chuyện vui là giấy tờ xin phỏng vấn muốn khai sao thì khai, nên một số rút kinh nghiệm ở Việt Nam sợ đến tuổi phải đi lính sớm, hiên ngang rút tuổi xuống cho trẻ, có kẻ “kéo quá hóa co” bởi cái hại sau này là lúc qua Mỹ rồi rất khó khi làm đơn bảo lãnh gia đình đi đoàn tụ. Kỳ rồi quán phở ngoài Bolsa có một cựu Sikew xưa ở chung Building, râu đã dài tới rốn, người qua tuổi lãnh hưu trí từ lâu mà vẫn cứ phải bưng tô, đi cày tiếp bởi xưa hơi quá tay, rút tới mười tuổi lận! Cụ nức nở phân trần:”đời ai biết mà ngờ”.

Tay kia rời trại đang vẫy tay chào từ dưới tàu, đi rồi còn dặn thợ chụp làm một "bô" kỷ niệm, chỉ khổ cho mấy thằng con bà sơ trên bờ vốn là chuyên viên vay mượn kinh niên phải trả tiền chụp hình cho him.
Tay kia rời trại đang vẫy tay chào từ dưới tàu, đi rồi còn dặn thợ chụp làm một “bô” kỷ niệm, chỉ khổ cho mấy thằng con bà sơ trên bờ vốn là chuyên viên vay mượn kinh niên phải trả tiền chụp hình cho him.


Rời Thailand

Nhóm 600 cuối cùng cũng được “may mắn” rời Sikew làm 3 đợt, mình đi đợt 2 tháng 1 năm 1981 đến trại Panat Nikhom, ở 1 ngày rồi lên trại Lumpini Transit Center, tại thủ đô Bangkok chuẩn bị ra phi trường qua Pulau Galang RPC tức Refugee Processing Center để học Anh ngữ và bước đầu hội nhập đời sống Hoa Kỳ. Đến trại này rủi mà lại vui vì không hiểu sao hồ sơ bị trục trặc nên phải ở lại hơn hai tháng đâm ra tối ngày lông nhông trốn ra Bankok chơi… Vì là trại chuyển tiếp đến và đi, tất cả người tị nạn bắt buộc phải ghé ngang trước khi rời khỏi xứ Thái. Điều kiện sinh hoạt trại Lumpini khá tốt về ăn uống và nước tắm. Ở đây gặp và kết thân được nhiều bạn đến từ các trại đường biển như Songkhla, Leamsing. Thường người nào bị kẹt lâu lắm cũng chỉ 1,2 tuần, với thâm niên gần 2 tháng mình trở thành trưởng trại, sắp học thuộc được tiếng Thái… Nừng xoỏng xám xì ha hộc… đếm từ một tới mười thì lên đường.

Trại Transit Center thường có những vụ trả thù giữa những người tị nạn, tay người Việt kia gây nhiều bất công, ăn chặn tiền ăn bạc, hà hiếp đồng bào lúc có tí chức quyền nơi trại cũ, khi lên tới Lumpini này bị đồng hương tị nạn vác dao rượt chạy có cờ. Một ông cựu trưởng ban an ninh từ trại đường biển, khi lên đây phải đút lót tiền cho cảnh sát Thái xin được ở chung nơi trạm gác, không dám lò dò vào bên trong để mà lấy cơm về ăn hay đi tắm rửa, cứ vậy cho tới khi lên xe buýt ra phi trường.

Từ trại chuyển tiếp Lumpini lên máy bay qua Singapore, nhân tiện xin được thay mặt tất cả những người tị nạn đã đi qua trại Lumpini thời đó và sau này đã từng nhận được sự giúp đỡ về mặt thơ từ, để nói lời cám ơn chân thành đến Madame Simon Thúy. Một người Việt sinh sống nơi Bangkok, có chồng người Anh, làm trong lãnh sự quán Anh Quốc, ông qua đời vì tai nạn xe. Chị Thúy sống luôn tại Bankok nuôi con, và đã ngày ngày tình nguyện vào trại Lumpini giúp chuyển giao và nhận, cùng gửi thư tín đi khắp nơi qua địa chỉ nhà của chị cho đồng bào được yên tâm. Âm thầm hy sinh làm liên tục trong nhiều năm. Hy vọng Chị Thúy có dịp đọc được mấy lời này.


Galang 2, 1981

Đến Singapore, được tàu nhỏ đưa vô đảo Galang. Nhóm mình là những người đầu tiên được vào ở Galang 2, lúc đó mới vừa hoàn thành. Cứ bốn thanh niên được dồn vào 1 Barack mới toanh còn thơm phức mùi cây gỗ. Y như khách sạn dành riêng cho Summer Vacation để ngắm cảnh ở Mỹ, tệ lắm cũng được 3 sao dù không căn nào có cửa. Qua thời đi tới đâu cũng cả trăm mống chung một nhà. Ăn uống có đồ hộp, cao ủy phát trước vài ngày 1 lần, tuy thiếu chất tươi nhưng sao cũng được, có tiền thì có thể ra chợ ngoài Galang 1 mua thêm rau do bà con tị nạn tới trước trồng, nhưng tụi này mà có tiền thì tối ngày lại thích ra quán ngồi đấu láo cho vui. Nhớ lúc đó cơm cao ủy khi ăn lâu lâu nhai nghe cái “cộp” 1 phát thiếu điều gãy răng, lè ra mới thấy nguyên cái ghim bấm giấy (stapler) bằng sắt, mà vụ này bị hoài à? Cũng may là nhai trúng, chớ không thì chắc phải giải phẩu thay mấy cái bao tử mới??? Phòng vệ sinh sạch sẽ, có khu tắm tập thể nước bông sen. Vấn đề nước rất quan trọng nên bà con phê quá, tị nạn lúc đó thấy như thiên đàng, bụng nghĩ giá có phải ở lâu tí cũng OK. Các đấng chuyên tán phét ngoài quán cà phê thì cho rằng đây là nơi đặc biệt, chỉ dành riêng cho những tị nạn đã có vé vô Hoa Kỳ, đến để ăn ngủ, học Anh ngữ, hướng nghiệp rồi lên đường định cư…nên họ phải lo cho thật chu đáo, đầy đủ, ưu tiên hơn những nơi khác! RPC khác với những người chưa được phái đoàn tới phỏng vấn, oai lắm đấy. Nghe sao mà ớn quá! Vấn đề nước tắm nhớ kỹ lại thì hình như chỉ được tuần đầu, tuần sau thì tắm…khô vì sau một vài ngày thỏa thê mát mẻ ấy chả hiểu vì sao không bao giờ thấy nước chảy ra từ vòi sen nữa! tịt hẳn! họ chỉ biểu diễn lúc đầu để tính tiền cao ủy? cũng may gần đó có suối, chịu khó chờ thứ tự cũng không đến đỗi nào…

Vấn đề học Anh văn phải lấy test để phân chia trình độ cao thấp, lớp phải do các thày người Indonesia dạy, thày Việt chỉ được cho làm trợ giáo, không lương. Lớp học tiếng Anh của mình, gen thô mân (gentleman) lâu lâu thày giáo Inh đô dạy phang bừa thành “giăng tơ lơ măng” làm cả lớp có đứa xém phải khiêng lên bệnh viện vì chết sặc, cười…

Môt buổi tối tụi này đang chuẩn bị ngủ thì nghe có buớc chân rầm rầm chạy lên cầu thang, rồi 2 cô cậu chạy ào vào phòng như cơn gió, tiện tay vồ luôn cái chăn nơi cửa tụi này gấp lại dùng để chùi chân, trùm vô cho kín, giả bộ…đang ngủ ngon. Người nam đưa ngón tay trỏ lên miệng suỵt suỵt, ra dấu nói bà con giữ im lặng giùm…

Khoảng nửa phút sau có tiếng xe máy hung hãn rồ ga, ánh đèn pin nhá nhá, rồi tiếng tây tếng u, tiếng Indo, tiếng… Đan Mạch la hét loạn xạ ngầu, như chửi bới cay cú lắm. Lúc này nhận ra anh mới chạy vào phòng là người quen cùng trại bên Sikew, qua Galang từ trước hiện đang ở Galang 1. Anh cho biết mò từ ngoài đó vô thăm người yêu mới sang ở Galang 2. Cô cậu đang hú hí trên đồi thì an ninh Inđo đi xe ngang rọi đèn pin thấy và rồ ga lên đồi để bắt quả tang dám… hò hẹn trong giờ giới nghiêm. Chả hiểu sao, bữa đó trời không trăng! thiệt xui cho nó mà hên cho cậu mợ, lúc rượt theo thì đất đỏ gặp giời mưa mấy bữa trước vốn trơn trợt nên cu an ninh bị té xe khá nặng, trợt từ trên đồi xuống nên hai người mới thoát được. Chuyện tình Romeo + Juliet này dính như keo nhưng bị bên họ hàng của ổng ngoài Galang 1 phát giác, họ nhao lên phản đối quá xá, sau này khi định cư ở Mỹ thì mối nhân duyên mới chấm dứt bởi… vợ ổng từ Việt Nam lò dò dắt theo mấy đứa con qua đoàn tụ! Cái này gọi là Cali tình xù chớ Galang tình…không xù, nói theo kiểu bác Liêm, người rất nhiệt thành, hiện đứng ra thực hiện đặc san, tổ chức những buổi hội ngộ cho Thuyền nhân, Bộ nhân xưa.

Galang 2, 1981 về mặt tôn giáo cũng có linh mục làm lễ mỗi Chủ Nhật. Bà con Công giáo và kể cả người không công giáo cũng đến tham dự thánh lễ, ngồi đứng đầy trên đồi Golgotha, mọi người ai cũng sốt sắng lắm, đọc kinh rõ là to, chắc cầu cho mau đi định cư? Lúc đấy mình có quen 1 anh bạn làm giúp lễ, cách đây khoảng 2 năm, anh qua Cali chơi đi thăm con chiên ngoài… Phước Lộc Thọ tình cờ gặp. Anh cho biết hiện đang là 1 linh mục tuyên úy trong quân đội Hoa Kỳ. Ngài cho ít thông tin về những người quen xưa, đặc biệt nhất là tin về ông cha thời đầu tiên ở Galang 2 thường cử hành thánh lễ mỗi Chủ Nhật. Lúc cha qua Mỹ thì đã thôi chức linh mục và trở về đời thường. Cởi áo chùng thâm, mặc tuxedo lên xe bông đám cưới, âm thầm theo tiếng gọi con tim về nhà vợ, đến nay cũng đã có nhiều con lớn…

Tóm lại Galang với mình chỉ nhớ được chút ít vì ở không lâu, đâu khoảng 2,3 tháng gì đó là đi rồi. Thời gian ở đây ngắn ngủi quá, tình còn chưa có lấy chi xù hả các bác?

Từ Galang qua Singapore rồi qua Mỹ, cuộc sống mới bắt đầu với nhiều nỗ lực hòa nhập, những người bạn cũ ở gần đôi lúc vẫn tìm đến nhau, hay phone thăm hỏi nếu ở xa. Rồi thời gian thưa thớt dần vì xứ người khá bận rộn, cánh độc thân nơi ăn chốn ở hay thay đổi…

Lâu lâu vẫn có tin về trại cũ do người đi sau may mắn được qua định cư kể lại. Thời gian những năm sau này trở nên thê thảm hơn khi các nước từ chối nhận thêm người tị nạn đến định cư, bắt đầu thanh lọc, ai rớt sẽ bị trả lại về Việt Nam. Đồng bào trong các trại tị nạn phản đối qua nhiều hình thức như biểu tình, tuyệt thực, kể cả liều thân, mổ bụng tự sát… Về B8, rất may mắn, vì trước đó, khoảng giữa năm 81, người đi tị nạn vào đất Thái bằng hai ngả đường biển và đường bộ ngày càng đông, tạo nhiều áp lực, người Thái và cao ủy tị nạn quyết định đóng cửa những trại tị nạn rải rác trên đất Thái và dồn hết về trại Sikew, nên phải giải tỏa, cứu xét cho những người ở quá lâu đi, có tin cho biết tất cả những người của B8 đều được phỏng vấn bởi các phái đoàn, riêng những bộ đội tị nạn cộng sản gốc miền Bắc nếu họ muốn đi theo diện nhân đạo sẽ được chính phủ Áo nhận tất cả. Cựu vượt biên đường bộ trại Sikew ở Mỹ báo tin cho nhau và chia xẻ sự vui mừng cho những anh em B8. Tạ ơn Trời Phật.

Tuy nhiên, trong niềm vui vẫn thấy lòng se thắt… Một số người trong B8 đã đi theo tiếng gọi non sông, lên đường trở về đất mẹ….


Phần cuối

“Old solders will never die, they just fades away… ”
General Douglas MacAthur

Một buổi chiều tại thành phố Westminster – California, khoảng thời gian 1982 – 1984..? Trời u ám buồn, người bạn cũ từ trại Sikeu rủ tới Biên Thùy Quán trên đường Westminster, cho biết có sinh hoạt đặc biệt. Khi đến thấy trong quán có khoảng hơn 2 chục ngưòi đang thì thào nói chuyện, ai cũng đăm chiêu. Trên vách tường treo một lá cờ Việt Nam Cộng Hoà, dưới bàn có một chén nhỏ đựng gạo cắm những cây nhang nghi ngút khói. Không khí như lắng đọng khi được biết đây là buổi tưởng niệm cho một số chiến sĩ phục quốc bị cộng sản sát hại khi trở về lại Việt Nam chiến đấu. Người may mắn thoát được trong trận phục kích đã liên lạc báo tin sang Hoa Kỳ. Đau lòng thay, một trong số những người hy sinh có trưởng Building 8 của trại Sikew thời đó, anh Vũ Đình Khoa.

Anh Khoa dáng người tầm thước, mặt vuông, cằm bạnh, vẻ quả cảm, toát ra phong cách hào hùng nhưng lại rất yêu văn nghệ, khi nói chuyện niềm nở, thu hút. Nên biết, phải uy tín thế nào mới được bầu làm trưởng B8, một Building với những tay cựu binh sừng sỏ nam bắc, đội đá vá trời và coi lính Thái chả ra quái gì! Trưởng trại Sikew cũng biết như vậy nên cần người như anh để mà yên tâm về B8. Đặc biệt, anh đi khắp nơi trong trại mà không cần phải phép tắc gì, ai gặp cũng đều phải e dè, nể vì, kể cả trưởng và phó trại. Đó là hình ảnh cựu Trung úy Trinh sát, gốc Võ Bị Đà Lạt. Anh Khoa lâu lâu ghé qua lều gần mình thăm bạn, đốt điếu thuốc, chia sẻ dăm ba kinh nghiệm hành quân bắt sống việt cộng. Nghe ké những chuyện kể khó quên trong đời của anh rất thú vị.

Được biết, nhóm của anh bị phục kích, trận chiến không cân xứng lực lượng, hỏa lực của khoảng hơn trung đội chọi với cả tiểu đoàn có xe tăng nằm chờ sẵn. Anh Khoa bị thương ngay từ đầu, nhưng cương quyết ở lại để cầm chân cho một vị yếu nhân chỉ huy cùng người cận vệ vượt thoát… Khi kể lại câu truyện này trên Face Book thì nhận được thêm tin nhắn của một cựu B8 dấu tên, cho biết nguyên văn như sau… “Xin lỗi anh, mình đường đột lộ diện để bổ túc thêm info về anh Khoa của tụi mình B8, Vũ Đình Khoa from Đà lạt đã gãy cánh ở Hạ Lào cùng với người bạn thân đồng sanh tử là Nguyễn văn Lộc trong chiến dịch mở đường cho Võ Đại Tôn nhưng có một người cùng đi với hai người trên được định cư tại Canada tên là Trương Quang Vịnh*. Dĩ vãng thì buồn nhưng có những người can đảm như anh nhắc lại thì mình phải đối diện. Rất là cám ơn anh những chuyện bên lề về Sikew và B8, anh kể hoàn toàn chính xác vì nhóm chúng tôi là những người bộ đội vào trại đầu tiên tháng 5 – 1979 sau nhiều tháng ở Bangkok làm việc với Bộ Quốc phòng Thái và CIA – USA…”

Ai cũng nghĩ các anh yên ổn định cư ở một đệ tam quốc gia, nào ngờ! Những người trai thế hệ, được hun đúc bởi hồn thiêng sông núi, người quân nhân ưu tú của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Với lý tưởng Tự Do cho đồng bào, quê hương Việt Nam, đã từ bỏ tất cả, từ chối tương lai tươi sáng trước mắt để anh dũng trở về cầm súng chiến đấu và hy sinh. Thật cảm động và hào hùng. Nhân ngày tháng Tư lại đến, chúng ta cùng nhau dành đôi chút thời gian, thắp nén hương lòng, tưởng niệm đến các anh nói riêng, và tất cả những người quân dân cán chính đã hy sinh vì hai chữ Tự Do.

*

Khoảng đời tị nạn tưởng đã quên sau bao năm, nhưng khi ngồi ôn chuyện cũ, có nhiều hình ảnh hiện lên rất rõ. Dù Sikew, Galang, hay bạn sống ở những trại tị nạn khác rải rác khắp Đông Nam Á, cũng là một thời qua với nhiều kỷ niệm. Cám ơn Face Book tạo cơ hội cùng nhau hồi tưởng về những tháng ngày long đong, lận đận. Giọt nước mắt mừng vui, đau khổ, hay tuyệt vọng. Có tên đi định cư hay rớt thanh lọc? biểu tình phản đối, tuyệt thực, bị trả về lại…

Hiện đã có đặc san Galang Một Thủa, 40 năm Thuyền Nhân Viễn Xứ,… kế hoạch tổ chức hội ngộ do một số anh chị hy sinh đứng ra làm việc để dù chân trời góc bể, cựu trại tị nạn cũ qua đó sẽ có dịp tìm đến được với nhau, chia sẻ, kể lại những chuyện vui buồn ngày xưa. Mong rằng trong sâu xa hơn, sẽ không bao giờ quên nguồn gốc mình là người tị nạn cộng sản vì hoàn cảnh phải bỏ nước ra đi, và luôn nghĩ về quê hương, nơi đồng bào chúng ta vẫn chưa thực sự có Tự Do, Dân Chủ.

Ghi chú:

– Một số tên nhân vật đã được thay đổi*
– Thời gian làm phai mờ nhiều chi tiết, mong các bạn ở cùng thời bổ túc nếu có sai sót

Trần Kim Bằng
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	hoi-ky-vuot-bien_1441011372.jpg
Views:	0
Size:	38.8 KB
ID:	1717615  
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (01-02-2021), huudangdo1 (01-01-2021)
Old 01-18-2021   #327
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,408
Thanks: 21,690
Thanked 38,200 Times in 12,887 Posts
Mentioned: 636 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7247 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Hình Bóng Cũ Trường Xa Xưa.





Trong Chiến tranh Việt Nam, chiếc T-37 được sửa đổi với động cơ mạnh hơn, trọng lượng tăng từ khoảng 6.000 pound lên 12.000 pound, sức chở khoảng 2.000 pound, và tên gọi mới, A-37 Dragonfly, thay thế cho A- 1.

The 80th Flying Training Wing's mission is "To produce the world's finest pilots with the skills and attitude to succeed in fighter aviation".
SHEPPARD AIR FORCE BASE, Texas -- A familiar noise was missing from the 80th Flying Training Wing's aircraft parking ramp at about 2:30 p.m. June 17, one that has been prevalent in the Air Force's pilot training mission for 50 years - the high-pitched screech of the T-37B Tweet.

The final student training mission began at 1 p.m. marking the last time an Air Force pilot will begin their career in the introductory jet.

Second Lt. Trevor Kernes, a student pilot in the 89th Flying Training Squadron, said he was honored to be part of the historical event.

"Anyone of these guys deserves it," the future Ohio National Guardsman said. "To be chosen out of some of the best in the world is an honor. I'm humbled."

Lieutenant Kernes, a former forward air traffic controller who served in Afghanistan after 9/11 and was part of the initial push into Iraq in 2003, said the Tweet was fun to fly and a good training platform.

"I'm sorry for the T-6A (Texan II) student pilots," he said, "because they didn't get to fly the T-37."

Since 1959, more than 78,000 Air Force pilots have flown the venerable Tweet. The T-37 began its extraordinary flight into history in 1956 when it became an active aircraft in the inventory. It became operational in 1959.

The 80th FTW is the last organization in the Air Force to use the airframe.

Col. David Petersen, commander of the 80th FTW, said the durable aircraft lived up to expectations and then some.

"It's been a great trainer for 50 years," he said. "Right up to the end, it's been a good aircraft."

Lt. Col. Doug Antcliff, a standards and evaluation pilot from 19th Air Force, has flown the Tweet for the last 11 years. He said the aircraft is the same today as it was in 1991 when he was a student pilot. But, it doesn't make it any easier to see an "old friend" retire.

"There is nothing new of that airplane," he said of the aircraft's technology. "But, I'm sad to see it go because it is a true workhorse."

The Tweet will officially retire from active service July 31. The 80th FTW began training student pilots Aug. 29 in the Tweet's replacement the Texan II.

__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	image.png
Views:	0
Size:	481.9 KB
ID:	1727600   Click image for larger version

Name:	image.jpg
Views:	0
Size:	239.5 KB
ID:	1727601  
Old 01-24-2021   #328
hoathienly19
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 1,444
Thanks: 2,311
Thanked 1,686 Times in 782 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 24 Post(s)
Rep Power: 8
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default NGƯỜI TÙ CHUNG THÂN VƯỢT NGỤC !



NGƯỜI TÙ CHUNG THÂN VƯỢT NGỤC
– Tràm Cà Mau






Sau một hồi nói chuyện qua điện thoại, Dung báo cho tôi :

- “ Bác biết chuyện gì xẩy ra cho ba cháu chưa ?”

- “ Chưa. Chuyện gì ?“

“ Ba cháu đã vào chùa, xuống tóc đi tu từ hơn nửa năm nay. Ba cháu hiện tu ở một chùa gần thành phố bác ở. Ba cháu không cho ai biết chuyện ông đi tu. Dấu, không cho biết tu ở chùa nào. Cháu mới tìm ra. Cháu định tháng tới qua thăm, và rủ bác cùng đi thăm luôn. Gặp bác chắc Ba cháu mừng lắm .”

“Bác cũng mong gặp ba cháu. Lâu rồi, ba cháu và bác chưa gặp lại nhau. À, mà sao ba cháu có quyết định đi tu ? Tại sao lại phải dấu chuyện tu hành. Ði tu, chứ có phải đi tù đâu mà dấu diếm. Còn mẹ cháu thì sao ?”

Dung ậm ừ, như không muốn nói. Một lúc sau mới trả lời :

“Mẹ cháu vẫn bình thường. Vẫn oai phong như cũ. Thật ra ba cháu không cho ai biết tu nơi nào, vì sợ mẹ cháu đến phá đám.

Bốn tháng trước, ba cháu tu tại một chùa gần West Virginia, mẹ cháu đến làm ồn ào, bắt ba cháu trở về. La mắng cả sư cụ, xỉ vả ông ta đủ điều, còn phao vu lên là sư cụ đồng tính luyến ái với ba cháu.

Thiệt tình ! Mẹ cháu nói rằng, ba cháu đức mỏng, đừng tu làm chi cho phí công . Lỡ có lên được niết bàn, cũng chỉ đi bưng ống nhổ cho thiên hạ, vì kém công đức .

Về địa ngục, may ra còn được đi làm thơ ký, gác gian, đỡ nhọc nhằn hơn, bởi tội lỗi cũng không nhiều lắm. Nhà chùa khuyên ba cháu đi tìm nơi khác mà tu. Ý họ muốn đuổi khéo. Ba cháu ra đi, như đi trốn. Thật buồn .”

Tôi cười khà khà, rồi an ủi Dung, người con gái út của bạn cũ :

“ Thôi, cháu đừng buồn. Ði tu là giải thoát khỏi mọi khổ đau, hệ lụy. Biết đâu rồi Ba cháu cũng thành một thứ Phật nho nhỏ nào đó.

Cháu biết không, ngày xưa Ðức Thích Ca Mâu Ni nửa đêm cũng trốn hoàng cung ra đi, bỏ lại vợ con, ngai vàng, để tìm đạo. Trường hợp ba cháu, sao cũng có phần tương tự .”

“ Thôi, để gặp bác, cháu sẽ nói nhiều hơn. Không chừng bác có thể khuyên ba cháu trở về. Ba cháu chỉ còn có bác là bạn thân nhất, chưa buồn giận ba cháu mà thôi. Ba cháu thường hay nhắc đến bác với giọng thân thiết lắm. ”






Hai tuần sau, tôi lên phi trường San Francisco đón Dung, con gái út của Hùng, người bạn cũ từ thời còn cắp sách đến trường. Hai bác cháu từ nhiều năm không gặp, mà nhận ra nhau ngay.

Dung giống mẹ của cháu thời còn con gái. Nhỏ nhắn, trắng trẻo, mặt hơi xương, có nụ cười toét hai vành môi ra đến mang tai, nụ cười tinh nghịch, dí dỏm.

Ba mẹ của Dung đều là bạn cũ ngày xưa. Thật ra, thì mẹ Dung là em gái của bạn tôi. Tôi biết bà từ khi mũi xanh còn hít vào trồi ra và dùng tay áo mà quẹt mũi. Bà xem tôi như ông anh trong gia đình, hay vòi vĩnh bánh quà.

Dung ôm ngang người tôi và nói :

“ Lạ thật, bác không thay đổi gì cả, cháu nhận ra bác ngay. Tóc bác còn dày và đen. Ðầu ba cháu hói láng, chỉ còn cái vành tóc thưa sau đầu mà thôi ” .

Tôi cười với cháu :

“Ðầu bác là ‘phồn vinh giả tạo’ cháu à. Bác nhuộm tóc. Còn ba cháu, thì có tóc đâu mà gọi là xuống tóc đi tu ? Ông ta đã là sư cụ từ lâu rồi mà !”

Hai bác cháu cùng về trên con đường xa lộ có xe cộ nêm cứng và khói bụi lù mù. Cái giọng nói nhão nhẹt, ướt rượt kéo dài những tiếng sau cùng của Dung, làm tôi nhớ đến bà Thu, mẹ của Dung.

Bà là người con gái út trong một gia đình toàn anh trai, nên được cưng chìu, và nhõng nhẽo với các anh, với cha mẹ, và cả với mọi người chung quanh.

Bà thông minh, học giỏi, ganh đua với bạn bè, không chịu thua ai. Khi lên đại học, bà đỗ ba cái bằng cử nhân cùng một năm. Thông minh, học giỏi nên bà thường kiêu hãnh.

Bà lạm bàn cả chuyện chính trị, kinh tế. Nhiều khi bà nói hăng say đến nước bọt đóng trắng bên mép. Mỗi lần có vấn đề lâm vào một cuộc tranh luận với bà, thì tôi thường thoái thác :

“ Thôi, anh chịu thua cô. Khi nào cô cũng có lý hơn người khác cả. Tội gì mà tranh luận thắng cô, để cô nhè nước mắt ra, ai mà dỗ cho được .”

“ Thua thì phải có chầu phở, bún bò gì chớ. Thua không thôi thì ai mà chịu cho .”

Rồi bà cười hăng hắc thích thú, không giữ gìn ý tứ gì cả.

Tôi liếc nhìn qua cô cháu gái đang ngồi, hai tay đan nhau, tôi nói :

“Cháu giống mẹ cháu quá. Từ dáng điệu cho đến giọng nói.”


Dung có vẻ không bằng lòng sự so sánh của tôi. Mặt cháu hơi buồn. Im lặng một lát, Dung nói nho nhỏ:

“Không giống đâu bác à. Mẹ cháu cứng rắn lắm. Cháu thì mềm yếu, có lẽ cháu giống ba cháu nhiều hơn.” Tôi nói nho nhỏ:

“ Ðúng. Mẹ cháu cứng rắn. Bác biết điều đó từ thời bà còn nhỏ. Nhưng có chết ai đâu ?” Dung nói nhỏ như hơi thở :

“ Có. Chết một đời ba cháu .”

Hai bác cháu im lặng cho đến khi về đến nhà. Vợ tôi đón và thân mật ôm lấy Dung :

-“ Trời, cháu giống hệt mẹ cháu .” Dung lại thoái thác:

- “ Không giống đâu bác .”

Vợ tôi không hiểu ý nói tiếp :

- “ Giống hệt như đúc ra từ một khuôn. Từ dáng điệu, cử chỉ, và nhất là giọng nói, ướt và ngọt như mật đổ ra đầy bàn.

Thôi cháu thay áo quần, tắm rửa đi mà ăn cơm. Ðường xa, bay nhiều giờ mệt nhọc. Tiếc hai thằng con trai của bác lấy vợ sớm quá, không thì cháu về làm dâu nhà bác cũng vui .”

Trong bữa ăn tối, Dung đưa nhận xét :

“ Hai bác sao hạnh phúc quá. Tâm đầu ý hợp. Bác trai nói gì, bác gái cũng đồng ý vui vẻ. Bác gái nói gì, bác trai cũng phụ họa, thân mật. Ba mẹ cháu không được như vậy.

Mẹ cháu khi nào cũng đầy cả uy quyền. Khi nào cũng khích bác, chê bai. Ba cháu thì có khi im lặng đến rợn người .”

Vợ tôi nói với cháu :

“Cãi nhau làm chi hở cháu ? Vợ chồng tranh hơn thua làm chi ? Hơn thì được cái gì, mà thua thì bực mình, và gia đình mất vui.

Ngày xưa, bác cũng thích cãi vã, hay cằn nhằn, nhưng rồi học được trong sách vở, học được từ bạn bè, thay đổi dần dần, và thấy không khí gia đình vui vẻ, thân mật, ấm cúng hơn.

Hạnh phúc gia đình phải tạo ra, không phải tự nhiên mà nó đến với mình. Trồng cây cũng phải tưới bón đều đặn, hạnh phúc gia đình cũng phải xây dựng, chăm bón không ngừng.”

Dung nhìn vợ tôi với ánh mắt hơi buồn và hỏi :

“Mục tiêu tối thượng của con người trên thế gian nầy là đi tìm hạnh phúc, thế mà sao không có một ngôi trường nào mở ra, để dạy cách sống hạnh phúc cho mọi người ?

Trường dạy về khoa học, nhân văn, xã hội thì quá nhiều. Nhưng cái môn học quan trọng nhất là sống sao cho hạnh phúc, thì không có một ngôi trường nào cả, cũng không là một bộ môn nhỏ của những trường lớn. Sao vậy hở bác ?”

Nghe câu hỏi ngộ nghĩnh, tôi cười :

“ Có chứ, có khắp nơi. Ðó là nhà chùa, nhà thờ, đền thánh. Ở những nơi đó, các vị tu sĩ cũng giảng dạy tín đồ, sống sao cho hạnh phúc. Tìm hạnh phúc cho riêng mình, và đem hạnh phúc rải rắc cho những người bất hạnh chung quanh.

Kinh điển dạy con người làm lành, tránh ác. Ðem kiếp sau ra hù dọa, để ngăn ngừa cái ác, cái xấu. Phải biết kiêng, biết sợ một cái gì đó, mới dễ dàng ngăn cản cái xấu trong mỗi người bùng dậy.

Ngoài ra, còn có những khóa hội thảo, sách viết về hạnh phúc cũng tràn đầy trên thị trường, đọc không hết, sợ không đủ tiền để mua. Ngay cả kinh Phật, kinh Thánh, kinh Koran cũng là những cuốn sách dạy về hạnh phúc đó cháu à .“






“ Không. Cháu muốn nói đến một ngôi trường chính thức, để người ta theo học một cách nghiêm chỉnh. Có cấp bằng, có thi cử đàng hoàng. Có học kỹ mới thấm, chứ đọc qua, nghe qua, thì mau quên lắm, và chỉ biết lơ mơ, nhớ lơ mơ cho nên không thi hành những điều học được.

Bởi vậy, nên trên thế gian nầy, chính con người làm khổ con người nhiều nhất. Con người gây rắc rối cho con người nhiều nhất. Bác có đồng ý không ?”

Tôi nhìn Dung, tuổi trẻ mà có những ý nghĩ chín chắn, lạ lùng . Chuyện gì đã xẩy ra trong đời cháu , để cháu có những suy tư đó ? Dung ngần ngại nhìn hai vợ chồng tôi và tiếp :

“Bác không đồng ý là chính con người gây tai vạ, gây khổ đau cho con người nhiều hơn là thiên tai, thú dữ và các thứ khác sao ?

Từ tranh chấp thế giới, chiến tranh, cho đến tranh chấp chính trị, tranh chấp quyền hành. Con người bày ra để làm khổ nhau, trong lúc đó, khi nào cũng hô hào, tuyên bố rằng nhân danh hạnh phúc, để tạo ra những khổ đau, khó khăn cho người khác.

Cháu thấy trong các cơ sở chính phủ, cơ sở kinh doanh thương mãi, và cả những người hành nghề tư nữa, lâu lâu cũng có một khóa tu nghiệp. Ðể người ta ôn lại nghề nghiệp, và theo kịp các kỹ thuật tân tiến, để khỏi thụt lùi và lạc hậu. Nhưng không có lớp tu nghiệp nào về hạnh phúc gia đình. Ðể người ta nhắc nhở và dạy bảo đúng cách làm cha mẹ, làm con cái, làm anh em, làm chồng làm vợ.

Không trường, không lớp, cho nên mỗi người tự học lấy, tự tìm lấy, có người may mắn học được những điều hay, tốt, có người thiếu may mắn, không học được gì cả, hoặc học được toàn điều xấu xa, mà không biết đó là xấu, là nguy hại, là phá vỡ hạnh phúc mà họ đang kiếm tìm.

Cháu nghĩ là phải có những khóa tu nghiệp thường xuyên về gây dựng hạnh phúc, mà mỗi người làm cha, làm mẹ, làm con, làm chồng làm vợ, phải tham dự hàng năm, hoặc hàng hai năm một lần. Ðể đừng quên, để nhắc nhở, để học thêm.

Bởi cuộc đời nầy, tiền bạc, danh vọng, tiếng tăm, cũng chỉ để mà tìm kiếm và vun xới cho hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia đình mà thôi. Quan trọng như vậy, mà thiên hạ không đặt thành vấn đề.

Những người cầm quyền, nhân danh đem lại hạnh phúc cho nhân dân, cũng không có một ngân khoản, một cơ quan chính thức nào chăm lo cho vấn đề quan trọng nầy .“






Tôi nói đùa :

“Hay là cháu mở một cơ sở kinh doanh, một trường đại học dạy hạnh phúc gia đình, hạnh phúc cá nhân. Kêu gọi các nhà đầu tư, bán cổ phiếu sinh lời.

Một ngôi trường đại học mới, cho tất cả mọi công dân, là môn học bắt buộc, là môn tu nghiệp phải có hằng năm, không thì bị phạt vạ. ”

Cả ba chúng tôi đều cười vui vẻ. Dung nói tiếp trong ánh mắt tinh nghịch :

“Phải đó bác à. Gia đình lục đục, li dị, con cái hư hỏng, gây tội ác, vợ chồng giết nhau, tốn kém ngân sách của quốc gia nhiều lắm, dân chúng phải đóng thuế để trang trải cho cái thiếu hạnh phúc trong xã hội. Phí tiền quá.

Bác nói trường đại học ? Cháu nghĩ rằng, phải mở lớp từ sơ đẳng trở đi. Vì cháu thấy nhiều gia đình, nhiều người lớn tuổi, có đủ thứ bằng cấp, bằng cấp cao, mà xử thế như một kẻ không có chút hiểu biết nào về ý niệm hạnh phúc.

Phải xem họ như những kẻ thất học về bộ môn xây dựng hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc cho người chung quanh.

Có thể họ thông thái về khoa học, nhân văn, xã hội, nhưng họ là một kẻ thất học về thứ khác, thứ mà họ cố công theo đuổi trong đời người :

- Hạnh phúc.”

Vợ tôi tròn mắt ngạc nhiên nhìn Dung. Buổi tối trước khi ngủ, vợ tôi thầm thì :

“Khổ đau nào đã làm cho con bé chừng đó tuổi có những ý nghĩ lạ lùng kia ? Tội nghiệp. Trường dạy hạnh phúc ? Ðâu phải là vô lý. Ðời cũng là một trường học, mà phải vấp ngã, phải đớn đau, mới nhận chân ra ý nghĩa, tìm được phần chân lý .”

Tôi thao thức nghĩ đến bà nội tôi, học vấn của bà rất ít, chỉ đọc được năm ba chục chữ nho. Bà dạy con, dạy cháu qua ca dao, tục ngữ, ngạn ngữ. Việc nào cũng có một câu thích ứng, khôn ngoan để nói ra. Nhắc đi nhắc lại mãi, làm nó len vào ký ức của con cháu, không thể quên, không phai được.

Những câu như :

- “ Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

- Chồng giận thì vợ làm ngơ, đừng đổ thêm dầu lửa vở nhà thiêu.

- Một câu nhịn là chín câu lành.

- Thương người như thể thương thân.

- Ðiều mình không muốn thì đừng làm cho người khác.

- Anh em như thể tay chân.

- Ðược mùa chớ phụ môn khoai. Vân vân và vân vân.”

Trong đầu bà tôi, có cả một kho tàng ca dao, những câu nói khôn ngoan của người xưa, mỗi ngày bà nhắc đi nhắc lại cho con cháu nghe, như những lời hướng dẫn cách ứng xử trong cuộc đời thường. Ông anh con bác tôi, thường chế nhạo bà, sửa câu nói của bà, mà cười, và nói thầm với tôi:

- “ Một lần nhịn là chín lần nó cưỡi lên đầu mình. Anh em như thể râu ria. Ðược mùa thì tội gì mà đớp môn khoai…”

Ðó là thời anh còn nhỏ, lớn lên, tôi cũng nghe anh dạy con cái bằng những ca dao mà mà bà tôi thường nói ngày xưa.






Buổi sáng thứ bảy, sau bữa điểm tâm, tôi chở Dung lên chùa thăm ba của cháu.

Trời mát, nắng vàng, cỏ cây xanh tươi. Xa lộ vắng, ít xe, tay lái khoan thai, và trí óc thư dãn. Tôi vặn nhạc. Tiếng nhạc vui tươi, dồn dập, như đổ thêm nguồn sống đất trời.

“ Trời đẹp quá bác nhỉ. Nhạc vui làm tinh thần hăng hái thêm. Có khi nào bác nghe nhạc buồn không ?

Nhạc Việt Nam mình, nhiều bài nghe buồn đứt ruột, buồn đến rã rời thân xác, mềm nhũn tâm trí ra.”

“Có, thỉnh thoảng bác cũng nghe nhạc buồn. Ðể khơi một chút đau đớn, một chút nhớ thương, đưa hồn đi lạc về kỷ niệm xa xưa. Cũng là một chút khoái lạc trong xa xót mênh mang.

Nhưng chỉ thoáng chốc thôi và không thường xuyên. Hai bác thường ngày nhắc nhủ nhau rằng chuyện không vui thì quên liền đi, chuyên bực mình đừng than vãn, rán nói với nhau những chuyện vui, những lời tử tế.“

“ Lạ thật, chưa ai dạy cho cháu những điều bác vừa nói. Ba mẹ cháu ít khi nói chuyện với nhau bằng giọng tử tế cả. Có thể nào … bác khuyên khéo ba cháu trở về với gia đình không ? Mẹ cháu buồn lắm, cứ ngẫn người ra, cháu sợ mẹ buồn mà phát bệnh, thì khổ lắm .”

“ Ðể xem, bác không dám hứa, nhưng thuận tiện thì bác sẽ nói .”


Thiền Viện Trúc Lâm Đà Lạt






Hai bác cháu vào chùa. Chùa là một đơn vị gia cư được sửa lại, phòng khách lớn làm niệm Phật đường. Có một tượng Phật ngồi mà cái đầu quá to và dài so với thân mình. Phần nhà xe được nới rộng, che mái chạy dài ra ngoài sân sau, làm trai phòng.

Sư cụ đưa chúng tôi ra sau vườn. Hùng, bạn tôi, bố của Dung, mặc bà-ba màu tro nhạt, đang ngồi giặt áo quần bằng tay, bên vòi nước.

Hùng ngững đầu lên nhìn, với vẻ ngạc nhiên. Hai tay anh còn dính đầy bọt xà phòng. Anh vội vã đứng dậy, ôm chầm Dung và tôi vào hai vòng tay mừng vui, nói :

- “ Khỉ. Ai cho các người tới đây quấy rầy kẻ tu hành !”

Tôi trả lời :

“ Phật có cấp giấy phép cho tôi đến thăm ông. Ðừng lộn xộn. Tu là bỏ hết bạn bè, bỏ con cái hay sao ?”

Bạn tôi xả xà phòng bộ áo quần nâu, và treo lên dây phơi nắng, như ngày xưa còn ở Việt Nam. Dung nhìn theo bố với ánh mắt thương cảm :

-“ Ở đây không có máy giặt hay sao? ”

- “ Chùa không có. Chỉ giặt một bộ thôi, giặt tay cho mau. Ba chỉ có hai bộ quần áo để thay đổi. Hai ngày, thay ra thì giặt liền.”

Hùng đưa chúng tôi vào trai phòng, ngồi trên băng dài nói chuyện. Trà đậm chát trong bình thủy được rót ra ba chén nhỏ. Hùng cười, nụ cười rất hiền và đầy thương mến, hỏi Dung:

-“ Cả nhà vẫn bình thường chứ ?”

Dung nhìn bố, chớp mắt, buồn buồn, giọng hơi hạ xuống :

- “ Không bình thường ba ạ. Mẹ con xuống tinh thần, và mong ba trở về sớm .”

Hùng nhìn con gái, rồi nhìn tôi. Hơi lúng túng, sau một tiếng thở dài, Hùng nói một hơi dài :

“Dung à. Nhân sẵn có bác đây, ba nói ra cho con nghe, cũng để bác chia sẻ tâm sự của ba. Ba muốn nói với bác từ lâu, mà chưa có dịp. Ðời ba, có ba lần sung sướng nhất, xem như chết đi sống lại.

Lần thứ nhất là ra khỏi trại tù cộng sản. Ðược ra tù, ai mà không sung sướng cho được, nhất là thứ tù mà không có án, không có thời hạn giam giữ.

Lần thứ hai là khi vượt biên, đặt chân lên đất Mã Lai, dù bị dân họ đánh đập, xua đuổi, nhưng thấy được ánh sáng tự do trước mắt. Mừng đến khóc.

Và lần thứ ba, ra khỏi chính nhà mình, vào chùa đi tu.

Ba thấy mình như một tên tù chung thân thoát được ngục tù. Trong ba lần đó, đem so sánh, thì lần sau cùng nầy là sung sướng nhất, khoan khoái nhất.

Ba là một kẻ nhu nhược, hèn nhát. Ba tên là Nguyễn Hổ Hùng, ba xấu hổ với cái tên của mình. Chẳng có hùng hổ tí ti nào cả. Ðáng ra, phải đổi thành Nguyễn Dun Dế mới đúng. Chính ba cũng tự khinh mình. Tại sao ?

Tại vì ba thương các con, không muốn các con thấy gia đình lục đục, mất hạnh phúc. Không muốn gieo vào tâm trí non nớt của các con những muộn phiền về một gia đình thiếu hòa thuận. Nó sẽ có thể ảnh hưởng đến suốt đời, ảnh hưởng tới việc học, tới tương lai sau nầy của các con.

Nhưng ba cũng đã làm gương xấu cho các con về sự bất lực, yếu đuối, bị ức hiếp, chèn nén mà nín lặng chịu đựng.

Mẹ con đã ức chế ba trong mấy chục năm nay.

Nói ra thì xấu hổ, nhưng có thực, ban đầu thì vì muốn yên nhà yên cửa mà chịu nhịn, nhưng dần dà về sau, nó thành nỗi hèn nhát, sợ hãi. Cái sợ nó xâm chiếm trong ba, không biết từ bao giờ, nhưng lo sợ thường trực. Sợ mẹ con. Khi nào cũng nơm nớp sợ.

Nghe tiếng mẹ con ho cũng giật mình, nghe tiếng dép của mẹ con, trong lòng cũng không yên. Nghe tiếng mẹ con nói gì đó với ai, cũng lo là lỡ mẹ nói với ba, mà ba không nghe kịp, thì sẽ có gây gỗ, có lôi thôi.

Trở thành phản xạ có điều kiện, như con chó trong thí nghiệm tâm lý, cứ nghe tiếng chuông là chảy nước miếng.

Ba sợ mẹ con gây gỗ, khóc lóc, cằn nhằn, nói những điều khinh bạc làm ba đau đớn, gán cho ba những tội lỗi mà ba không sai phạm. Sự lấn ép của mẹ con, mỗi ngày một chút, từ từ, tiệm tiến, nhưng vững chắc và quá đáng.






Ngay từ khi ba mới bảo lãnh được cho mẹ và các con từ trại tị nạn đến Mỹ, mẹ con ngày đêm khóc lóc, tra hỏi ba làm gì trong bao nhiêu năm, mà không mua được căn nhà, phải đi ở thuê.

Mẹ con còn nói là ba không gởi tiền về giúp đỡ. Không gởi tiền về, làm sao mà mẹ sống phong lưu, và đi vượt biên mấy lần mất tiền, bị lừa.

Không gởi tiền về thì làm sao mà đi vượt biên được.

Hồi ba mới đến Mỹ, tiếng Anh tiếng u còn ấm ớ, nghe không được, nói không ra hơi, phải đi làm lao động chân tay, lương tối thiểu. Công việc thì khi có, khi không. Làm một lúc ba việc, ba nơi khác nhau.

Ngày đi làm thợ gói hàng, tối đi làm an ninh canh gác, thứ bảy chủ nhật theo các nhóm người xứ Nam Mỹ đi hái trái ớt, hái dâu cho các nông trại.

Trời nóng như lửa đốt trên lưng. Làm việc lãnh lương theo khối lượng dâu, ớt hái được. Cong lưng trên ruộng dâu suốt ngày, cái lưng đau như muốn gãy đôi. Hai tay thì đen kịt như nhúng bùn vì màu nhựa cây, phải chờ lột da mới hết đen điu.

Mỗi đêm chỉ ngủ có ba bốn giờ. Bao nhiêu tiền làm được gom góp gởi về cho mẹ con, hy vọng có ngày gia đình sớm đoàn tụ. Ba chỉ ăn mì gói, hột gà, gà kho quanh năm. Nhà cũng không dám thuê, chỉ chia phòng ở trọ.

Thế mà mẹ con cứ khóc lóc, cả ban ngày, ban đêm, những khi đi chợ, đi chơi, hỏi tiền để đâu cả. Ðem cho con bồ nào. Những dằn vặt nầy, kéo dài cho đến gần cả chục năm cũng chưa dứt.

Ba khổ tâm lắm, giải thích cách nào mẹ con cũng không nghe, không chịu hiểu. Ban đầu thì không hiểu, nhưng về sau, thì giả vờ không hiểu. Ba cũng thông cảm, vì không phải chỉ mình ba bị ở trong hoàn cảnh nầy, mà nhiều bạn bè ba cũng phải chịu cái dằn vặt tương tự của những người vợ qua sau.

Hỏi sao ai cũng mua nhà cả, mà ba không mua được. Tiền để đâu ? Phải cả hai vợ chồng cùng đi làm, và làm công việc có đồng lương kha khá, mới gồng mình lên mua được căn nhà. Chứ mới qua Mỹ, chưa có việc chuyên môn, chưa có việc lương khá, và bao nhiêu tiền dể dành, thì lo chuyển về Việt Nam cho vợ con cả. Lấy gì mà mua nhà. Ai bán cho.

Ngân hàng nào cho vay. Mà có mua được, cũng làm sao có tiền trả hàng tháng ?

Mẹ con than vãn, so sánh với những gia đình khác. Khi nào cũng thở dài, thở ngắn, cằn nhằn và chê bai. Ba cũng đã làm hết sức mình, nhưng không làm sao cho mẹ con bằng lòng.

Có lẽ ba cũng có phần lỗi, vì không đủ tài cán, không đủ may mắn để làm ra thật nhiều tiền, và có những phương tiện vật chất như mẹ con mong muốn.

Trong nhà, ba như một tù nhân, một tên đầy tớ, một tên nô lệ. Mẹ con như một bà chủ, một bà mẹ chồng khắc nghiệt đời xưa, luôn luôn dòm ngó, phê bình, nạt nộ ba.

Ba co rúm người lại trước cái nhìn quắc mắt của mẹ con. Trong bữa ăn, nếu ba vô tình làm rớt hạt cơm, hay chút thức ăn ra bàn, là mẹ con mắng ba xối xả, chê bai và nói những lời tàn nhẫn trước mặt con cái, trước mặt bà con, họ hàng.

Bởi vậy, nên trong mỗi bữa cơm, trong lòng ba cũng không yên, cũng lo lắng sợ vô tình làm rớt giọt canh, rơi cọng rau. Mất hết cả tự nhiên, mất hết cả sinh thú trong khi ẩm thực. Lo lắng, khi nào cũng lo lắng không nguôi.

Còn mẹ con thì làm đổ cả tô canh, làm rớt cả dĩa thức ăn ra sàn nhà, vỡ tan tành, cũng không ai dám nói một lời nhỏ.

Những lúc nầy, ba chỉ an ủi mẹ con là không can gì, ai cũng có lúc sẩy tay. Nói lời an ủi, mà cũng sợ bị quật lại bằng những câu nói đau lòng.






Khi ba quét nhà, lau chùi bàn ghế, mẹ con cũng đưa mắt dòm ngó vào các hốc kẹt để tìm cọng rác bỏ sót, đưa ngón tay quẹt vào góc bàn, xem có còn bụi bám hay không. Ðể rầy rà ba, chê ba cẩu thả, làm biếng. Và bắt ba phải quét lại, chùi lại.

Khi ba rửa chén bát, mẹ con cũng đứng chỉ huy và cằn nhằn, tại sao không rửa cái nầy trước, cái kia sau, và giảng giải về cách tổ chức công việc cho khoa học.

Ba đã từng rửa chén bát nồi niêu ở nhà hàng, cả ngàn cái mỗi ngày, chưa có ông chủ bà chủ nào chê bai than phiền cả.

Những khi ba đang dở tay làm một công việc gì đó, như đang đứng trên thang cưa cây, hoặc sơn lại bức tường, mà mẹ con nhờ làm việc khác, dù việc nhỏ nhặt đến đâu, cũng phải buông tay mà làm ngay, không làm liền là có ồn ào, làm liền thì mẹ con lại chê bai trách mắng ba tại sao không dẹp cái thang, tại sao còn để thùng sơn đó.

Việc gì ba làm, mẹ con cũng trách móc, uống nước chưa xong, mẹ con cũng lườm mắt hỏi sao không cất cái ly ngay, và chê ba làm biếng.

Cất con dao vào chạn, mẹ con cũng kiếm cớ mà phàn nàn, nhăn nhó.

Áo quần đang thay, chưa cất kịp, cũng la hoảng lên. Con biết hết những điều đó. Ba nhắc lại cho bác nghe, để bác biết cho tình cảnh của ba.

Mỗi lần lái xe cho mẹ con đi đâu, là cả một cực hình, dọc đường, cứ thế mà mẹ con ra rả than vãn đủ chuyện, chê trách ba đủ điều, bới móc chuyện xưa từ mấy chục năm trước để mắng mỏ ba, dù cho ba không hề sai phạm.

Khi lái xe trên đường, thì mẹ con như ông tướng ra lệnh, với giọng hách dịch sai bảo, lái mau, lái chậm lại, quẹo phải, quẹo trái. Chưa nghe mẹ con ra lệnh với cái giọng dịu dàng bao giờ. Ba là chồng, không phải là tài xế, không phải là kẻ nô lệ.

Tài xế mà nói với giọng hách dịch như vậy, thì họ cũng bỏ việc, hoặc chửi lại cho nhục nhã.

Mỗi khi lái xe, ba vừa bực mình vì những lời khó nghe của mẹ, vừa lo lắng sợ đi lạc đường. Nếu chỉ lạc đường một đoạn ngắn, thì mẹ con làm như trời đất long lở, làm như ba phạm tội sát nhân không bằng.

Mấy lần, người khác bất cẩn, cọ quẹt vào xe mình, thế là ba lãnh đủ, bị mẹ con cằn nhằn, xỉ vả, nhiếc móc ba cả năm trời. Và thỉnh thoảng cũng còn nhắc lại.






Và khi mẹ con đọc báo, xem truyền hình, thấy những chuyện xấu xa xẩy ra trong xã hội, là mẹ con xỉ vả, chửi bới, trách móc, làm như chính ba là kẻ tội phạm. Có khi ba phát cáu, gắt lên, mà mẹ con cũng không tha, cứ tiếp tục hành hạ ba bằng những ngôn từ không tử tế.

Vào tiệm ăn, bao giờ mẹ con cũng giận ba, vì không lấy đũa muỗng kịp thời cho mẹ, vì không lấy đủ khăn giấy, hoặc pha trà cho mẹ con quá đầy, quá vơi.

Chưa bao giờ đi ăn tiệm chung với mẹ con, mà ba được quyền lựa chọn món ăn mình thích.


Bởi vậy, những buổi trưa đi làm, ba thích ngồi ăn một mình trong tiệm, thấy lòng thanh thản, nhàn nhã, và sung sướng lắm. Thế nhưng nhiều khi mẹ con cứ bắt ba bới cơm theo, để tiết kiệm tiền.

Mỗi sáng đi ra khỏi nhà, đến sở, ba cảm thấy bình yên, sung sướng, và thấy bạn bè, đồng nghiệp tử tế với mình quá. Ngồi trong sở, ba thấy vui hơn ngồi trong chính ngôi nhà mình.

Trong sở, ba được xem là người cẩn thận, chăm chỉ, thường được giao đảm trách những dự án khó khăn.

Thế nhưng, mẹ con xem ba là người cẩu thả, làm biếng, cái gì ba làm, mẹ cũng chê bai. Mỗi buổi chiều tan sở, ba nấn ná để về nhà chậm hơn, lái xe chậm hơn, vì về đến nhà là nỗi lo sợ dâng lên trong lòng.

Mở cửa nhà, mà lòng không vui, nghe tiếng mẹ con nói là giật mình, hoảng hốt. Có khi về nhà, phải đi nhè nhẹ, sợ mẹ con biết ba đã về. Mỗi đêm, ba cũng không có quyền thức đêm đọc sách, xem truyền hình, mẹ con ra lệnh đi ngủ, là phải gấp gấp thi hành. Không thì tru tréo lên, làm ầm nhà ầm cửa.

Ba như một đứa bé hai tuổi, phải tuân phục tuyệt đối. Ba đọc sách, xem truyền hình, mẹ con cũng kiểm soát, cũng bảo là phải đọc loại sách nầy, sách kia, phải xem đài nầy, đài kia. Không cho ba xem, đọc những sách, những chương trình truyền hình mà ba thích.

Ðêm nằm ngủ bên mẹ con, cũng không dám trở mình nhiều, sợ mẹ con mất ngủ, thức giấc dậy phàn nàn, cau có. Giấc ngủ cũng không hết lo, và nhiều đêm ác mộng thấy bị mẹ con dằn vặt, cằn nhằn.

Ngay cả bây giờ, xa mẹ con vạn dặm, những giấc ác mộng đó vẫn chưa thôi.





Áo quần của ba, cũng phải mặc những thứ mẹ con mua, ba không có quyền lựa chọn áo quần cho ba. Tự mua cái áo là có chuyện rầy rà, mỗi lần đem cái áo đó ra mặc, là mẹ con kiếm cớ chỉ trích, gây gỗ, và nói những lời đau lòng khó nghe.

Bởi vậy, có những cái áo mà ba không dám đụng đến. Ba phải mặc những thứ áo quần mẹ mua cho, dù không ưa, không thoải mái.

Mỗi khi mua xe, mua nhà, là ba không dám có ý kiến, cứ đưa ý kiến ra, thì trước hết là bị chê bai, khích bác. Nếu không, thì sau nầy, có bất cứ chuyện gì nhỏ nhặt xẩy ra cho căn nhà, cho chiếc xe, thì mẹ con níu lấy ba mà đổ lỗi, làm tình, làm tội từ năm nầy qua năm kia. Khổ lắm.

Ba cứ để cho mẹ con toàn quyền quyết định. Làm gì thì làm. Nhưng cũng có khi chẳng được yên đâu. Nếu có chuyện bất trắc, thì mẹ con trách cứ ba là vô trách nhiệm, để mẹ con phải gánh vác một mình.

Những khi trong nhà có thứ gì hư hỏng, ba phải sửa chữa, và làm với nỗi lo lắng, bất an, sợ sửa không được thì mẹ con chê bai, nhục mạ, nói những lời hỗn láo khó nghe.

Mà kêu thợ sửa những thứ lặt vặt, thì mẹ con cứ lãi nhãi là bất tài, vô dụng, vụng về.

Mẹ con phong tỏa kinh tế, không cho ba giữ tiền, mỗi khi tìm thấy tiền trong túi ba, là mẹ con gây gổ, ồn ào.

Hàng tháng, khi nhận được kết toán chương mục của ngân hàng, là mẹ con dò tìm, hạch xách hỏi ba với giọng tra hỏi, tại sao có mục nầy, tại sao có mục kia, trong lúc chỉ có mẹ con ký ngân phiếu và lấy tiền mà thôi.

Ba chỉ nói là cứ đến hỏi ngân hàng, còn ba không biết. Nói thế cũng bị mắng mỏ, là không biết gì cả.

Mẹ con sợ ba gởi tiền giúp đỡ những người bà con bên quê nhà. Ðã giữ hết tiền, mà mẹ con khi nào cũng xa gần chửi bới bà con, bạn bè ba, là ăn bám, là làm biếng, là tham lam.

Khi ba nghèo khó, ba chịu ơn không biết bao nhiêu người, khi ba có chút tiền bạc, khá lên, thì không ai nhờ vả ba được một xu nào. Ba tự xấu hổ với lương tâm.

Có những bà con bên nhà đau yếu, khó khăn, ba phải mượn tiền bạn bè mà gởi về giúp đỡ. Ba còn nợ của bác đây mấy ngàn đồng, đã nhiều năm, chưa trả được một xu. Ba đợi đến sang năm, đủ tuổi lãnh non tiền an sinh xã hội, rồi thanh toán luôn.






Còn tiếp ,
hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
Old 01-26-2021   #329
hoathienly19
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 1,444
Thanks: 2,311
Thanked 1,686 Times in 782 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 24 Post(s)
Rep Power: 8
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default



Ba sợ nhất là thất nghiệp. Mỗi lần thất nghiệp phải chịu đựng sự dày vò của mẹ con.


Mẹ con chê bai ba, đổ cho ba nhiều tội, cho rằng vì ba vô trách nhiệm, làm biếng, nên bị cho nghỉ việc.

Mẹ con nói rằng, nếu ba khá hơn, thì người ta cho người khác nghỉ, chứ không phải là ba.

Mẹ con đằn vặt ba ngày đêm, và thúc hối ba đi tìm việc, làm như ba không muốn tìm ra việc.

Chưa xong, mẹ con còn bêu rếu, đi đâu, gặp ai, cũng rêu rao là ba bị cho nghỉ việc vì kém cỏi. Dù cho cái sở của ba làm có bị phá sản, mẹ con cũng đổ lỗi cho ba. Những khi nầy, mẹ con cho rằng ba ăn bám vào vợ.

Ba tin rằng, đời ba chưa hề ăn được của mẹ con một miếng cơm nào. Có ăn của mẹ con được một miếng cơm, thì e cũng phải hộc ra ba bụm máu.

Ba còn nhớ cái thời mà mẹ con được công ty cho một chức vụ nhỏ, làm trưởng toán, có ba người nhân viên làm việc dưới quyền. Cái thời nầy, mẹ con càng hùng hổ hơn.

Làm như bà là chỉ huy tất cả mọi người. Miệng phán ra toàn mệnh lệnh. Ba càng sợ hãi hơn. Bà con quen biết cũng phải khó chịu lây.

Một điều, mà cho đến ngày nhắm mắt, ba cũng còn ân hận, là chuyện bà nội con. Ông nội con mất khi ba còn bé. Bà buôn tảo bán tần, nuôi ba học hành đến nơi đến chốn. Có nghề nghiệp vững vàng, có chút địa vị trong xã hội. Biết bao nhiêu là công phu, khó khăn, hy sinh để nuôi nấng ba.

Thế mà khi ba bảo lãnh được bà nội qua đây, mẹ con hất hủi, dằn vặt, nói nặng, nói nhẹ bà, để bà không sống nổi với con cháu, mà phải về lại bên quê nhà. Rồi bà mất, mà ba không về được. Ba khổ tâm lắm lắm. Không có gì bù đắp, không có gì chuộc lại những mất mát trong lòng ba.

Ba hèn nhát, để vợ đối xử với mẹ như vậy. Không ai có thể dung thứ cho ba cả. Ba có tu mấy mươi kiếp cũng không chuộc lại được tội của ba. Ba biết bà nội đứt ruột đứt gan khi thấy ba đớn hèn, sợ mẹ con như sợ cọp dữ.

Ba đã nói, cái sợ như một phản ứng có điều kiện, nó nhập vào trong tiềm thức, ăn sâu vào trong trí. Lý trí không điều khiển được cái nỗi sợ trong lòng.





Còn tình thương yêu, thì cái sợ nó che khuất cả tình thương yêu vợ chồng. Ðiều nầy, đáng ra ba chỉ nói riêng với bác, nhưng con có thể nghe để học kinh nghiệm cho đời sống gia đình sau nầy.

Không còn tình nữa, những khi vợ chồng gần gũi nhau, chỉ là một việc trả nợ quỷ thần, làm cho xong bổn phận, và khó khăn lắm mới có thể khởi đầu. Ðôi khi tưởng mình đã bất lực.

Bạn bè gần của ba, thì ai cũng biết và tránh không muốn đến nhà. Cái thái độ của mẹ con làm họ khó chịu. Những khi có bạn bè từ xa đến thăm, là ba lo lắng lắm.

Mẹ con chỉ nấu giúp bình trà, hay làm một tô mì gói, cũng than vãn, cằn nhằn là không có sức để hầu hạ bạn của ba. Có khi mẹ con không ra chào bạn của ba. Khách cũng buồn vì nghĩ là chủ nhà không muốn tiếp mình.

Sau khi khách về, là lúc ba lo lắng nhất, sợ sóng gió dậy lên trong gia đình.

Bà con xa gần bên nội đều lánh mặt, không muốn giao tiếp với gia đình mình. Vì thái độ thiếu lịch sự của mẹ con. Gia đình bên nội khinh ba bạc nhược, hèn nhát. Họ đúng .

Nhưng con biết nguyên nhân sâu xa nào, làm ba trở thành yếu đuối, bạc nhược như vậy? Có lẽ vì ba mồ côi cha sớm, suốt một đời ba tha thiết tình phụ tử mà không có. Ba không muốn các con phải thiếu mất tình thương của cha, hoặc của mẹ trong khi tuổi còn thơ ấu.

Ba thấy nhiều gia đình, cha mẹ li tán, con cái bơ vơ đau khổ tội nghiệp lắm, có đứa phải bỏ học, những đứa khác có thể thành công trong cuộc đời, nhưng vết thương, niềm đau trong lòng không bao giờ vơi lấp được.

Ðó là lý do chính yếu. Bởi vậy, nên ba nguyện là khi nào con học xong, kiếm được việc làm tốt, thì ba vào chùa tu, rũ sạch lo âu phiền muộn.

Ðể hết nhà cửa, tiền bạc, tài sản lại cho mẹ con, ba không cần mang theo một xu. Ba đã già, đời không còn bao năm nữa, tại sao lại phải sống trong lo âu, sợ hãi, bực bội, không vui ?

Ba muốn những năm ngắn ngủi còn lại trong đời mình, là những ngày tháng thảnh thơi, dễ chịu, thong dong, không bị kềm kẹp, không bị kiểm soát, không bị dằn vặt, đay nghiến bởi bất cứ ai.

Ba bây giờ như kẻ bị tù chung thân, đã thoát được ngục tù. Con đừng bắt giam lại, tội nghiệp ba lắm.“

Hùng bưng trà, chiêu một hơi dài cạn chén, nở một nụ cười thỏa mãn, có lẽ vì đã nói ra được hết nỗi niềm chất chứa trong lòng từ lâu. Tôi thở dài. Dung thì nước mắt rưng rưng nắm lấy tay bố.






Tôi đưa tay vò cái đầu láng bóng của Hùng và nói đùa :

“Cái đầu của ông trơn quá, e bụi cũng không bám vào được. Không ngờ đời ông mà cay đắng đến thế.

Ngày xưa, khi còn sinh viên, mỗi lần biểu tình, bãi khóa, ông đi đầu cầm biểu ngữ, la hét hùng dũng lắm, chẳng sợ trời đất gì cả.

Ra làm việc, ông cũng chẳng coi thượng cấp ra một kí lô nào. Thế mà lớn lên, chỉ sợ vợ thôi. Thiệt đời cũng lạ .”

Chúng tôi cùng cười. Dung đưa tay lau nước mắt và hỏi:

“ Ở đây ba thấy sao ? Có dễ chịu không ? “

“Thiên đường. Ba sung sướng lắm. Trong lòng ba nhẹ nhàng, cái niềm lo âu đè nặng mấy mươi năm nay nó tuột đi, nhẹ bỗng lâng lâng.

Mỗi sáng thức dậy, vui sướng. Mỗi giờ mỗi khắc không có một chút lo âu, lòng yên ổn. Chỉ riêng cái ý thức là mình hết lo, hết sợ hãi, cũng đã là sung sướng lắm rồi.”

“Con hỏi, ba có tin đi tu là sẽ được … cái gì đó, để mai sau về niết bàn hay … gì gì đó không ?”

“Ba chẳng tin cái gì cả. Có lẽ chết là hết, tan thành tro bụi.
Nhưng đọc kinh Phật, ba tìm được rất nhiều an ủi, nhiều thanh thản cho tâm hồn, cởi ra được nhiều sân si còn ẩn náu trong mình. Càng đọc, càng thấy mình nhẹ nhàng, thanh thoát. Chỉ có thế thôi .”






Buổi trưa, tôi mời Hùng ra tiệm ăn cơm chay, Hùng không chịu, và mời ở lại ăn cơm chùa. Chúng tôi ăn vào lúc gần một giờ chiều. Cơm ba món, canh bí đỏ, rau luộc, và dưa kho. Tôi ăn được ba chén đầy. Tôi nói với Hùng:

“Cơm ngon quá. Món ăn thanh đạm, giản dị, nhưng rất ngon. Tôi làm một lúc ba chén đầy. Ở nhà, chỉ ăn được hai chén là nhiều lắm.”

Hùng cười, nụ cười lém lỉnh thân thiết ngày xưa khi chúng tôi còn đi học, và trả lời :

“ Ðể cho đói đến đắng miệng, thì ăn cơm nguội cũng ngon. Ðây là chủ trương của nhà chùa. Không khi nào dọn cơm đúng bữa, mà phải dọn cơm cho khách thập phương càng trễ càng tốt.”

Tôi chèo kéo và năn nỉ lắm, Hùng mới chịu theo chúng tôi về nhà thăm, ở lại đêm chơi. Hùng mang áo cà sa vàng, cổ quàng một chuỗi hạt màu nâu, đem theo một bộ áo quần ngủ. Về đến nhà, vợ tôi mở cửa, chắp tay vái, và nói:

“Bây giờ thì chúng tôi phải kêu anh là gì cho đúng nhỉ? Thượng tọa, đại đức hay thầy …”

“Chẳng thượng tọa, đại đức gì cả. Tôi mới vào tu, chẳng có chức vị gì. Mà cũng chẳng cần chức vị. Ði tu để tìm thanh thản cho tâm hồn. Tránh đau phiền nơi tục lụy. Ðược vậy là đã xem như đốn ngộ rồi.”

Vợ tôi rót nước, pha trà, và dọn bánh mời khách. Chúng tôi ngồi nói chuyện xưa, hàn huyên, nhắc đến bạn bè cũ. Kẻ mất người còn. Nhắc đến những kỷ niệm xưa, khi chúng tôi còn đi học, còn ở tỉnh lỵ nhỏ.

Vợ tôi lấy xe ra đi. Một lúc sau xách về nhiều bao thức ăn, rau, cải, tàu hủ, nước tương, chao. Chúng tôi phụ mang vào trong bếp.

Buổi tối, khi vợ tôi mời vào bàn ăn, thấy trên bàn dọn sẵn gần chục món chay khác nhau, màu sắc xanh đỏ, ngon lành. Có món canh khổ qua dồn thịt chay, chả cua chay vàng ruộm, thịt gà xào sả ớt chay, thịt heo hầm chay, giả cầy chay, miến xào, xà lách bát bửu, cá trê nướng chay, tôm kho nước dừa chay.

Hùng có vẻ ái ngại, nói:

“ Ðể chị phải mất công mệt nhọc như thế nầy, tôi áy náy quá. Ðáng ra tôi phải nói trước, chỉ cần cho tôi chai nước tương tưới vào cơm ăn là đủ rồi .” Vợ tôi cười vui vẻ :

“Thôi, anh đừng khách sáo. Mấy khi tôi được dịp ôn lại cách nấu cơm chay của mẹ tôi ngày xưa. Tôi phải cám ơn anh mới phải, nhờ có anh đến chơi, tôi mới có cơ hội nấu đồ chay. Ngày mai, có cháo gà ăn điểm tâm. Cháo gà đặc biệt lắm, cháo chay mà không nói trước, thì tưởng như cháo gà thật.” Tôi cười :

“Ðã ăn chay rồi, mà còn vọng mặn. Kìa, con cá chiên kia là chay hay mặn, mà giống thế, còn dĩa tôm kho nầy nữa. Toàn cả lừa mị thánh thần.” Vợ tôi cười nói :

“Ðấy, thế gian nầy đầy cả giả dối. Ngang nhiên lừa mị thánh thần mà còn hiu hiu tự đắc. Không chừng, biết là bị đánh lừa, mà mấy ổng lại khoái !”

Khi mở bia mời khách, vợ tôi mới biết là không còn nước đá trong ngăn lạnh. Bên ngoài trời đổ mưa tầm tã, vợ tôi hơi bối rối, rồi chạy vào lấy dù ra xe đi mua nước đá. Tôi ngăn lại, cả Hùng cũng cản, vì uống bia không có nước đá cũng chẳng sao. Vợ tôi cười :

“ Các anh uống bia không có nước đá mất ngon đi ”.

“Nhưng trời mưa to quá, vã lại, đi làm chi cho ướt át, khổ thân .”

“ Ðể em đi, lỗi tại em không làm đá sẵn, và quên để bia vào tủ lạnh. Các anh và cháu chờ nhé.”

Hùng áy náy nhìn theo vợ tôi đang xách dù mở cửa nhà xe ra đi. Mười lăm phút sau, vợ tôi chạy về với nét mặt vui vẻ, hớn hở, mang theo một bịch nước đá lớn. Bỏ nước đá vào ly của Hùng và tôi, vợ tôi nhẹ nhàng :

“ Không có nước đá, bữa ăn cũng mất ngon phần nào, uổng công tôi làm bếp .“






Vợ tôi tắt đèn điện, bưng ra ba đế đèn cầy, ánh sáng vàng tỏa ra trong nhà ấm cúng. Chúng tôi nâng đũa. Hùng cười đùa :

Bây giờ tôi mới hiểu câu nói : " thân trai mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu’. Nầy ông Nguyên, ông có vợ hiền, gia đình thật là ấm cúng hạnh phúc. Không tu mà được hưởng phước đấy .” Tôi đùa lại:

“Không phải trong nhờ, đục chịu đâu. Có đục cũng phải gạn lọc cho thành trong. Phải là :

" Dạy con từ thuở còn thơ, dạy nhau từ thuở bơ vơ mới về."

Ðể trễ quá, thì chỉ còn có nước vô chùa lánh nạn như ông mà thôi.

“ Lánh nạn thì đâu cần phải vào chùa hở ba ? Lánh nạn thì ở đâu mà chẳng được ? Sao ba không qua Hawaii hoặc về Florida mà ở, vừa ấm áp vừa vui.” Hùng trả lời :

“Vào chùa, là xem như dứt khoát hơn, mình dễ làm quen với kinh kệ hơn. Ở ngoài thì ham cái khác, còn vọng động. Mà mục đích chính, là các con còn lấy chồng, lấy vợ. Ba không muốn các con mang tiếng có cha mẹ li dị.

Ba đi tu, không ai có thể dị nghị chi các con cả. Người ta nghĩ là ba làm việc tốt. Bây giờ các con lớn rồi, ba có cơ hội để sống thêm ít năm trong yên bình tâm trí, mà không ái ngại.

Nếu từ đầu mà không vì các con, thì ba đã lấy quyết định dứt khoát ngay. Ba đâu phải là một kẻ ngu đần để cắn răng chịu đựng mấy mươi năm nay. Khi nào các con có gia đình hết rồi, và nếu ba không tìm được an nhiên tự tại trong khi ở chùa, thì ba sẽ xét lại việc đi tu.

Nhưng hiện nay, như ba đã nói với con, là thiên đường đã tìm thấy, không cần phải chờ qua kiếp sau, hoặc đi đâu xa vời.”

Dung thở dài nói như khóc :

“Con biết ba khổ lâu nay, nhưng không ngờ trong lòng ba khổ đến thế. Con thương mẹ, nên mù quáng, không thấy hết uẩn khúc trong ba.

Con qua đây để thăm ba, cũng định để thuyết phục ba trở về với mẹ. Nhưng bây giờ, con tin, ba ở lại tu hành là đúng, không có lý do gì để ba phải chịu đựng cay cực nhiều hơn nữa.”

Ngày chủ nhật, vợ chồng tôi đưa Hùng và cháu Dung đi thăm San Francisco. Chúng tôi đi bằng xe điện tốc hành, rồi lấy xe bus, ra bến tàu, đi thăm cầu Golden Gate đỏ chói phơi mình một nửa ngoài nắng, một nửa chìm trong mây mù.

Chụp mấy tấm hình kỷ niệm. Về phố Tàu ăn “ tỉm xấm ” và qua thăm vườn Nhật. Buổi tối đi nghe nhạc hòa tấu đến khuya mới về đến nhà. Chúng tôi pha trà, ngồi nói chuyện cho đến khuya.

Hùng cảm động nói với vợ tôi:

“Bây giờ, tôi tin là hạnh phúc gia đình có thật trên đời nầy. Ở nhà anh chị hai hôm, đi chơi với anh chị suốt ngày, mà chưa hề nghe vợ chồng gay gắt nhau một lời. Người xướng, người họa, vui vẻ, hòa đồng, khi nào cũng ngọt ngào, tử tế, dịu dàng. Ðời sống thật hạnh phúc.

Khi đủ ăn, đủ mặc, không túng thiếu, mà cuộc sống có hạnhphúc, thì đâu cần đi tìm thiên đàng cho xa xôi.” Dung nhìn vợ tôi và hỏi:

“ Bác cho con một lời khuyên, sau nầy làm sao để tạo được một gia đình hạnh phúc ?”

Vợ tôi cười và trả lời :

“ Cả hai người đều phải biết cho nhiều hơn nhận. Ðừng đòi hỏi ai phải có bổn phận đối với mình. Nên luôn luôn tự hỏi mình đã làm được gì cho người khác chưa , đừng hỏi tại sao người khác chưa làm việc nầy, việc kia cho mình. Biết chấp nhận và thương cả cái ưu điểm, lẫn khuyết điểm của người mình thương ”.


Tràm Cà Mau

http://nguoiphuongnam52.blogspot.com...c-tram-ca.html


hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
Lien53 (08-11-2021)
Old 03-13-2021   #330
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,408
Thanks: 21,690
Thanked 38,200 Times in 12,887 Posts
Mentioned: 636 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7247 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default NGƯỜI NỮ TU TRONG CÔ NHI VIỆN PLEIKU...



Hơn sáu tháng sống chết với chiến trường và giữ vững được Kontum, đầu tháng 10 1972, đơn vị tôi được kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân số. Đây là phần thưởng đặc biệt dành cho một đơn vị đã tạo nên kỳ tích trong trận chiến đẫm máu để có một “Kontum Kiêu Hùng”. Một tháng đóng trên Đồi Đức Mẹ lại là một tháng gió mưa lầy lội. Hình ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa hy sinh trên chiến trường Kontum lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ như những vết chém đang còn rỉ máu trong lòng. Muốn tạm quên trong chốc lát đã là một điều không dễ. Bọn tôi thèm những cơn say. Rất may, tôi có một anh bạn, phải nói là ông anh mới đúng, là Liên Đoàn Trưởng của một Liên Đoàn Biệt Động Quân, có căn cứ tại Biển Hồ. Vợ và hai đứa con bị chết thảm tại Quảng Đức hơn một năm trước, khi xe bị VC giật mìn, nên bây giờ anh chỉ còn làm người tình với rượu. Những ngày không bận hành quân, anh đến đón tôi đi uống rượu trong một cái quán nằm trong Khu Chợ Mới, đã vậy mỗi khi trở về, anh còn dúi cho tôi một chai Hennessy. Trước kia anh từng là một cấp chỉ huy có tiếng trong binh chủng này, nhưng vì bản tính ngang bướng bất cần, nên nhân một lý do phe phái chính trị nào đó, anh bị ngồi tù một thời gian ngắn. Ra tù, anh bị thuyên chuyển về đơn vị tôi với cái lệnh “không được giữ bất cứ chức vụ chỉ huy nào”. Biết anh là một niên trưởng và từng dạn dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ, an ủi anh và kéo anh về ở chung nhà trong khu cư xá, vợ tôi lo chuyện cơm nước cho anh. Một thời gian sau, bỗng dưng anh được xét cho “vô tội”, trở lại binh chủng, thăng cấp và chỉ huy một liên đoàn Biệt Động Quân. Do cái ân tình đó mà anh quý mến tôi, kéo tôi theo các cuộc giải sầu này.
Dường như ngoài quán rượu ra, thỉnh thoảng anh chỉ ghé đến thăm một cô nhi viện. Nói là viện nhưng thực ra đây chỉ là một ngôi trường cũ, được chỉnh trang lại, tạm đáp ứng nhu cầu cần thiết cho một trại cô nhi. Có lẽ anh muốn tìm lại bóng dáng của hai đứa con đã phải chết oan một cách đau đớn qua hình ảnh các cháu cô nhi mà đa số là con của tử sĩ, có cả con của những người lính Biệt Động Quân của anh, mà cả người mẹ cũng chết, hay vì một lý do nào đó không có khả năng nuôi dưỡng, nên đành phải gởi lại nơi đây, nương nhờ vào bàn tay và tấm lòng nhân ái của những bà sœur. Anh bảo là từ sau trận chiến Tân Cảnh và Kontum, cô nhi viện này nhận thêm khá nhiều cô nhi. Hằng tháng, anh ghé lại đây thăm và tặng cho viện một số tiền, bởi bây giờ anh sống độc thân, không còn phải chu cấp cho ai. Biết điều này, tôi càng kính quí anh hơn. Một người ngang tàng không biết sợ ai, sống bất cần đời, nhưng bên trong là cả một tấm lòng vị tha nhân ái.

Một hôm theo anh đến đây, chúng tôi được một bà sœur ra tiếp và mời vào văn phòng uống trà. Anh bạn tôi thì đã là người quen biết từ lâu, trong cách giao tiếp, anh được các sœur xem như một ân nhân bảo trợ, chỉ có tôi là người lạ. Nhưng khi chào tôi, sœur bảo thấy tôi giống một người thân quen nào đó. Còn tôi, thì cũng mơ hồ như đã từng gặp người nữ tu này ở đâu rồi. Cũng có thể vì khuôn mặt khả ái, hiền thục của sœur phảng phất gương mặt của Đức Mẹ Maria mà tôi thường thấy trên các bức ảnh hay bức tượng trong các nhà thờ. Được giới thiệu là sœur Anna, tôi biết đây chỉ là tên thánh của bà. Khi tôi vừa ngồi xuống phía đối diện, sœur nhìn chăm chú vào cái bảng tên của tôi trên nắp tùi áo, bỗng mắt sœur như sáng lên:
– Có phải lúc trước đại úy ở Tiểu Đoàn 3/44?
Tôi khựng lại, ngạc nhiên:
– Dạ, đúng là trước kia có mấy năm tôi ở tiểu đoàn này. Nhưng cách nay đã 6, 7 năm rồi!
– Đại úy còn nhớ trận Quảng Nhiêu. Hình như đại úy suýt chết trong trận ấy?
Tôi càng ngạc nhiên hơn, không hiểu tại sao người nữ tu này biết rõ mình như thế. Tôi vừa trả lời vừa nghĩ ngợi, thăm dò:
– Dạ đúng, nhưng sao sœur biết. Chuyện đã xảy ra lâu lắm rồi mà.
Sœur Anna không trả lời mà hỏi lại tôi:
– Đại úy thoát chết, nhưng người nằm hố bên cạnh thì bị nguyên một quả đạn súng cối 60 hay 80 gì đó, phải không?
Tôi giật mình, từ ký ức hiện ra rất nhanh hình ảnh hãi hùng này, và ngay lúc ấy, trước mắt tôi sœur Anna cũng phảng phất bóng dáng của một người con gái khác.
***
Vào khoảng đầu mùa hè năm 1966, tôi đang làm đại đội phó Đại Đội 3 thuộc Tiểu Đoàn 3/44. Thời gian này hậu cứ tại Ban Mê Thuột, nhưng tiểu đoàn được chọn làm đơn vị trừ bị lưu động cho Sư đoàn và Khu 23 Chiến Thuật. Thời ấy chưa có các đại đội trinh sát. Đơn vị tôi có mặt gần như trên khắp lãnh thổ Khu 23 Chiến Thuật, kéo dài từ vùng cao nguyên có biên giới với Cam Bốt cho đến tận miền duyên hải. Có khi hôm trước còn hành quân ở Quảng Đức, Lâm Đồng, hôm sau lại có mặt ở Bình Tuy, Tuy Hòa, Phan Thiết…

Một hôm, sau cuộc hành quân dài hạn ở khu Cà Ná, thuộc tỉnh Ninh Thuận, tiểu đoàn được lệnh di chuyển về Cam Ranh, vừa nghỉ dưỡng quân vừa giữ an ninh các đảo ngoài khơi để lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân xuống đây thiết lập căn cứ.
Trong một đợt bổ sung quân số, đại đội tiếp nhận ba hạ sĩ quan và gần hai mươi tân binh vừa rời khỏi quân trường. Tôi đến bộ chỉ huy tiểu đoàn nhận lãnh và đưa về trình diện anh đại đội trưởng. Trong ba trung sĩ, một anh có dáng dấp, nói năng hiền lành như một thầy tu. Xem qua lý lịch và nhất là sau khi nói chuyện, tôi biết anh là thầy giáo một trường dòng và cũng là trưởng ca đoàn của một nhà thờ ở ngoại ô thành phố Nha Trang, quê hương tôi. Tôi không phải là người Công giáo, nên không mấy am tường các sinh hoạt này, nhưng biết chắc một điều, trưởng ca đoàn phải là một người hát hay và giỏi về nhạc lý. Vốn có máu văn nghệ, lại là người đồng hương, nên tôi dễ thân tình và thường bắt anh hát cho cả đại đội nghe. Tôi đề nghị anh đại đội trưởng cho anh làm Hạ Sĩ Quan Tâm Lý Chiến của đại đội. Từ đó chúng tôi rất thân nhau, ăn cơm chung và treo võng ngủ gần nhau dưới một vòm cây dương liễu.

Thấy anh có cái tên hơi lạ, Nguyễn Phú Hùng Em, tôi đoán và hỏi anh có phải anh có người anh tên Nguyễn Phú Hùng Anh. Anh cười mà nét mặt không vui:
– Dạ, đúng là có một người là Nguyễn Phú Hùng Anh, nhưng không phải là anh ruột. Chúng tôi lớn lên trong viện mồ côi, vì trùng tên, và anh ấy lớn hơn tôi ba tuổi, nên các sœur đặt lại tên chúng tôi như thế. Bọn tôi cũng rất thân nhau và xem như anh em. Điều buồn, là anh ấy đi lính trước, vào Trường Sĩ QuanThủ Đức và tử trận cách nay hơn một năm rồi.

Thời gian này, đơn vị chúng tôi rất may mắn, chẳng khác nào được đi nghỉ mát. Hải đảo lại là nơi thực tập cho các toán Biệt kích của Trung Tâm Huấn Luyện Lực Lượng Đặc Biệt Đồng Bà Thìn, nên khá an toàn. Suốt ngày bọn tôi chỉ tắm biển, câu cá, ban đêm nằm nghe sóng vỗ, đàn hát nghêu ngao. Có lẽ đây là thời gian đặc biệt thoải mái nhất trong cuộc đời làm lính của tôi. Nhân cơ hội hiếm hoi này, ông Tiểu đoàn trưởng cho phép binh sĩ được luân phiên đón vợ con ra thăm và được ở lại trong hai tuần lễ.

Một hôm anh Trung sĩ Hùng Em xin tôi cho được đón người yêu mà anh cho biết, nếu anh không bị động viên thì chắc hai người đã làm đám cưới. Tôi sắp xếp, dọn sang nằm với người lính ô-đô và nhường chiếc võng lại cho anh. Cả bọn tôi khá bất ngờ khi anh đưa người yêu đến chào. Là một cô con gái đẹp, làn da trắng, khuôn mặt phúc hậu, đôi môi mọng đỏ với nụ cười hiền lành, lễ độ. So với anh, cô còn khá trẻ. Cô có cái tên cũng rất khả ái: Thụy Khanh. Đặc biệt còn có giọng hát rất hay. Mỗi lần cô hát, cả đám lính tráng bọn tôi ngồi nghe mê mẩn.

Sau đó, cô đến đảo thăm anh vài lần nữa. Những ngày có cô, núi rừng trên đảo dường như bỗng trở nên đẹp, thơ mộng và vui vẻ hơn, sóng biển thì êm ả hơn như để cùng hòa theo tiếng hát của cô. Ngoài ra cô còn có tài nấu ăn, thường đãi bọn tôi những bữa cơm rất ngon miệng. Tất cả đơn vị, từ quan tới lính ai cũng nghĩ anh Trung sĩ Hùng Em thật là tốt phước, ông trời đã cho anh một người tình, một người vợ lý tưởng sau này. Qua tâm tình, chúng tôi được biết, hai người quen biết nhau trong viện mồ côi từ khi còn rất nhỏ. Sau này anh vừa là thầy dạy học, dạy nhạc vừa là trưởng ca đoàn của cô trong cùng một nhà thờ. Hai người đều chơi dương cầm và hát hay nhất trong ca đoàn. Tình yêu bắt đầu nẩy nở từ môi trường cô nhi và âm nhạc. Và cuộc tình của hai người được các vị linh mục cùng các sœur đồng tình, khuyến khích, như là một sự kết hợp nhiệm mầu của Thiên Chúa.

Hơn ba tháng thần tiên ở đảo Cam Ranh, khi các đơn vị tiền trạm của Hoa Kỳ được ào ạt đổ xuống thành lập “Cam Ranh Air Base”, tiểu đoàn tôi có lệnh rời khỏi đảo, di chuyển để tiếp tục lưu động khắp nơi. Lâm Đồng, Bình Thuận rồi Ninh Thuận, Sau những cuộc hành quân dài hạn trong rừng, mỗi lần đơn vị được về phố ít ngày hoặc đóng quân trong các làng mạc nằm khu ngoại ô, chúng tôi lại thấy người con gái xinh đẹp Thụy Khanh đến thăm và ở lại với người yêu. Đó là một đôi tình nhân gắn bó, đẹp và lãng mạn nhất mà bọn tôi chứng kiến, và có lẽ ai cũng thèm thuồng có được một hạnh phúc như thế.

Tháng bảy năm 1966, khi đơn vị nghỉ quân ở Tháp Chàm – Phan Rang, Trung sĩ Hùng Em xin một tuần phép đặc biệt để về Nha Trang làm đám hỏi. Anh bảo cả hai người đều không có cha mẹ anh em, nên lễ đính hôn đều do các vị linh mục và các sœur đỡ đầu tổ chức.

Đúng lúc anh vừa mãn phép trở lại, thì đơn vị có lệnh không vận khẩn cấp lên Ban Mê Thuột để tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân và Thiết Giáp bị thiệt hại khá nặng tại trận chiến Quảng Nhiêu, nằm phía Tây Bắc, cách thành phố Ban Mê Thuột khoảng hơn mười cây số. Trận chiến khá cam go, ác liệt. Một lực lượng địch cấp trung đoàn, sau khi tổ chức phục kích gây tổn thất cho chi đoàn Thiết Quân Vận và một đại đội Biệt Động Quân tùng thiết, bọn chúng đào nhiều giao thông hào và hầm hố cá nhân kiên cố trong các vườn cà phê, để chặn đánh các cánh quân của ta tiếp viện. Tiểu đoàn tôi cùng một chi đoàn Thiết Vận Xa khác được tăng phái cho Trung Đoàn 45, đặt dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Võ Văn Cảnh, đảm trách cuộc hành quân phản công, bao vây tiêu diệt địch.

Địch chiếm ưu thế về vị trí, chuẩn bị trận địa, bên ta có sức mạnh của thiết giáp và không yểm. Sau suốt năm ngày đêm không ngủ, lăn mình trong mịt mù lửa đạn quần thảo với địch, cuối cùng chúng tôi đã đạt được chiến thắng. Một số lớn địch quân bị tiêu diệt và bắt sống, nhưng bên ta cũng phải trả một cái giá không nhỏ. Đại đội tôi may mắn, chỉ có ba quân nhân tử trận và khoảng mười người bị thương, trong đó có anh đại đội trưởng. Tôi được chỉ định tạm thời chỉ huy đại đội.

Cuộc hành quân vẫn chưa kết thúc, một số đơn vị tiếp tục truy kích địch, riêng tiểu đoàn tôi được lệnh ở lại Quảng Nhiêu. Ban ngày tung các cuộc hành quân tảo thanh chung quanh, ban đêm phòng thủ bảo vệ khu vực dân cư, mà đa số là người Công giáo, đề phòng địch quay lại quấy rối, phục thù. Đại đội tôi được chỉ định bảo vệ một Pháo đội Pháo Binh 105 ly. Điều tồi tệ là vị trí Pháo đội này nằm trên một khu đất trống trải, trong phòng tuyến và cả phía bên ngoài cũng không có một cành cây, dưới đất chỉ toàn là bụi đỏ, dày cả một gang tay. Mỗi lần Pháo binh tác xạ, cả đất trời gần như chỉ toàn là bụi. Đám lính chúng tôi từ đầu tới chân cũng phủ đầy bụi đỏ. Đơn vị Pháo Binh thì đã có sẵn hầm hố kiên cố từ trước, còn đại đội tôi phải tự đào lấy những hố cá nhân, nhưng không thể đào sâu được, vì dưới đất chỉ toàn bụi và bụi, đào đến đâu bụi đỏ tràn theo tới đó, và mỗi lần Pháo Binh tác xạ, những cái hố này bị bụi lấp cạn thêm. Ban đêm, chúng tôi nằm trong những chiếc hố ấy, nhưng không che đủ nửa thân người. Cái hố của tôi dành cho hai người nằm, tôi và anh Hạ sĩ mang máy truyền tin. Hố kế bên trái là Trung sĩ Hùng Em và anh lính ô-đô của tôi.

Một hôm, khoảng hai giờ sáng, khi tôi đang ngủ chập chờn, bỗng một tiếng nổ chát chúa ngay bên cạnh, mảnh đạn và bụi phủ đầy người, tôi bật dậy chụp vội cây súng chạy ra hàng rào phòng thủ, nơi vọng gác có đặt khẩu đại liên. Rờ nắn vội qua khắp người xem có thương tích gì không, tôi thở phào vì không thấy dấu hiệu đau đớn nào, nhưng khi các trái sáng bắn lên, nhìn bụi đỏ phủ đầy người tôi giật mình cứ ngỡ là máu. Địch quân đã pháo kích chúng tôi hơn 10 quả bằng hai khẩu súng cối 61 ly từ hai địa điểm khác nhau. Pháo Binh đã phản pháo chính xác làm bọn chúng câm họng. Khi tình hình ổn định, trở về hố, tôi bàng hoàng nghe anh lính ô-đô báo là Trung sĩ Hùng Em đã chết. Anh đã lãnh nguyên một quả đạn 61 ly, rớt ngay sát bên cạnh, ruột đổ ra ngoài và thân thể nhuộm đầy máu. Điều kỳ lạ, là anh lính ô-đô của tôi nằm ngay một bên mà không hề hấn gì, chỉ có áo quần dính đầy máu và thịt của người đồng đội xấu số. Tôi theo hai người lính khiêng thi thể Trung sĩ Hùng Em, được gói tạm trong tấm poncho, vào hầm cứu thương của Pháo Đội. Anh chết thật thê thảm. Tôi đứng lặng người, sau khi vuốt đôi mắt cho anh. Từ khi ấy cho đến sáng, tôi không hề chợp mắt. Tôi nghĩ đến Thụy Khanh, cô con gái xinh đẹp hiền thục, có giọng hát khuấy động cả trái tim người, vừa trở thành vị hôn thê của anh chỉ mới hai tuần trước. Trưa hôm qua, khi rủ nhau vào thăm ông cha xứ trong xóm đạo và để xin được tắm giặt ở cái giếng sâu phía sau nhà thờ, anh đã khoe tôi tấm hình anh chị chụp chung trong lễ đính hôn, và bảo rằng cuối năm này hai người sẽ làm đám cưới. Anh còn nói nhỏ với tôi, ông cha xứ của anh hứa sẽ giới thiệu anh với vị Linh mục Tuyên Úy của Sư Đoàn để xin anh về làm ở Phòng Tuyên Úy, vì hai ngài là bạn tu với nhau và được thụ phong cùng một ngày.

Nhớ tới hai khuôn mặt hiền lành với nụ cười rạng rỡ trong tấm hình đính hôn, lòng tôi se lại. Chiến tranh tàn ác quá, đã chia ly biết bao nhiêu người, và làm dang dở biết bao mối tình đẹp đẽ như anh Hùng Em và cô gái Thụy Khanh. Tôi bỗng chạnh lòng, nhớ tới người yêu, cũng là vị hôn thê của chính mình, hằng đêm cầu nguyện cho tôi, từ một thị trấn nhỏ, mà giờ đây đang xa tít mịt mùng.

Một năm sau đó, tôi được nghỉ mười lăm ngày phép về Nha Trang làm đám cưới. Nhớ đến Hùng Em, tôi rủ vợ cùng tìm đến nhà thờ gần khu Đồng Đế để hỏi thăm tin tức về nơi chôn cất anh. Chúng tôi được một vị linh mục trẻ đón tiếp niềm nở và hướng dẫn đến thăm mộ Hùng Em, nằm trong một nghĩa trang nhỏ của giáo xứ, gần biển. Từ đó, tôi có thể nhìn thấy Hòn Chồng, nơi chôn giấu nhiều hang động của tuổi thơ tôi. Đọc trên tấm bia, tôi thấy tên người lập mộ được ghi vỏn vẹn hai chữ: Thụy Khanh.
Nhớ tới người con gái xinh đẹp, phúc hậu, có giọng hát rất hay ấy, tôi hỏi vị linh mục:
– Thưa cha, chị Thụy Khanh, vị hôn thê của anh Hùng Em có khỏe không, và bây giờ chị đang ở đâu?
Vị linh mục buồn bã:
– Chị ấy đã di chuyển đến một nơi khác, khoảng ba tháng sau khi anh Hùng Em qua đời, nhưng thi thoảng chị có ghé về đây ít hôm thăm giáo xứ và viếng mộ anh ấy.
Tôi không dám tò mò thêm nữa. Cám ơn cha và đưa ngài về lại nhà thờ rồi xin phép cáo từ.
Sau đó, cuộc chiến ngày càng khốc liệt, tôi theo đơn vị hành quân liên miên, bao nhiêu lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Người lính chiến, chuyện sống chết chỉ tùy vào số mệnh, không ai có thể tránh được lằn tên mũi đạn. Đồng đội tôi đã có biết bao người ngã xuống. Có những cái chết còn thê thảm hơn cả cái chết của anh Trung sĩ Hùng Em lúc trước. Tôi đã chứng kiến cảnh một người vợ trẻ ngất xỉu khi đến nhận xác chồng mà không tìm thầy cái đầu, một bà mẹ đã lăn đùng ra chết ngất khi thi thể đứa con hy sinh chỉ còn lại một phần và bà không thể nhận diện được con mình. Những khủng khiếp của chiến tranh sau này, cùng với thời gian, dần dà làm tôi tạm quên nhiều chuyện đau đớn cũ.
– Ông Trung úy Điệp, người Huế, làm đại đội trưởng lúc ở ngoài Cam Ranh, bây giờ ra sao rồi, đại úy?
Câu hỏi của sœur Anna làm tôi giật mình, trở về thực tại:
– Dạ, anh Điệp đã chết lâu rồi. Anh tử trận tại Thiện Giáo – Phan Thiết, chỉ sau hai tuần làm đám cưới với cô giáo Diệu, cũng người Huế, nhưng sống ở Ninh Hòa. Hai người quen nhau khi đơn vị tôi về thụ huấn bổ túc tại TTHL Lam Sơn. Không ngờ sœur vẫn còn nhớ tên anh ấy.

Sœur cúi xuống, trầm ngâm giây lát. Khi ngước lên, bà lấy khăn tay lau nước mắt.
– Tôi và anh Hùng Em cũng làm đám hỏi đúng hai tuần. Cô giáo Diệu nào đó không biết may mắn hay là bất hạnh hơn tôi khi đã được làm vợ, cũng chỉ mới hai tuần?
Vừa nói xong, sœur vội vàng nói lời xin lỗi, bảo đúng ra, một người đi tu, không nên suy nghĩ đến những điều như thế.

Bốn tháng sau lần gặp gỡ bất ngờ đó, tôi đến thăm cô nhi viện môt lần nữa, nhưng lần này, tôi cùng đi với cô trung úy Trưởng Ban Xã Hội, để giới thiệu với sœur Anna, nhờ cô nhi viện tạm chăm sóc hai đứa bé, con của một anh chuẩn úy. Cả hai vợ chồng bị chết bởi đạn pháo ở Kontum. Sœur Anna rất vui vẻ, ân cần, sẵn sàng nhận giúp và bảo tôi bất cứ khi nào có dịp về Pleiku, nhớ ghé lại thăm. Chúng tôi cám ơn, biếu cô nhi viện một ít tiền, và hứa nhất định sẽ trở lại thăm sœur và hai đứa bé.

Nhưng rồi tôi đã không giữ được lời hứa ấy. Từ đầu năm 1973, sau khi Mỹ ký hiệp định Paris trên xương máu của người bạn đồng minh, những người lính VNCH đã phải chống đỡ làn sóng xâm lăng của Cộng sản phương Bắc, ồ ạt đưa đại quân, xe pháo vào quyết chiếm miền Nam, tôi đã cùng đồng đội miệt mài với chiến trường, súng đạn, mà sự viện trợ ngày một cạn dần, nên xương máu anh em lại càng đổ ra nhiều hơn nữa.

Ngày 11.3.75, Ban Mê Thuột thất thủ. Đơn vị tôi đang hành quân ở khu vực Tây Nam Pleiku, có lệnh kéo về Hàm Rồng để được trực thăng vận xuống Phước An, quân lỵ cuối cùng còn lại của tỉnh Đắc Lắc, nhằm tái chiếm Ban Mê Thuột, nơi có bản doanh Sư Đoàn và hậu cứ của đơn vị chúng tôi. Khi BCH Trung Đoàn và một tiểu đoàn cùng đại đội Trinh Sát vừa được đổ xuống Phước An thì Pleiku có lệnh di tản. Hai tiểu đoàn còn lại của chúng tôi phải di chuyển theo đoàn quân di tản trên Tỉnh Lộ 7B. Một kế hoạch triệt thoái tồi tệ đã đưa đến thất bại nặng nề bi thảm. Cả hai tiểu đoàn khi về đến Tuy Hòa chỉ còn lại một phần tư quân số, hai anh tiểu đoàn trưởng đã phải tự sát để không lọt vào tay giặc.

Cuối cùng, miền Nam cũng mất. Tôi và cả cha tôi đều bị tù đày khốn khổ. Cha tôi, tuổi già sức yếu, không đủ sức để chịu đựng bao đòn thù tra tấn, hành hạ, nên đã chết trong trại tù Đá Bàn vào tháng 6 năm 1976, còn tôi bị đày ải qua nhiều trại tù, từ Nam ra Bắc. Sau gần tám năm tôi được thả về để chứng kiến một quê hương nghèo khổ điêu tàn, vợ con nheo nhóc. Tôi quyết định vượt biên, dù có phải chấp nhận bao hệ lụy khôn lường. Tôi rủ vài người bạn tù cùng tổ chức vượt biển, trong số này có một anh bạn nguyên là sĩ quan Hải quân có nhiều kinh nghiệm hải hành. Nơi bọn tôi hẹn gặp gỡ là một cái quán nhỏ của gia đình người bạn tù khác nằm gần khu Hòn Chồng.

Một hôm, sau khi bàn công việc và ăn uống xong, tôi bỗng nghĩ tới anh Trung sĩ Hùng Em, khi nhớ ngôi mộ của anh cũng nằm gần nơi này. Tôi nhờ anh bạn chở tôi đến đó. Vì nghĩa trang nhỏ, nên tôi dễ dàng tìm ra ngôi mộ của anh Hùng Em. Điều làm tôi sửng sờ là ngôi mộ nằm bên cạnh có tấm bia ghi đậm tên người quá cố: Sœur Anna Phan Thụy Khanh, được Chúa gọi về ngày 15.3.1975. Tôi không biết vì sao cô chết, chỉ còn nhớ thời gian này đã từng xảy ra cuộc di tản kinh hoàng trên Tỉnh Lộ 7B. Chúng tôi tìm đến nhà thờ với ý định hỏi thăm cha xứ, nhưng rất tiếc ngài đi vắng, trong nhà thờ chỉ có hai thiếu niên rất trẻ, không hề biết sœur Anna là ai. Khi rời khỏi nơi này, trong cái man mác buồn tôi bất chợt thấy vui vui, và buột miệng như để nói với chính mình:
- Cuối cùng thì hai người cũng được ở bên nhau.



Tôi chưa (và có lẽ không) có cơ hội nào để trở lại Pleiku. Ngày xưa, tôi chỉ ghé lại thành phố bụi đỏ này một đôi lần ngắn ngủi, như chỉ một thoáng chợt đến chợt đi, chưa hề làm quen với một “em Pleiku má đỏ môi hồng”nào. Ngoài Đồi Đức Mẹ, nơi đơn vị đóng quân một tháng, cả một tháng “gió lạnh mưa mùa”, tôi chỉ còn nhớ cái quán rượu trong Khu Chợ Mới, nơi anh bạn Biệt Động Quân đưa tôi đến để tìm những cơn say, và một ngôi trường được dùng làm cô nhi viện, nơi có sœur Anna xinh đẹp, đã gợi lại trong tôi hình ảnh của những đồng đội đáng mến mà vắn số như Nguyễn Phú Hùng Em. Tôi da diết nhớ đơn vị xưa, thời chúng tôi còn trai trẻ, nhớ từng khuôn mặt bạn bè đã nằm lại trên các chiến trường xưa hay đang lưu lạc muôn phương, tiếc thương cho cuộc tình đẹp của những người lính trẻ, lãng mạn, thơ mộng, nồng nàn nhưng sớm chia lìa đớn đau bởi cuộc chiến tranh oan nghiệt.

Phạm Tín An Ninh
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	159843175_3712340162135558_2450368133530792478_n.jpg
Views:	0
Size:	21.8 KB
ID:	1755365   Click image for larger version

Name:	159800599_3712339938802247_2824093920967714950_n.jpg
Views:	0
Size:	62.7 KB
ID:	1755366  
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (03-14-2021), huudangdo1 (03-20-2021), Lien53 (08-11-2021)
Old 03-15-2021   #331
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,408
Thanks: 21,690
Thanked 38,200 Times in 12,887 Posts
Mentioned: 636 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7247 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default CHUYỆN BUỒN NGƯỜI VỢ TÙ



CHUYỆN BUỒN NGƯỜI VỢ TÙ
Tác giả : Trần Thị Thanh Minh.

Một ngôi biệt thự nhỏ nằm khiêm tốn cuối đường Hoàng Diệu, ĐàLạt. Phía sau là vườn hồng và có thể nhìn thấy trường Couvent thấp thoáng áo xanh lam của các nữ sinh nội trú. Đó là“ngôi nhà hạnh phúc” của chúng tôi, cũng là tên do các bạn yêu thương đặt cho nó.

Chúng tôi sống êm đềm hạnh phúc với ba đứa con thật dễ thương và một em bé còn đang trong bụng mẹ. Căn nhà lúc nào cũng rộn rã vui tươi nhất làTết đến còn thêm “những con bà phước” (tức là những sỹ quan Võ Bị không được về Sài Gòn ăn Tết vì cấm trại), tất cả đều quây quần vui chơi như chính nhà của họ, bởi vì các anh thích cái không khí thoải mái và thân thương nhất mà chúng tôi đã thật thân tình đón tiếp.

Nếu cuộc sống ấy được kéo dài thì thật đúng là chúng tôi đã có một thiên đàng hạnh phúc thật sự rồi. Nhưng đâu có ai ngờ rằng Buôn Mê Thuột mất,mọi nơi di tản vềSài Gòn. Gia đình tôi cũng trong làn sóng kinh hoàng đó.
Tôi và các con được ông bà nội các cháu yêu thương đùm bọc, và tôi đã sinh cháu bé ngay tháng tư năm đó. Cũng vì thế mà chồng tôi không thể ra đi một mình.

Anh đã lên được tàu nhưng anh lại nhảy xuống bơi về. Nếu anh biết trở về rồi lại phải xa mẹ con tôi vĩnh viễn chắc anh đã chẳng quay về. Đó cũng chính là nỗi đau ray rứt, niềm ân hận khôn nguôi của chúng tôi .

Tháng sáu anh đã đi trình diện học tập cải tạo, với hy vọng sau mười ngày sẽ trở về….. Không có chồng tôi ở nhà, tôi rất sợ hãi và buồn lo.

Anh đã cho tôi một đời sống ổn định vững vàng . Nay không có anh tôi không thể làm gì hết, tôi đã mất hết, mất cả những ước mơ toan tính của chúng tôi cho con cái sau này.

Tôi không còn gì hết ngay cả mạng sống của tôi cũng rất mong manh vì mới sanh cháu còn quá nhỏ. Rất may nhờ sự lo xa của bà nội các cháu nên mẹ con tôi còn được ăn cơm thêm vài tháng. Toàn dân ở thành phố đã phải ăn khoai lang, khoai mì và bo bo.

Lương thực bán theo sổ gia đình, hoàn toàn không có gạo. Khi nào được mua bột mì thì sung sướng lắm vì có thể đổi bột lấy bánh mì (món ăn ngon nhất lúc bấy giờ) .

Nhờ có bánh mì tôi có thêm việc làm để kiếm được vài đồng đi chợ. Tôi phải lo làm nước sốt (muối + càchua) , thái cà rốt , củ cải , dưa leo làm đồ chua , mang ra trước cửa bán từ 4 giờsáng.

Ngày tháng cứ qua đi với buồn lo nặng trĩu vì 4 đứa con cần ăn để sống . Tôi như con chong chóng hết bán bánh tôm bánh cuốn tại đường Duy Tân lại quay ra bún ốc bún riêu ở đường Gia Long.

Nhưng cũng không được bao lâu vì “chiến dịch dẹp lòng lề đường”. Tôi lại phải chạy thuốc tây, ai cần bán cần mua là có tôi làm chân chạy.

Tôi còn nhớ một lần , có người cần mua 5 chai nước biển mà tôi chỉ có đủ vốn cho 2 chai, thế là tôi phải chạy làm 3 lần từ chợ Vườn Chuối qua chợ Bà Chiểu mới giao đủ hàng được


Đạp xe đạp muốn kiệt sức vì mồ hôi và nước mắt nhoè nhoẹt đến không thấy đường đi.
Nhiều lúc đầu óc tôi muốn vỡ tung ra vì những tính toán cho cuộc mưu sinh, vì những thay đổi khôn lường của xã hội chủ nghĩa và nhất là vì những hoang mang lo sợ cho chồng tôi đã bao lâu biệt vô âm tín.

Ban đêm, nhìn những khuôn mặt ngây thơ của các con tôi trong giấc ngủ say sưa , tôi yên tâm vì tôi vẫn còn có chúng ở bên tôi.

Nhưng chồng tôi nay ở đâu ? Đói no ấm lạnh ra sao ?
Anh là người nặng tình chồng vợ, yêu qúy các con, liệu anh có yên giấc được không ? Hay cũng như tôi thao thức suốt đêm thâu với bao nỗi lo âu tắc nghẽn không phương giải thoát.

Chỉ có lúc này tôi mới được tự do khóc nức nở đểvơi bớt nỗi buồn lo nặng trĩu bên mình. Tôi không dám khóc trước mặt các con vì chúng sẽ òa khóc theo ngay khi thấy tôi chảy nước mắt.

Mãi gần một năm sau ,tôi mới được tin chồng tôi dù chẳng phải là tin vui. Anh đang bị một cơn sốt rét ác tính và thiếu thức ăn trầm trọng có thể chết bất cứ lúc nào.

Mong ước của anh là muốn biết tin tức của mẹ con tôi trước khi anh nhắm mắt. Trời đất như sụp đổ dưới chân tôi , tôi van lạy người đưa tin xin chỉ đường cho tôi đi gặp anh.

Sau cuộc hành trình khá vất vả, lội suối băng rừng, những con vắt cắn tôi chảy máu tùm lum mà tôi không hề biết sợ biết đau. Quần áo ướt hết, gió lạnh làm tôi rét run, xanh mét.

Tới nơi chưa kịp mừng thì đã bị cán bộ trưởng trại tra hỏi lâu ơi là lâu. Cuối cùng vì“cảm phục lòng yêu chồng của phụ nữ miền Nam”, họ cho tôi gặp mặt.

Vì chồng tôi đau nặng nên anh em cùng “láng”cho mắc võng ở giữa còn các anh mắc võng chung quanh để che gió lạnh.

Thật sự thì có che được bao nhiêu đâu vì mỗi khi gió tạt vào thì tất cả đều lãnh gió cát đầy cả mặt mũi. Tôi chết đứng khi thấy chồng tôi chỉ còn là bộ xương sơn đen , hàm răng trắng nhô ra vì đôi má đã hóp lại, cặp mắt lõm sâu không còn thần sắc.

Tôi khóc như mưa nhào tới bên anh, ôm lấy tay anh, còn anh thì không còn đủ sức để nắm tay tôi nữa ! Thời gian như ngừng lại, các anh xung quanh cũng yên lặng ngậm ngùi .

Tôi không thể nào quên được đêm hôm ấy, trước đống lửa bập bùng, mấy chục khuôn mặt mà tôi chắc trước kia đẹp đẽ oai phong lắm trong bộ quân phục VNCH, bây giờ thì chao ơi là tội nghiệp, họ chỉ còn là những bộ xương người biết cử động .

Thương người, thương mình tôi khóc đến đau nhức cả hai mắt. Chồng tôi thì nằm thoi thóp, miệng vẫn cố cười, chắc anh đã mãn nguyện ?

Đứa con gái út của anh mới tám tháng nên hãy còn bú mẹ. Hai bầu sữa căng nhức, tôi chợt tỉnh táo để xin lỗi mọi người ra xa để vắt sữa. Tôi bưng chén sữa bỏ thêm hai muỗng đường rồi đổ cho chồng tôi từng muỗng một.

Chồng tôi có lẽ nhờ vào mấy chén sữa của tôi mà tới sáng anh đã tỉnh hẳn. Mấy anh bạn cứ chọc anh là uống sữa tiên nên mới được như vậy.


Sau chuyến đi ấy tôi ngã bệnh cả tuần lễ.
Vừa khỏi là tôi lại sửa soạn đi một chuyến nữa vì tôi biết chồng tôi rất cần thuốc men và tẩm bổ.
Hai chân anh ấy không mang nổi tấm thân gầy chỉ còn 40 ký lô.

Nỗi buồn lo này chưa hết, lại đến nỗi buồn vì con bé không thèm sữa mẹ nữa , thế là tôi mất thêm niềm hạnh phúc vô biên là được ôm con, ngắm cái miệng xinh xinh của con như gắn liền với bầu vú mẹ để được mẹ chuyền cho dòng sữa chan chứa yêu thương.

Các cụ đã nói là khi đang cho con bú thì không được cho ai sữa của mình kẻo trẻ sẽ chê sữa mẹ. Tôi cũng tin như thế nhưng biết làm sao hơn khi thấy chồng tôi cũng đang cần sức sống.

Muốn có thuốc men và đồ ăn cho chồng thì phải lo tiền nhiều hơn. Bán ngoài đường bị đuổi , tôi xoay ra làm bánh croissant ở nhà.

Tối nào tôi cũng nhờ mấy cậu hàng xóm sang nhào bột hộ, xong bắt bánh rồi chờ bột nở cho vào lò. Lúc đầu tôi tự làm, tự bán nhưng sau tôi để bà con lối xóm lấy bánh đi bán các nơi, bán nhiều thì lời nhiều.

Nếu không bán hết thì tôi lấy lại để nướng khô bán cho các chị đi thăm nuôi. Vậy mà cũng chẳng được bao lâu thì hết vốn vì bánh thì vẫn phải làm mà tiền thì không thu về được bởi ai cũng nghèo , nên dù bánh bán hết cũng không đủ tiền mua gạo nên lại khất tôi lần sau, rồi lần sau nữa …

Dù sao tôi vẫn phải cố xoay sở cho có đủ tiền đi thăm nuôi chồng.
Tới năm 1977 , chồng tôi bị“biên chế”chuyển từ KàTum qua Trại An Dưỡng Biên Hòa . Lúc đó chúng tôi mới được đi thăm chính thức.

Cán bộ trong trại đã gửi giấy về nhà, cho phép thân nhân đi thăm sau gần hai năm biệt tăm tin tức. Có được đặc ân này là do những xôn xao, bất mãn của gia đình tù nhân cải tạo. Sau lần thăm đó, anh bị đưa ra Bắc lúc nào tôi không hay .

Thời gian này khủng khiếp nhất vì họ đổi anh đi lung tung , nào Lào Cai, nào Yên Bái, nào Lạng Sơn !

Vừa được tin ở nơi này thì đã bị chuyển đi nơi khác, không có cách nào thăm nuôi được . Tôi phải mua chui những tấm phiếu để được phép gửi quà, mỗi gói chỉ có 3 kg thôi, địa chỉ phải viết theo ám số.

Tôi phải làm thịt kho với cả chai nước mắm, hy vọng mặn thì để được lâu vì không biết bao giờ gói quà mới tới tay người nhận.

Trông thấy tôi kho thịt, các con tôi nói: “Bố sướng quá, có nhiều đồ ăn ngon hơn tụi mình ! ” Còn gì đau khổ và xót xa hơn cho tôi khi nghe thấy câu so sánh thơ ngây này !!

Cuối cùng tôi cũng tìm ra được , họ chuyển anh về Vinh - Nghệ Tĩnh , tôi và chị anh vội ra thăm. Vì không có giấy phép nên chúng tôi phải đi tàu với giá chợ đen, nghĩa là đi từng chặng một và giá vé gấp đôi .

Tới nơi tôi sẽ vào báo công an là tôi bị mất cắp nên mất luôn cả giấy phép thăm nuôi và xin họ chứng nhận cho. Phải có giấy đó tôi mới được phép vào trại thăm chồng tôi. Tôi đã phải nói dối mới thoát qua ải lính gác.

Vừa xuống tàu là tôi đã hoảng sợ vì dân địa phương đứng chỉ chỏ bọn tôi: “Vợ ngụy kìa!” Cũng may họ không ném đá chúng tôi như đã ném đá các anh khi phải chuyển ra Bắc.

Chúng tôi tới nơi là chiều thứ bảy, họ không kiếm được chồng tôi. Qua ngày chủ nhật tôi vẫn còn hy vọng gặp mặt vì họ nói anh đi xa làm việc, đã cho gọi rồi, thứ hai sẽ gặp.

Đêm chủ nhật, tôi nằm mơ thấy anh về báo cho tôi biết là anh đã chết !?
Anh linh thiêng như vậy chăng…..?

Tôi tỉnh dậy khóc quá trời làm thức giấc mọi người. Các chị đi thăm nuôi an ủi tôi “Sinh dữ tử lành, yên chí đi, mai được gặp”.

Tôi không thể nào tả được hết nỗi buồn lo , bối rối của tôi đêm đó và thức luôn đến sáng, không thể nào ngủ lại được. Mờ mờ sáng tôi đã dậy .

Mọi người lo nấu cơm vì nghe nói ở đó không bao giờ tù nhân có cơm ăn. Trời sáng hẳn. Dưới lớp sương mù của núi, từ trên nhìn xuống, tôi thấy từng toán người đi ra lao động.

Tôi như người mộng du, như có ai đẩy tới, tôi từ từ đi xuống chân núi, nơi cấm các thân nhân tù cải tạo tới gần. Toán 1 đi qua, rồi toán 2 , rồi toán 3, tôi nghe thấy tiếng gọi “Chị Chung, chị Minh” và tiếp theo tiếng ai la to: “Anh Chung chết rồi….! ” Tôi ngã xuống và không còn biết gì nữa

Khi tỉnh lại, tôi thấy tay chân bị trói vào chõng tre, y sĩ đang chích thêm hai mũi thuốc khoẻ. Tôi nghe kể là tôi đã ngất đi và họ khiêng tôi lên núi cả tiếng đồng hồ qua rồi.
Họ phải trói tôi lại vì sợ tôi vật vã làm gẫy kim chích.
Tôi nói tôi không sao, cởi trói ra cho tôi . Sau cơn choáng quá đau tôi lại trở thành bình tĩnh quá làm họ cũng phát hoảng luôn.
Tôi yêu cầu gì thì họ cũng cho phép hết.

Tôi xin được gặp bạn bè thân của chồng tôi ,trao lại cho các anh hơn 120 kí lô quà tôi mang đến. Ai cần gì thì lấy rồi viết thư về nhà nhắn vợ con đem tiền trả tôi.

Cuối cùng cán bộ mang đến cho tôi một cái túi xách tay, trong chả có gì ngoài bộ bà ba cũ mèm của chồng tôi.

Họ cho tôi một chén cơm hẩm hôi mùi gạo mốc, trên có quả trứng luộc để mang ra mộ. Trẻ em theo sau nhìn bát cơm, trầm trồ:

“Cơm kìa ! Cơm kìa..!” , tôi di như một thây ma sống, mắt mở to mà nào có nhìn thấy gì, tai cũng chẳng nghe thấy gì, bước thấp bước cao theo hai người dìu tôi đi, tim như đau buốt, nước mắt chảy không ngừng. Khi ra tới mộ tôi lại ngất đi một lần nữa.
Giá mà khi ấy tôi được đi luôn theo chồng tôi thì hay biết mấy ..!

Tôi trở về nhà với một thân xác rã rời, một đầu óc rỗng không, biếng ăn, mất ngủ, chả nói năng gì, mắt mở to mà chả nhìn thấy gì. Tôi đã phải ra, vào nhà thương Chợ Quán mấy lần . Rất may cho tôi và các con tôi là lúc đó tôi có một cô em và một người bạn lo lắng và chăm sóc mẹ con tôi tận tình.

Vài tháng sau, tôi nhận được 2 thùng quà trả lại với hàng chữ
“Người nhận đã chết. Trại yêu cầu hoàn.”
Ra bưu điện lĩnh 2 gói quà xong, vừa ra đến cửa tôi lại ngất đi .

Rất may có anh bạn hàng xóm đạp xe xích lô đang chờ để chở tôi về nhà. Tới bữa ăn, nhìn bốn đứa con ngồi ăn cơm ngon lành với tóp mỡ ngào đường và nước mắm, quà của bố trả lại, nước mắt tôi lại chảy như mưa .

Rồi tới gần cả năm sau, phường trưởng mới cử đại diện đến chia buồn và đưa cho tôi biên bản “Phạm nhân chết”.

Nhờ mảnh giấy này mà mẹ con tôi mới được đi Mỹ theo diện HO. ( Tôi vẫn còn giữ mảnh giấy này, xin gửi kèm theo đây để mọi người biết “Tội ác” của chồng tôi! )

Can tội: Giảng viên tâm lý chiến xã hội học Trường Võ Bị Quốc Gia Đà lạt. Án phạt tù: 3 năm; nhưng khi chết đã 3 năm 7 tháng. Nếu họ đúng lời chắc chồng tôi không thể chết.

Thế là xong , là tuyệt vọng cả đời. Lúc đó tôi sống cũng như chết rồi , nhưng vì bốn đứa con nhỏ, chúng đâu có tội tình gì.

Bên nội bên ngoại ai cũng muốn nuôi giùm 1, 2 đứa nhưng tôi không thể nào chịu được nếu để 1 đứa con xa tôi . Tình thương con đã thắng cái “điên”của tôi để lo lắng cho chúng , nhưng với phường khóm thì tôi thật là một “mụ điên dữ dằn”.

Tôi không chịu đi họp tổ họp phường gì cả. Công an khu vực tới tận nhà bắt đi họp. Tôi nói: “Người mà các anh thấy có tội là chồng tôi thì anh đã chết rồi, tôi và 4 con nhỏ không còn gì phải họp với hành nữa”. Lúc trước mình ngu nên cứ tin là phải họp hành cho tốt thì họ xét cho chồng về sớm.

Nay tôi không còn gì để sợ nữa thì họ lại để tôi được yên thân.
Tôi bắt đầu tính chuyện vượt biên , mấy mẹ con dắt díu nhau đi tìm đất hứa không biết bao nhiêu lần.

Hết đi từ Nhà Bè, Vũng Tàu, Mỹ Tho đến Rạch Giá, Sóc Trăng nhưng đều không thoát, ở tù cũng mấy lần. Xuống ghe ra biển lại thấy hối hận vì thương con, chưa thấy thoát mà chỉ thấy chết tới nơi.

Bị bắt tù đày thì lại càng hối hận hơn vì các con không có thức ăn, nước uống chỉ có một ca nhỏ. Trong trại chỉ có 1 cái ao tù, ăn cũng đó mà tắm giặt cùng nơi.

Bẩn thỉu không thể tả cho nên trẻ con không bị đau bụng ỉa chảy thì cũng ghẻ lỡ ghê hồn. Tôi sợ quá đến không dám nghĩ đến đi nữa . Phải cậy nhờ xin đi dạy lại dù biết là nhà giáo chỉ húp cháo thôi.

Nhưng dù sao đi nữa cũng còn có chỗ để mua “nhu yếu phẩm”và được “thầu”để bán quà cho học trò trong trường.

Thời gian này tạm ổn định, lo cho các con tới trường cũng phải chạy chọt vì “nhất thân, nhì thế”của xã hội lúc bấy giờ. Phận mình thì xong rồi, bạn bè tôi còn rất nhiều người có chồng đang tù tội.

Thỉnh thoảng chúng tôi họp nhau để“lá rách nát đùm lá tả tơi”, đứa nào có thứ gì cho tù ăn được thì mang tới gom lại để chia cho những bạn sắp đi thăm.

Trong cái tình đó tôi lại thấy được nhiều sự đau khổ mà người vợ tù phải chịu đựng nhục nhằn , không ai có thể chia xẻvới họ.

Chẳng hạn như một chuyện rất thật của một người bạn thân của tôi, chúng tôi đã chia xẻ từng bó rau muống , từng chén nước mắm “muối + nước màu” ………..cho các con ăn. từng viên đường thẻ để mang vào tù cho chồng.

Lại thêm một cô bạn láng giềng may mắn có ông chồng được thả về sau bảy năm tù tội. Những tháng ngày trong lao tù khiến con người cũng thay đổi nhiều lắm, dễ nóng giận và mặc cảm đầy mình.

Một hôm cô bạn tôi được nhà nước cho mua một khúc vải may quần với giá rẻ dành cho các công nhân viên nhà nước. Cô mang về khoe nói là bán đi sẽ lời được sáu ngàn đồng.

Ông chồng lại muốn may để mặc vì ông ta thấy cũng cần phải có một cái quần mới . Bạn tôi ngần ngại nửa muốn cho chồng may, nửa muốn bán đi để thêm tý tiền lo cho gia đình nên nói với chồng: “Khúc vải này sáu ngàn lận đó anh.”

Chưa nói dứt lời là bạn tôi bị một cái tát tai choáng váng mặt mày, sự việc xảy ra quá sức tưởng tượng của mọi người.

Anh chồng rất hối hận về hành động vũ phu của mình; tuy nhiên anh vẫn đổ cho bạn tôi cái tội “coi cái quần hơn chồng”. Đó là một trong muôn ngàn cảnh ngộ trớ trêu cuả vợ tù cải tạo.

Thắm thoát đã qua 7 năm , lúc này cuộc sống mấy mẹ con tôi đã dễ thở vì chị em bạn bè ở ngoại quốc bắt đầu gửi tiền về cứu trợ. Tôi được mẹ chồng cho theo đi để bốc mộ Anh.

Tâm trạng tôi thật rối bời và lo sợ liệu bốc lên có phải là Anh không hay lại là mồ của ai khác?!! Trên đường đi cũng không kém gian nan cực khổ như khi đi thăm nuôi tại Kà Tum.
Tôi phải gửi mẹt ôi tại Nghệ Tĩnh để cùng với người cháu đi vào K3 , chỗ họ chôn xác Anh. Đường thì xa, đất sét trơn trượt , tôi nghĩ đành phải bỏ cuộc vì hai bàn chân đã sưng rát .

Tôi ngồi xuống bên đường vừa khóc vừa van vái “Anh có linh thiêng xin phù hộ cho em tới nơi để mang anh về gần em và các con”.

Đang gục đầu khấn nguyện ,thì nghe tiếng xe lọc cọc do một con trâu kéo, trên là các cán bộ đi công tác về. Họ tra hỏi và tôi “thành khẩn khai báo”nên họ cho tôi lên xe quá giang tới tận nơi.

Tôi nhờ người cháu trở lại đón Mẹ tôi trở vào trại ngày hôm sau để bốc mộ. Tôi không thể nào quên cái cảm giác hãi hùng khi được anh cán bộ đưa lên núi, chỗ đó là chỗ để các thân nhân tù lên ở tạm qua đêm vì không có xe về ngay .

Khổ cho tôi là khi tôi tới nơi thì chỉ có một mình, có sợ cũng chẳng làm sao hơn được tôi đành cầu cứu nơi các đấng thiêng liêng,

Đức Mẹ, Phật Quan Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn, cầu chồng tôi che chở bảo vệt ôi . Cứ mở mắt to mà van xin cầu nguyện , đâu có dám nhắm mắt mặc dù đã quá mệt mỏi .

Rất may trời bắt đầu tờ mờ sáng là mẹ tôi đã đến nơi . Chúng tôi được cán bộ hướng dẫn đi tìm mộ, may mắn tôi gặp được anh cán bộ người miền Nam rất tốt bụng đã cho phép chúng tôi được gặp những người đã chôn chồng tôi lúc trước.

Lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi mới biết bốc mộ là gì và nhất là thấu hiểu được câu nói “cát bụi trở về với cát bụi”. Thịt da đã tan vào với cát, chỉ còn bộ xương trắng mà các bạn anh đã từ từ cầm lên từng cái đầu, xương vai, xương cổ, ống tay ống chân, và ngay cả những đốt xương nhỏ họ cũng mò tìm cho đủ.

Một sợi dây làm bằng dây thép nhỏ, cái mặt làm bằng kính máy bay có hình dáng 2 người đứng bên nhau đã được anh bạn lấy lên trao cho tôi và nói chính chồng tôi đã làm để tặng cho tôi khi nào tôi lên thăm gặp mặt.

Anh đã phải cất giấu bao ngày vì nếu cán bộ thấy là bị tịch thu ngay. Rất may là có mẹ tôi và người cháu lo lắng lấy rượu rửa xương rồi quấn vào vải , bỏvào trong một cái bị to để chúng tôi mang về.

Còn tôi ngồi chết cứng với nước mắt sầu tủi , xót thương anh.
Trên đường về mới gặp toán người thăm nuôi. Gặp cô bạn cũng đi với mẹ già, đang chuyển quà từng khúc một, tôi chạy lại đỡ một tay. Khi tôi dắt bà cụ qua một người tù đang cuốc đất dưới ruộng, ngẩn nhìn và khẽ gọi : “Mẹ“.

Tôi quay lại giúp cô bạn còn vài giỏ đồ ăn, chúng tôi vừa đi ngang thì lại nghe anh ta gọi “Em Liễu”. Cô bạn tôi nghe gọi tên ngoảnh mặt lại nhìn và lại bỏ đi luôn.

Đem đồ lên đặt cùng chỗ với bà cụ,chúng tôi lại quay lại trở lại để đem nốt chỗ còn lại, tôi bảo cô bạn, có lẽ anh tù kia quen Liễu đấy .

Tôi nghe thấy anh gọi Mẹ lại kêu tên Liễu đó. Chạm mặt nhau rồi mà Liễu vẫn không nhận ra . Tới khi anh ta quên cả sợ cán bộ, chồm lên đường kêu : “Liễu , Anh đây, Tuấn đây mà .”

Lúc đó bà cụ cũng đã trở lại và nhận ra con, cụ khóc òa ôm lấy anh tù, còn Liễu cũng khóc nhưng la “Không phải anh mà, không phải anh đâu !“

Người chồng yêu quý vì tháng năm đói khổ phải ăn khoai mì nên mặt anh ta biến dạng , quai hàm bạnh ra và nhựa độc của khoai mì làm cho tất cả tù nhân đều có cái mặt vuông gần giống nhau cả.

Tôi cũng không cầm được nước mắt , lại nghĩ rằng chắc chồng tôi còn sống thì mặt mũi cũng chỉ như vậy mà thôi.

Từ trại về chỉ có độc nhất một chiếc xe đò, mọi người ngồi chật cứng trong xe,còn có nhiều người phải đứng bám vào cửa xe rất nguy hiểm. Mẹ con tôi về đến ga Vinh thì trời đã tối, lại ôm cồng kềnh một cái bị hài cốt của chồng tôi.

Ngồi ở sân ga đợi tàu rất nguy hiểm vì mẹ con tôi ngơ ngác với xứ lạ quê người . Mẹ tôi phải lấy dây buộc cái bị và cuốn quanh người , chỉ sợ lỡ mất đi thì khổ lắm.

Tôi hồi hộp sợ hãi còn hơn khi đi vượt biên nữa. Tôi đánh liều vào nhà nghỉ mát của nhân viên xe lửa.

Sau một lúc nói chuyện gây cảm tình và nhờ có“thủ tục đầu tiên”( xin trả tiền trước) nên mẹ con tôi được vào tạm trú qua đêm yên lành. Sáng hôm sau cũng nhờ có ông quản lý nhà nghỉ đó mà chúng tôi được lên tàu ở trong toa xe của các nhân viên đi nghỉ mát

Tôi phải tin tưởng là chúng tôi đã có ơn trên che chở nên đã mang thoát được bộ xương của chồng tôi về đến nơi đến chốn.

Vì nếu không được ở trong xe đó chắc chắn chúng tôi không thể thoát
khỏi sự khám xét trên tàu mà nếu họ phát giác ra là có xương người là lập tức đuổi chúng tôi xuống giữa rừng hoặc quăng xương đi .

Giờ đây , lâu lâu tôi lại có cơn ác mộng gặp lại cái cảnh mà công an đi sục sạo trên tàu, bắt mở tất cả mọi thứ để khám xét là tôi hét lên bật dậy , mồ hôi ướt đẫm người , sau đó lại nằm xuống với nước mắt trào ra không thể ngăn nổi vì nhớ thương anh và tủi phận mình đơn độc.

Hiện tại thì chồng tôi đã được yên nghỉ tại nghĩa trang Thiên Chúa Giáo ở Bình Dương. Nhưng cũng không biết được bao lâu nữa vì họ còn tính dẹp cả nghĩa trang , mặc dù đó là đất tư mà gia đình tôi đã phải mua bằng những cây vàng lúc họ dẹp nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi , ngay trong thành phốSaigon .

Bốn mẹ con tôi xuống phi trường Dulles vào một buổi tối mưa tầm tã của tháng 6 năm 1994. Được gia đình cô em ra đón, tôi mừng quá nhưng vẫn chưa hết lo sợ, không biết đây là thật hay mơ.

Nỗi ám ảnh bị bốc đi vùng kinh tế mới và sự không nói có, có nói không của nhà nước CS đã khiến tôi mất hết niềm tin. Tôi chỉ còn biết cầu Đức Mẹ ban cho tôi một phép lạ.

Chúng tôi cố gắng học hỏi để hoà nhập vào cuộc sống mới ở Mỹ.
Nay các con tôi đã lớn, đã thành đạt và rất hiếu thảo.

Chúng hết lòng lo lắng, chăm sóc tôi. Tôi thật mãn nguyện, nhưng tôi biết tôi không thể ôm giữ chúng mãi được. Chúng phải có cuộc sống riêng, hạnh phúc riêng.



Dù biết vậy, nhưng mỗi khi chúng vắng nhà, còn lại một mình tôi, tôi lại thấy sợ hãi. Những năm tháng khổ cực, hãi hùng của thời dĩ vãng lại kéo đến ám ảnh tôi.

Hình ảnh chồng tôi lúc oai hùng, mạnh mẽ trong bộ quân phục, lúc rách nát, tảt ơi, thoi thóp trên chõng tre lại chập chờn quanh tôi.

Tôi đã thì thầm với anh: “Đợi em đi cùng !” Vâng, tôi ước mong được sớm ra đi bình yên để được xum họp với chồng tôi. Chúng tôi chỉ mới được hưởng hạnh phúc gia đình có 4 năm 5 tháng. Tôi chắc chồng tôi cũng nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đi với anh.

Chúng tôi phải nối tiếp lại những ngày hạnh phúc ngắn ngủi xa xưa. Tôi không thể sống mãi trong cô đơn để run sợ trước những ám ảnh của dĩ vãng và những nhung nhớ khôn nguôi người chồng mà tôi mãi mãi yêu thương như buổi đầu gặp gỡ….. !!!

Trần Thị Thanh Minh.
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Images
 
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
duckyy (03-15-2021), huudangdo1 (03-20-2021), Lien53 (08-11-2021)
Old 03-17-2021   #332
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,408
Thanks: 21,690
Thanked 38,200 Times in 12,887 Posts
Mentioned: 636 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7247 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Tuổi Già Và Nỗi Buồn Trong Viện Dưỡng Lão Trên Đất Mỹ



Tôi viết như một trải nghiệm của riêng tôi trong quá trình giúp em gái tôi lên kế hoạch tìm ra một phương án sở dĩ an toàn và lâu dài cho người anh cả của gia đình chúng tôi, năm nay đi vào lứa tuổi song thất 77, mặc dù anh không mang một chứng bệnh nền nào, ngoại trừ chứng bệnh già nua, lão hóa quá nhanh, sức khỏe yếu hẳn đi tính từng ngày, đi đứng khó khăn, không tự chăm sóc được cho bản thân, phải nhờ người trợ giúp, thêm phần trầm cảm của tuổi xế chiều trong nỗi bể dâu của một gia đình không được đầm ấm...

Để có được một mái ấm an dưỡng tuổi già trên xứ Mỹ, nhất là trong thời kỳ đại dịch coronavirus, khi mà tin tức phần đông ca tử vong vì COVID-19 đến từ các viện dưỡng lão trên khắp nước Mỹ, thì hành trình đi tìm cho ông anh mình một nơi nghỉ dưỡng an toàn còn khó hơn là tìm đường vượt biên của những thập niên 70's.

Ở đây tôi không nói đến tình trạng tài chánh, vì thường tình một người ở Mỹ sau khi đã một đời đi làm đến tuổi về hưu và sau khi con cái đã thành tài lập nghiệp có gia thất riêng thì vợ chồng già còn lại những gì?

Có chăng còn lại một ngôi nhà đã trả hết nợ nần, nhưng căn nhà giờ đây chỉ còn lại hai ông bà già với một khoảng không gian trống vắng không cùng, đầy ắp những kỷ niệm. Còn đâu những tiếng cười đùa trẻ thơ và những bữa cơm gia đình một thời bên nhau... May mắn thay cho những cặp đôi tuổi già, ngoài căn nhà và sổ lương hưu nhất định, còn lại được chút tình già sớm tối có nhau, dựa nhau cùng nắm tay trên bước đường của một cõi đi về...

Ước mơ thật đơn giản phải không bạn? Nhưng đó lại là giấc mơ không bao giờ với tới được của rất đông bạn già đã về hưu trong hội Ái hữu cựu Sĩ quan Không Quân tỵ nạn trên đất Mỹ mà tôi biết, kể cả ông anh tôi...

Sau mấy mươi năm trường chịu đựng vì con cái và vì sĩ diện với bà con dòng họ, với bạn bè, với cộng đồng giáo xứ nơi đang sinh sống, để lo tương lai cho các đứa con, giờ đây khi mái đầu đã điểm sương, dáng đi xiêu vẹo, cháu con đề huề, người vợ một đời đầu ấp tay gối lại quay tít một vòng 360 độ, hoàn toàn đổi ý, bỗng coi nhẹ sỉ diện, chỉ muốn sống một ngày cho ra sống mà cả cuộc đời bà không có cơ hội: một mình, tự do, tự tại... không vướng bận một ai mà chuốc thêm muộn phiền. Ích kỷ giờ đã lên ngôi, hay là cơ hội đã đến để đáp trả lại những ẩn tình khúc hận chất chứa trong lòng bấy lâu cho một cuộc tình không như mơ ước...?

Đó có phải là tâm lý chung? Chỉ có hai người trong cuộc mới thấu. Vì đâu nên nỗi đoạn trường? Hai người đã từng đồng cam cọng khổ bước qua những năm tháng dài gian nan khổ ải, những đêm vợ chồng thức trắng đêm để lo cho con cái bị bệnh. Thế mà, khi những ngày tháng gian khổ qua đi, các con giờ đã trưởng thành, ông bà không còn phải bận tâm tới cái ăn, cái mặc, nhàn nhã tuổi già bách niên giai lão. Cứ ngỡ rằng ông bà sẽ cùng nắm tay nhau đi trọn hết cuộc đời ô trọc nầy. Nhưng than ôi! hôn nhân của mấy mươi năm trường đã đi vào ngõ cụt... Đành quay lưng ngoảnh mặt làm ngơ với một lý do cứ tưởng như đùa, thật nhẹ tênh: “Có quá nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn” hay "duyên phận đã hết, đành tận nghĩa phu thê"!

Cả thời tuổi trẻ họ sống vì con, vì định kiến xã hội, đến khi ở độ tuổi không còn trẻ, tóc đã điểm sương, họ mới tự giải thoát mình ra khỏi cuộc hôn nhân không hạnh phúc nầy chăng?

Để giải quyết. Ly thân, nhưng không ly dị...Thân ai nấy lo, đối xử nhau như một kẻ thù. Ôi cũng là nỗi vô tình của kiếp vô thường... Hồi kết của chuyện tình già sao thật buồn thỉu buồn thiu...

Biết đến bao giờ anh tôi mới ngộ ra cơn trầm cảm của giấc mộng Nam Kha, chấp nhận số phận hẩm hiu... Thôi thì níu kéo nhẫn nhịn thêm để làm gì, chắc gì hạnh phúc. Biết tìm cho mình một chút gì thanh thản ở cuối đời để tâm hướng về cõi phục sinh cứu độ... của Lòng Chúa Thương Xót.

“Người ta bảo, vợ chồng già phải có nhau, chăm sóc nhau nhưng anh thì bất hạnh. Lúc trước, anh cứ nghĩ chỉ cần anh yêu thương T., tảo tần lo cho gia đình thì sẽ được tha thứ, bỏ qua hết mọi chuyện. Cú sốc này làm anh đau lắm chứ. Có lẽ quãng đời còn lại, anh phải biết sống tốt hơn cho bản thân mình, biết chấp nhận số phận" có lần anh tôi tâm sự như vậy trong nước mắt, lần đưa anh ra dạo biển Huntington gần đây. Nghĩ lại thấy thương thương..., thêm lời cầu cho ông anh mình mong được như vậy... Hay cũng chỉ là câu trả lời trong ánh mắt vô thần của ông anh tôi: - "Biết! Nhưng khó lắm. Sao cũng được. Vẫn bình thường. Cho gì ăn nấy...", đã từng lấy đi bao nước mắt của em gái tôi...

Mới đây tình cờ đọc được một bài viết trên mạng xã hội phản ảnh một phần thực tế về sinh hoạt tại một viện dưỡng lão ở quận Cam, California, của một cô gái Mỹ gốc Việt, cô Mary Tran, một người được đào tạo trong lãnh vực "Y Tế & Dịch Vụ Nhân Sinh" (Health & Human Services field). Xin trân trọng lược dịch và đăng lại để làm trải nghiệm cho những ai đang đi tìm nhà dưỡng lão hay viện hưu dưỡng (Nursing Home - Senior Assistance Living) trên đất Mỹ cho người thân, đỡ bàng hoàng. Bài viết có tựa đề:

"The journey to find a Nursing Home"
(Hành trình đi tìm nhà dưỡng lão)

....Tháng trước đây mình có giúp làm một tờ Giấy ủy quyền (Power of Attorney) cho một người thân của bạn mình, đang điều trị tại một bệnh viện địa phương về bịnh tai biến, lý do bệnh viện muốn chuyển người thân bạn mình qua một khu trung tâm nghỉ dưỡng có cơ sở Phục hồi chức năng (Nursing Home - Rehab), để bệnh nhân vừa dưỡng bệnh vừa qua vật lý trị liệu. Tình hình đại dịch COVID-19 như hiện nay, tất cả mọi nơi đều quá tải, không còn chỗ trống, nhân viên quản lý bệnh nhân (Case Manager) vẫn chưa tìm được một nơi nào khả dĩ. Thế là bạn mình gọi nhờ tôi giúp đỡ. Tôi hứa sẽ giúp bạn tôi tìm một nhà dưỡng lão tốt. Chưa có kết quả, thì bạn tôi báo tin vui rằng không cần làn phiền tôi nữa, nhân viên sở xã hội của bạn mình (Social worker) đã tìm giúp cho bạn mình một trung tâm Phục hồi chức năng vừa có luôn cơ sở dưỡng lão (Nursing Home - Rehab) tốt, gần bệnh viện, để tiện cho việc đi lại, đưa đón. Mình rất vui và yên tâm vì biết rằng người thân của bạn mình biết được tiếng Anh và còn rất tỉnh táo, nên tin chắc là sẽ không một ai có thể ăn hiếp được người thân đó của bạn tôi. Với lại, sau này khi đã phục hồi được một phần chức năng, người thân của bạn tôi cũng sẽ phải chuyển qua sống trong một viện dưỡng lão lâu dài thôi. Vì thế đây coi như một cuộc trải nghiệm...

Nghe bạn nói thế mình chỉ biết khuyên bạn mình nên hết sức cẩn thận, đừng quá vội tin ai trong việc chọn lựa cho người thân mà bạn yêu thương một nhà hưu dưỡng. Bỡi lẽ trong nghề mình quá biết "con quạ nào lại không đen", chẳng qua nó có biết khéo che đậy hay không mà thôi.

Thật vậy, hai ngày sau khi được bạn mình cho biết địa chỉ cơ sở của nhà "Care Home" nầy, mình đã ghé thăm người thân của bạn tôi tiện thể cho bạn tôi ý kiến chuyên môn của mình. Vào thăm, gặp người thân của bạn tôi, ngồi đó, trên một chiếc xe lăn, gục đầu, nửa thức nửa ngủ, lờ đờ. Tôi hỏi người giúp việc ở đây, họ trả lời là bạn ấy từ ngày vào đây ban ngày thường hay ngủ suốt. Mới đầu tôi nghĩ có lẽ ông ta mới từ bệnh viện qua nên chưa quen hơi, với lại uống nhiều loại thuốc mới, có thể chưa quen. Tôi yêu cầu xin họ cho tôi coi lại danh sách thuốc PRN mà y tá đang cho ông ta uống. Cũng nên biết thêm đơn thuốc PRN là chữ viết tắc của "pro re nata" có nghĩa là việc dùng thuốc không theo lịch trình. Thay vào đó, đơn thuốc được thực hiện khi cần thiết. Tôi xem qua danh sách PRN, khám phá ra họ cho bệnh nhân uống tối đa liều thuốc ngủ cho phép, tôi có hỏi bệnh nhân thì người thân của bạn tôi nói là không hề yêu cầu thuốc ngủ, trong khi Y tá một mực nói là có yêu cầu.

Trước khi đi mình lấy điện thoại chụp nhiều hình ảnh chung quanh gian phòng của ông bạn. Hai ngày sau tôi quay lại, thùng rác và rác cá nhân vẫn chưa đổ hay dẹp, tôi gọi Y tá trực hôm đó để khiếu nại, họ đổ thừa là tại có hai loại rác khác nhau, người phụ trách vệ sinh (house keeping) tưởng là rác y tế nên không dọn. Mùi hôi thúi từ đó xông lên nồng nặc.

Còn đồ ăn thì khỏi phải bàn, 90% món ăn là từ đồ hộp có sẵn, thứ phát chẩn, hoặc là thức ăn đông đá, thịt gà thì cứng và khô như gỗ, đậu đũa (green beans) từ hộp lon ra thì mặn chát, nguội lạnh, thế mà tụi nhà bếp lại còn cắt luôn khẩu phần sữa dinh dưỡng của người già làm mình phải đi cãi lộn với họ, vì mình biết chắc một điều là tụi nó giấu sữa Ensure để đem về.

Ngày hôm sau nữa mình lại đến, lần nầy Y tá quên không rửa vết thương và thay băng mới cho vết thương ngã té của ông bạn mình trong lần ngã trước đây bị nhiễm trùng. Trời ạ, vết thương cần thay băng mỗi ngày 2 lần. Thuốc uống cho bệnh nhân thì một số đã được phân chia sẵn (prepack) trong những túi nylon nhỏ, tụi nó cứ đem cho bệnh nhân uống mà không cần coi lại, vì dạng thuốc đóng gói sẵn, nên chuyện sai sót thuốc dư thiếu thừa là chuyện bình thường, nhưng Y tá không hề kiểm tra lại. Thuốc huyết áp, mém chút nữa người thân của bạn tôi phải uống liều gấp đôi. Tôi khuyên ông khi uống thuốc phải coi chừng, nhưng vì quá đau nhức và không đủ sức khỏe nên ông cũng không buồn lên tiếng. Mình biết chắc ông bị cho uống thêm liều thuốc ngủ trong mục PRN mà không làm gì giúp được ông.

Đỉnh điểm là khi cô nhân viên phụ việc cho Y tá (Nurse Aid) đưa cho ông ly nước để uống thuốc, tôi thấy không bình thường, khi ngửi có mùi rất khó chịu, mình vặn hỏi sao lại đưa nước lấy trong cầu tiêu (rest room) cho bệnh nhân uống, nàng một mực chối. Mình yêu cầu nàng viết giấy xác nhận cho mình lấy mẫu nước để gởi đi phòng lab thí nghiệm, nếu không mình dọa sẽ gọi cảnh sát (state police) và tố giác trung tâm về tội ngược đãi bệnh nhân (neglected patient), tới khi đó nàng mới xin lỗi rối rít và đổ thừa cho nhà bếp đưa, chớ nàng hoàn toàn không biết gì.

Còn nữa, họ cho biết trung tâm có dịch vụ đưa đón chuyên nghiệp (professional transportation), hôm đó mình mới vỡ lẽ chứng kiến bà thư ký phục dịch tại quầy tiếp đón (front desk) lại kiêm luôn tài xế trong dịch vụ nầy. Bỡi khi chứng kiến cảnh bà nầy đưa người già đi khám bệnh về, khi đưa ra khỏi xe, chiếc xe lăn (wheel chair) của ông lão bị vướng vào vạt áo dài đầm xòe của bà tài xế làm cho ông lão bị lăn cù xuống đất không tài nào đứng lên được nữa, may mà ông lão không hề hấn gì. Vì không kinh nghiệm và không qua khóa huấn luyện chuyên môn nào về "transfer patient" nên bà ta mới mặc chiếc váy dài lê thê như đi dự dạ tiệc, tội nghiệp cho ông lão phải một phen lộn nhào bầm dập. Thấy tình cảnh nầy mình chạy vào gọi người ta ra giúp. Mình chắc chắn là gia đình họ sẽ không hề biết những chuyện thương tâm như thế này.

Ngồi một chút, bỗng tiếng la hét của người già khóc lóc, trộn lẫn tiếng mấy cô nhân viên la hét, mùi hôi khai ở đâu xông lên nồng nặc không thể nào chịu nổi. Mình thừa biết, khi có nhân viên từ tiểu bang (state) xuống kiểm tra thì mọi thứ đều tốt lành, nhưng khi họ rời khỏi thì mọi thứ đâu cũng vào đó.

May mắn thay cuối cùng mình cũng tìm ra được cho người thân của bạn mình một nhà dưỡng lão tương đối tốt hơn mà theo bản đánh giá của một viện đánh giá độc lập trên bản xếp hạng có điểm khá cao, ở đây có RN (Registered Nurse) và BSN (Bachelor of Science in Nursing) làm việc, chứ không phải chỉ có LPN (Licensed Practical Nurse) như tại trung tâm cũ. Phòng ốc sạch sẽ không hôi khai. Giường nằm tối tân có gắn máy báo động (sensor), cứ mỗi 2 giờ sẽ gọi báo vào beeper của Y tá trực, sẽ có người đến xem chừng bệnh nhân, trở bên thế nằm và chăm sóc vệ sinh cá nhân cho họ. Thực đơn nhà bếp thì tương đối phong phú hơn, nhiều món ăn chọn lựa, có đầu bếp chuyên nghiệp lo việc nấu nướng. Nói chung mọi thứ làm bạn yên tâm.

Mình gọi cho bác sĩ phụ trách yêu cầu xin chuyển ông ta đi qua chỗ mới nầy ngay. Hai ngày sau mình ghé thăm ông ta tại nhà dưỡng lão mới nầy, không ngờ đi tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa, ông ta than với mình là ông bị co rút bắp chân (muscle spasm) liên tục nên rất đau nhức không chịu được. Nghe thế mình sinh nghi là có thể ông ta đã không được cho uống đúng thuốc hay bị thay thế (withdrawal), tôi hỏi ông có uống thuốc giảm đau không, ông nói có, mình chờ đúng giờ ông ta được cho uống thuốc, để coi có phải là loại thuốc giảm đau loại tốt Hydrocodone đúng hiệu không? y chang, nó đổi thuốc bằng hiệu Tylenol, mình lại thêm một lần cải vã với Y tá và dọa sẽ tố cáo gian lận, sau đó thì mọi việc yên ổn, ông không còn bị uống thuốc dzỏm nữa. (Tình trạng Y tá ăn cắp thuốc rất phổ biến ở viện dưỡng lão)

Y tá ở đây làm việc rất máy móc, như câu chuyện về cái giường nằm thông minh được họ xử dụng ở đây, cứ hễ 2 tiếng, bất kể bệnh nhân ngủ hay không, nhân viên trợ y CNA (Certified Nurses Assistant) cứ đè bạn mình ra quay trái quay phải, khiến cho 2 đêm đầu làm cho ông mất ngủ. Bạn tôi kể, con nhỏ trợ y CNA mới đầu thấy anh ta là người Việt tưởng không biết được tiếng Anh, nên vừa ôm điện thoại nói chuyện với bồ vừa giúp ông ta, bạn tôi hỏi lại có phải mày đang nói chuyện với bồ mày không? nó xin lỗi cứ tưởng bạn mình không biết tiếng Anh, sau đó cô gái đổi qua ngôn ngữ khác để nói chuyện. Mình kêu ông bạn mình thu âm gửi cho mình, mình nhờ nhóm bạn đồng nghiệp của mình tại sở làm nghe là tiếng nước nào, sau khi biết là loại tiếng lóng hay tiếng bồi (Creole), mình nhờ nhóm bạn dịch cho mình, họ không dám dịch vì nó quá tục. Mình nói cứ dịch, hôm sau mình trở lại yêu cầu cho gặp Y tá trưởng (Nurse Manager) hay Social Worker, hoặc Administrator để trình bày câu chuyện. Họ tưởng mình là dân làm tiền chuyên nghiệp, kiểu như giả vờ bị ngược đãi (abuse neglected) rồi giả vờ đòi đi kiện, để được ăn ở miễn phí, hay hù dọa kiếm tiền. Bà quản lý ở đây hứa hẹn nhiều thứ cho mình, nghĩ thật buồn cười. Lúc đó mình mới nói thật là mình đã từng làm việc trong nghề nên biết, chỉ cần chăm sóc tốt cho bạn tôi là được.

Thời gian 3 tuần cũng qua mau, bạn mình nói đâu ngờ viện dưỡng lão (Nursing Home) trên đất nước văn minh nầy sao mà nó kinh khủng như vậy. Mình cố giải thích cho bạn mình rất nhiều chuyện, không hẳn hễ cứ biết được tiếng Anh, biết luật là không ai ăn hiếp được mình. Ở viện dưỡng lão họ rất tinh vi, họ rành mọi kẽ hở, lơ mơ là mình không làm gì được họ đâu.

Mình suy nghĩ rất nhiều trước khi viết bài này. Là một người từng làm việc ở viện dưỡng lão, Hospice (khu chờ chết), Bệnh viện, mình biết người nhà của bệnh nhân luôn phải biết ăn nói nhã nhặn, luôn biết tôn trọng, hòa nhã với các nhân viên làm việc ở đây. Những ai đã từng gặp mình ở ngoài thì biết mình hiền khô à 😄 Nhưng đối với những vấn nạn như thế nầy thì mình nhất quyết không nhân nhượng.

Sau cùng, dù biết mỗi gia đình, mỗi hoàn cảnh khác nhau. Nhưng nếu bạn thật lòng yêu thương cha mẹ, anh em và người thân của mình thì xin bạn đừng bao giờ có ý định đưa họ vào nhà dưỡng lão - Vô số nỗi buồn ở Nursing Home!"
(Hết trích)

Một lời khuyên của người trong nghề nghe sao não lòng!

Hay đó cũng là con đường mà mình sẽ chuẩn bị cho đời mình...

"NGÀY SAU SỎI ĐÁ CŨNG CẦN CÓ NHAU" (tcs)

Anre Huynh
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	96366.ns.jpg
Views:	0
Size:	36.1 KB
ID:	1757924  
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
huudangdo1 (03-20-2021), Lien53 (08-11-2021)
Old 03-20-2021   #333
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,408
Thanks: 21,690
Thanked 38,200 Times in 12,887 Posts
Mentioned: 636 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7247 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Từ Giã Diêm Vương Trở Về

Sáng thứ hai, một buổi sáng bình thường như mọi buổi sáng của tuổi về hưu, khoảng 8 giờ ngày 1 tháng 2 Dương Lịch 2021, New Orleans Louisiana, tôi thức giấc… trong cô đơn, nhà cửa vắng tanh vì bà xã đang ở xa lo công việc. Vào phòng tắm vừa đánh răng xong, xoay người toan bước ra thì tôi bỗng bị… rụng xuống sàn nhà như một trái mít nghe đến rầm một tiếng đinh ai nhức óc.

Đầu và ngực tôi đập xuống sàn có lẽ nặng lắm vì khi mở mắt ra, tôi nhìn thấy cái … bồn cầu tiêu đang nằm song song ngay trước mặt mình, lại còn cao hơn mình cả … thước, ngạo nghễ, trắng bóc và … tròn quay, đang lắc lư trước mặt mình.




Đù mẹ, mới sáng sớm đã lại có chuyện rồi, tôi lẩm bẩm chửi thề và tự hỏi: “What’s the fuck going on?” Tối qua mình lại uống rượu say quá chăng? Không, tối qua tôi chẳng uống gì cả và hôm nay mới sáng sớm chưa có rượu chè gì. Mình cũng không bị trợt té. Thế thì tại sao tôi lại nằm thẳng cẳng như thế này hở trời?

Có lẽ đây là hậu quả của những ngày đi Cali chơi mùa Noel rồi mới về, ăn nhậu nhiều quá chăng? Nhưng về đã hơn tháng rồi, chẳng hề bị rụng, sao bây giờ mới rụng?
Không cần phài suy nghĩ lâu, sống trong thời buổi thiên hạ bị dính Covid rầm rầm, tôi kết luận ngay là mình đã bị dính cúm Tàu. Tôi đã đọc rất nhiều về cúm Tàu để biết một trong những chuyện thường xảy ra cho bệnh nhân khi mới bị nhiểm là mất hết sức lực. (Thực tế thì chuyện này chỉ xảy ra ở giai đoạn sau khi bị sốt—nhưng tôi chưa hề bị sốt.) Tôi cũng thắc mắc là suốt tháng qua, từ khi đi chơi xa về, tôi đã không đi đâu, không tiếp xúc với ai, thế thì sao con Cúm Tàu đột nhập vào tôi được? Cũng cần nói thêm là tất cả khứu giác, vị giác, thính giác của tôi vẫn còn đầy đủ, những người bị Covid sẽ bị mất hết những thứ này. Nhưng buổi sáng hôm đó, tôi kết luận ngay là mình bị cúm Tàu. Gì chớ cúm Covid-19 thì nhằm nhò gì. Ai sợ, ông đếch sợ. Ông chỉ cần tỉnh dưỡng và cách ly một vài ngày, xông vài phát thật tốt là xong ngay. Nhưng chuyện quan trọng bây giờ là phải ... đứng lên cái đã.

Loay hoay mãi một lúc mới vịn cái bồn tắm ngồi lên được và nhìn vào tấm gương trước mặt, tôi giật mình đến thót. Sao mặt mũi tôi tím bầm và … thô bỉ như thế này hở trời?
Một lúc sau, tôi gượng đứng lên được nhưng lại bị rụng xuống sàn ngay phát thứ hai, cú secondary.

Lúc ấy tôi mới khám phá ra là mình chẳng còn chút sức lực nào trong người cả. Chuyện này hơi lạ. Nhưng nghĩ kỹ một chút thì cũng chẳng… lạ chút nào. Bố khỉ, chú mày đã 70 tuổi rồi, già mẹ nó rồi út ơi. Thằng Út ngày xưa của phi đoàn 114 bây giờ đã thành một lão già. Sinh Lão Bệnh Tử là chuyện thường, tôi chẳng lấy gì làm buồn. Chuyện đáng làm bây giờ là phải làm thế nào để đứng lên đây? Mẹ bố, không đứng được thì ông đành phải… bò thôi.

Nửa tiếng đồng hồ sau, vừa lết vừa bò, tôi cũng mò được xuống lầu dưới. Ngồi được xuống cái sofa phòng khách mà tưởng êm ấm như ngồi trên ghế thiên đàng, thở hồng hộc như trâu, và không biết đã ngất đi thêm bao nhiêu lâu nữa.
Khi tỉnh dậy, quên mẹ nó mất là mình đã hết sức, tôi vụt đứng dậy và lại rớt xuống sàn một lần nữa. Nhà dưới tôi là sàn gạch nên thân thể ê ẩm, tôi nằm co quắp. Lần này thì tôi không còn bò dậy được, lăn cũng không được, đành nằm luôn dưới sàn nhà. Lầu dưới nhà tối qua đi ngủ tôi đã tắt máy sưởi, trời bên ngoài hình như khoảng 40 độ, sàn gạch lại lạnh như băng, tôi run lên bần bật…

Nhà lúc ấy chỉ có mình tôi, tôi biết nếu nằm thêm một lúc nữa thì có lẽ tôi sẽ chết cóng… Vợ đang ở mãi bên Cali, tôi quyết định gọi điện thoại cho thằng con trai. (Đáng lẽ phải gọi cho 911, nhưng nghĩ không ra) Nhưng khốn nạn, chẳng biết cái điện thoại bị rớt chỗ nào mất tiêu, kiếm mãi không ra. May quá, không biết một lúc nào đó, chuông điện thoại tôi reo. Thì ra nó nằm lọt tuốt dưới đáy cái sofa trước mặt tôi…
Tôi không còn nhớ mình đã gọi cho thằng con trai như thế nào, ra sao, nhưng giật mình tỉnh dậy ra thì đã 11 giờ đêm, đang nằm trong ICU nhà thương Ochsner, chung quanh toàn là đủ thứ ống Ni-lông, từ ống Oxygen cho tới ống máu, ống IV, toàn ống là ống. Thằng con trai tôi vẫn còn ngoan ngoản ngồi bên cạnh chờ bố, đang chơi với cái iphone. Nó mừng rỡ nhìn tôi nói:
-Con tới trễ chừng nửa tiếng thì bố chắc đi rồi… Sao bố không gọi 911?
-Bố bị Covid phải không con?
-No, your Covid test is negative – You got something much, much more serious than that, Daddy.

Nghe như thế thì biết thì biết như thế, nhưng đầu óc tôi lúc ấy hoàn toàn không còn cảm nhận, không hiểu được ra gì cả. Rồi chẳng bao lâu lại mê đi, rồi lại tỉnh dậy rồi lại mê đi cho đến ngày hôm sau mới nói chuyện được với bác sĩ. Bác sĩ chỉ vắn tắt cho biết, mày bị ung thư, nhưng tụi tao vẫn còn chờ đợi kết quả thử nghiệm…
Vợ tôi hôm đó cũng đã khẩn cấp bay từ Cali về, hai người chỉ biết ngồi tâm sự, bàn những chuyện cần phải làm, nhưng tuyệt nhiên, không ai than trách số mạng. Trời cho, trời lấy, chẳng có gì phải thắc mắc buồn phiền ở đây.

Thêm vài ngày nữa, tỉnh táo hơn, nằm trong nhà thương có nhiều thì giờ, tôi bắt đầu suy nghĩ về những gì xảy ra. Và càng suy nghĩ những chi tiết thì tôi càng thấy giật mình. Việc tôi nằm ở trong cái ICU này không phải là một chuyện mới xảy ra một sớm một chiều mà dấu hiệu đã có từ cách đây mấy năm mà tôi không thèm để ý đến. Tôi xin viết lại để chia sẽ với những ai ở lứa tuổi trên dưới 70 như tôi.

Hai: Những dấu hiệu ngầm báo trước mà tôi không thèm … thấy
1/ Cách đây khoảng chừng 3 năm, mặt tôi bỗng bị nổi lên những đốm đen trên má, ban đầu nhỏ nhưng sau lớn dần như đồng xu. Cho rằng đây là dấu hiệu của tuổi già, tôi phớt tỉnh.

2/ Khoảng 2 năm trở lại đây, tôi thấy trong người khá mệt mõi và bắt đầu ngủ càng ngày càng nhiều. Có ngày tôi ngủ đến 10, 12 tiếng, chưa kể ngủ trưa, ngủ vặt. Tôi nghĩ bởi mình đã lớn tuổi, lại hay ăn nhậu hay làm việc nhiều quá, nên chẳng quan tâm lắm. Tôi bắt đầu bớt ăn nhậu lại, nhưng tình hình chẳng khá hơn gì.

3/ Đầu óc tôi thấy không còn minh mẫn, không còn trí sáng tạo như ngày xưa. Có lẽ đó là lý do tôi quyết định về hưu hồi đầu năm ngoái.

4/ Tôi rất dễ cảm thấy lạnh. Trong sở tôi, ai bước vào văn phòng tôi cũng chê nóng vì tôi để nhiệt độ cao mà vẫn phải mặc thêm áo khoác.

5/ Thân thể cảm thấy bị ngứa ngáy nhiều chỗ, nhất là sau lưng…

6/ Quan trọng hơn cả, những tháng sau nay, mặt mũi tôi bắt đầu lần lần thấy biến dạng, xưng lên những thớ thịt hai bên má và dưới cổ, có hạch ở nách và dưới háng….

7/ Hay bị chảy nước mắt và mắt cảm thấy bị mờ, ngứa ngáy. Đi khám mắt, bác sĩ chỉ cho thuốc uống.
Đây toàn là những dấu hiệu không tốt, và nếu cẩn thận, một người sẽ đi hỏi bác sĩ. Dĩ nhiên là tôi có hỏi bác sĩ của tôi, một thanh niên mới ra trường, kinh nghiệm không biết có bao nhiêu nhưng đã mở phòng mạch hốt thuốc đếm tiền. Hắn chỉ lắc đầu bảo, không có gì quan trọng. Mẹ, bác sĩ đã nói thế thì ông việc gì phải lo.
Cho đến những ngày hôm nay…

Ba: Những gì tôi đã gây ra cho chính tôi
Thành thật mà nói, dĩ nhiên là tôi cũng đóng góp một phần không nhỏ cho sự suy sụp sức khỏe của mình. Trước hết, ai cũng biết, tôi bắt đầu biết ăn nhậu từ hồi chưa đi lính. Vào lính, nhậu dữ hơn. Qua Mỹ, nhậu tiếp. Những năm gần đây, tôi bớt uống đi nhiều, nhưng mỗi ngày cũng phải chơi vài chai bia vân vân.
Có nhiều thì giờ ngồi coi lại hồ sơ bệnh tình và của tôi, nhất là phân tích những kết quả thử máu, tôi ngạc nhiên nhận ra vài điều sau đây:

1/ Số lượng soldium (muối) trong máu quá thấp: Cách đây khoảng 20 năm, vì bị áp huyết hơi cao, nên tôi đã cử ăn mặn tối đa. Tôi không còn nhớ mình đã cử như thế nào, nhưng hình như đã mấy chục năm qua, tôi còn nhìn thấy một hủ muối nào trong nhà nữa.

2/ Ăn Chay: Khoảng hơn 3 năm nay, khi nhìn thấy những người làm việc trong hãng tôi càng ngày bụng càng bự, đứng gần chúng nó, tôi có cảm tưởng như mình đứng gần cái thùng tô-nô. Thế là tôi đâm hoảng, không muốn như chúng nó nên quyết định ăn chay. Thay vì ăn uống 3 bữa như thiên hạ, tôi chỉ rút xuống chỉ còn ăn 1 bữa ăn chính. Sáng sớm thức dậy, tôi chỉ chơi một ly cà phê, buổi trưa không ăn gì và buổi tối thì ăn một bữa thịnh soạn với rượu bia đầy đủ.

3/ Tự uống Aspirine để ngừa đột quỵ: Đã từ hơn 20 năm nay, nghe lời ai hay đọc ở đâu không biết, tôi uống mỗi ngày 31 mg Aspirine. Cách đây 2 năm, tôi tăng lên 238 mg (tức gấp 3 lần). Cho đến năm ngoái, tự dưng tôi bị chảy máu cam, chảy hoài và chảy nhiều lần. Tôi liền ngưng uống Aspirine thì đồng thời cũng hết bị chảy máu cam.

4/ Không bao giờ coi trọng việc ăn uống. Xuất thân là một người lính, tôi luôn luôn coi thường chuyện ăn uống. Có khi cả tuần lễ, chỉ uống bia chứ không ăn. Khi nào đói quá, quơ đại vài miếng bánh, miếng chip, ăn cũng xong. Nếu cần đổi một bữa ăn để lấy một chầu nhậu, tôi sẵn sàng liền. Lính mà em.

5/ Tôi không biết mình đã bị thiếu dinh dưởng trầm trọng, từ thiếu máu, muối, ít chất Albumin trong gan, vân vân. Tôi, nói một cách khác, suốt mấy năm nay, đã tự nhịn đói đến … gần chết mà không hay.

6/ Tập thể thao. Tôi không bao giờ tập thể thao nhưng mỗi ngày vận động, làm việc nhà, cắt cỏ vân vân cho đủ một tiếng đồng hồ. Chuyện này không đến nỗi tệ.
Cũng có một điều cần nói là sau 4 tuần lễ trong nhà thương, họ chạy cho tôi hơn vài chục cái khám nghiệm, đủ mọi thứ scan, ultra sound, bone marrow, thử máu, đủ cả, bác sĩ xác nhận bao tử, thận của tôi còn rất tốt, không hề bị tiểu đường hay một thứ bệnh gì. Tôi không phải là thầy thuốc nên không biết những gì tôi làm đã gây tai hại cho sức khỏe của tôi như thế nào. Và cũng đếch có thì giờ để bàn thêm ở đây, nhưng xin viết lại để anh em coi cho vui.

Bốn: Vài câu chuyện kể lại cho vui

Dĩ nhiên là trong cuộc đời mình, chuyến đi nào thường cũng để lại nhiều kỹ niệm. Chuyến đi vô nhà thương vừa rồi tôi cũng có vài chuyện đáng kể lại cho vui.

1/ You can die any moment now… (Lời bác sĩ)
Sau khi được đưa từ ICU xuống phòng bệnh, một buổi sáng Chủ nhật, tôi nhớ hôm đó trời ở Texas bắt đầu bị bão tuyết, tôi đang ngồi nghĩ đến bạn bè bên đó đang bị cúp điện, sống chết không biết thế nào thì khoảng 8 giờ, ông bác sĩ có lẽ là trưởng ca trực ngày hôm đó và một phụ tá bước vào phòng tôi, tay cẩm một sấp hồ sơ, mặt mày coi nghiêm trọng lắm.
Ông bác sĩ ngồi xuống giường tôi rồi buông liền một câu xanh dờn:
-Mr. Le, xin thông báo cho ông biết là ông đã được chẩn bệnh với Advanced lung cancer. You can die anytime now...
Mới nghe qua, tôi tưởng mình nghe lộn. Nhưng ngài bác sĩ lập lại như thế. Ngay lúc ấy, tôi còn đủ sáng suốt để biết rằng một ông bác sĩ Mỹ trực một nhà thương to lớn như thế này không bao giờ có thì giờ rảnh để tới đây ngồi nói đùa với tôi một câu chuyện quan trọng như vậy.
My death sentence has just been written in the sky, and I know it... Tôi nhủ thầm trong lòng mình như thế. (Sau này xuất viện, tôi biết tôi được chẩn bệnh không bị ung thư phổi.)
Tôi nhớ mãi, lúc ấy nghe như thế và nhìn qua cửa sổ nhà thương, tôi thấy như linh hồn mình như sắp sửa bay ra khỏi cái giường bệnh nơi với những cái ống nhựa đang dính chằng chịt vào người tôi, bay ra khỏi cái chốn ngục tù tăm tối của thế gian này, bay tuốt lên trời cao, ở một chỗ nào đó thanh vắng hơn, yên bình hơn, tự do thoải mái hơn chỗ tôi đang ở. Mẹ, làm người khổ thật.

Ở giây phút bi thảm nhất của cuộc đời đó, tôi ngạc nhiên khi thấy lòng mình tự nhiên trở nên bình thản và thanh thản vô cùng, chẳng thấy có gì phải tiếc nối cả. Dù cả một cuộc đời làm lụng hy sinh cho gia đình, tuổi trẻ dâng trọn cho tổ quốc, mới được về hưu có mấy tháng, chưa kịp hưởng gì đã phải tất tả ra đi, tôi chẳng thấy buồn phiền tiếc nuối gì cả. Trước sau gì rồi ai cũng phải ra đi thôi. Đi sớm cũng vậy mà đi sau cũng vậy, có ở lại thêm vài chục năm chưa biết cũng sẽ được cái gì.

Nhưng tự nhiên, tôi nghĩ đến một điều làm cho tôi cảm thấy đau buồn quá đổi. Đau buồn đến khóc được. Đó là, tôi tự hỏi, suốt đời mình, không biết mình đã làm được cho bao nhiêu người sung sướng? Hoặc đau đớn hơn cả, mình đã làm cho bao nhiêu người đau khổ? Một lời mình nói ra không cần phải nói, một câu chửi thề không cần phải chửi, một lời phê bình không cần thiết, tôi đã làm cho bao nhiêu người bực tức, đau khổ?
Quãng đời 70 năm từ lúc lọt lòng mẹ cho đến ngày hôm nay chạy xẹt qua thật nhanh như một ánh chớp. Những ngày thơ ấu làm khổ cha mẹ anh em, vào trường học làm khổ thầy giáo bạn bè, đi lính thì vô kỷ luật, vân vân... Tôi đã làm một người lính... không bình thường chút nào, gây phiền toái rắc rối cho không biết bao nhiêu người.
Suốt đời tôi, tôi đã nói được bao nhiêu lần những lời nói ngọt ngào êm ái ngay cả với vợ con, với người thân, với anh em bạn bè? Miệng tôi đã nhả được bao nhiêu cành hoa, bao nhiêu hương thơm, bao nhiêu lời hay ý đẹp, bao nhiều lời khen tặng cho đời được tươi đẹp hơn, hay chỉ mở miệng ra là văng tục chửi thề, phun cay đắng hận thù và sự chia rẻ làm cho mọi người vốn đã đau khổ lại càng đau khổ thêm?
Ngay lúc ấy, tôi muốn quỳ ngay xuống đất để xin tạ tội với tất cả mọi người mà tôi đã làm cho họ buồn bực hay đau khổ trong suốt đời tôi, từ những người thân thiết như vợ con, anh chị em trong nhà cho đến bạn bè bằng hữu. Xin tất cả hãy tha thứ cho tôi, để tôi được thoải mái và thanh thản ra đi, lòng không vướng bận gì.

Một lúc sau, ông bác sĩ lại hỏi tôi, nếu tôi bị trường hợp... bất ngờ, hỏi tôi có cho phép nhà thương rút ống hay chữa trị bằng mọi cách? Tôi đã tính quyết định cho họ rút ống đi, nhưng chợt nhớ ra người vợ ở nhà, tôi bảo chuyện đó để vợ tôi lát nữa sẽ vào đây quyết định. Tôi đã quyết định sẽ từ từ trình bày với nàng mọi chuyện khi nàng vào đây.
Ông bác sĩ bắt tay, để lại tờ giấy... rút ống trên giường, chúc tôi may mắn.

Tôi liền bốc điện thoại gọi cho hai đứa con thân yêu, báo cho chúng nó biết rằng bố chúng nó sẽ ra đi. Tôi chậm rãi và bình thản trăn trối cho từng đứa một, vắn tắt dặn dò những gì muốn nói, giọng đều đều, không hề xúc động, bình thản và chịu đựng, như ngày xưa lái tàu bay, sau những trận đánh đẫm máu, gọi máy về nhà báo cáo kết quả, những làng mạc bị thiêu hủy, những xác người cháy đen nằm đầy dẫy trên núi rừng Trường Sơn. Hai tình trạng, hai khoảng đời khác biệt, nhưng mầm móng và hình ảnh buồn thảm của những sự đau thương chết chóc chia lìa chẳng khác nhau chút nào. Một lúc nào đó, các con tôi khóc rống lên trong đường giây, nghe chịu không được.

Rồi vợ tôi vào, câu chuyện trở nên hơi phức tạp hơn và rất nhiều xúc động, nhiều cảm tình và nước mắt nhưng rồi cũng xong. Chúng tôi đồng ý ở một quyết định chung.
Nhưng cuối cùng thì tôi vẫn... không chịu chết. Ra khỏi nhà thương 3 lần, lại bị lôi cổ nhập viện vào phòng cấp cứu 3 lần vì xuất huyết không cầm được. Lần cuối cùng, nếu trễ nửa tiếng đồng hồ thì tôi đã được đưa thẳng xuống nhà xác thay vì ICU. Đây là lời bác sĩ nói, tôi không… chế biến.
Bây giờ tôi đã về nhà được gần 2 tuần, đang xạ trị và thấy càng ngày càng khỏe ra như trâu.

2/ I’m not a brave man
Một đêm nọ, một bà y tá tới đổi máu và chích thuốc cho tôi. Nhìn những ống kim ống ni-lon chằng chịt quanh mình, tôi lắc đầu ngao ngán than: “You know, I’m not a very brave man. This stuff scares me …”
Tôi nói là nói cho vui vậy thôi trong một giây phút ngã lòng chán nán, nào ngờ, bà y tá quay lại nhìn tôi, nghiêm mặt nói: “Mr. Le, everybody here thinks you’re a very brave man.”
“Wow, how is that?”
“You have conducted yourself perfectly in this hospital. You are suffering tremendously, yet you take it bravely, silently and gracefully. You always have that beautiful and confident smile on your face. We are supposed to confort you, but it’s you that confort us, cheer us up. Thank you Mr. Le.”
Thành thật mà nói, nghe như thế thì lòng mình thấy vui hẳn lên. Không phải riêng gì tôi nhưng bất cứ ai đã từng mắc áo lính đều phải học để biết… chấp nhận thương đau. Mẹ, nếu chết thì đành phải chết chứ làm đếch gì mà phải nhăn nhó đau khổ, làm mất cái hào khí của người lính đi, phải không các bạn? Tôi hãnh diện rằng mình vẫn còn có chút máu lính trong người và hành xử như một người lính của QLVNCH trong một cơn thất cơ lỡ vận.

3/ Nhớ lại một bài thơ cũ làm năm 2012
Vì không biết làm thơ nên tôi rất sợ thơ, nhưng lâu lâu nổi hứng cũng làm đại một bài. Năm 2012, nhân việc thiên hạ bàn chuyện “Ăn Cơm Hay Ăn Phở” trong một bàn nhậu, tôi nổi hứng làm đại một bài chọc phá thiên hạ cho vui. Bài thơ mới đầu là ăn phở, nhưng từ từ lại … biến thái trở thành chuyện nhậu nhẹt với Diêm Vương dưới âm phủ.
Một đêm trong nhà thương, tôi giật mình thức dậy vì không thở được. Không hiểu tại sao, tất cả những ống ni-lông ống Oxy và IV của tôi vẫn đầy đủ nhưng tôi không thể nào thở được. Tôi ngộp thở muốn chết, tôi vùng vẫy lăn lộn, muốn bấm máy gọi y tá nhưng không gọi được, đầu óc trở nên xây xẩm rồi ngất lịm đi.

Và tôi thấy hồn mình bay khỏi xác, bay xuống dưới âm phủ thật. (Tôi phải xuống âm phủ vì chẳng ai cho một thằng du côn mất dạy như tôi vào Thiên Đàng—đành chịu thôi) Và xuống âm phủ thì nhất định phải gặp Diêm Vương. Nhưng gặp Diêm Vương rồi lại được trở về mới là hay…
Không biết bao lâu sau đó, tôi giật mình tỉnh giấc thấy thiên hạ bu quanh mình đông như kiến, chỉ chỏ nói năng tùm lum. Tôi đếch có thì giờ để tìm hiểu tại sao, nhưng tôi biết tôi vừa thoát chết. Và tôi nhớ ngay đến bài thơ “Ăn Phở” tôi làm năm 2012 như sau:

Ăn cơm hay ăn phở?

Đầu năm mới làm bài thơ ... con cóc
Chuyện ăn cơm, ăn phở thứ nào ngon?
Thiên hạ người muốn ăn kẻ bảo đừng
Có anh còn sợ cơm nhà bị hàng xóm... bứng

Lạy Thượng Đế con xin người tha thứ
Phần con, cơm khê, cơm nhảo, con đều... đớp ráo
Ra đường gặp phở con cũng... chơi luôn.
Hủ tíu Mỹ Tho ư? Sức mấy con từ
Mì Vịt tìm là món con khoái khẩu
Ếch xào lăn, khỏi nói nhậu tới chiều
Càng cua rang muối càng nhai càng nhớ đến:
Cặp... mông đít em cắn mãi, sao ngon được như vầy?

Ham Bơ Gơ Mỹ ai chê xin để đấy
Tóc vàng mắt xanh, “Thù dân tộc” con đành phải trả
Su-Shi uống với Sa-Kê con sẽ ... “Đoàn kết Đại Đông Á”
Jambon Pháp thịt trắng tươi thơm phức, ngu sao chẳng vồ?

Đời người ngắn ngủi làm con phải ằng-gioi
Ai cười con chịu ai chê con cũng cười
Nhưng có vài thứ con không bao giờ đụng tới:
Một là vợ bạn, hai bà con máu mủ,
Ba là phụ nữ tuổi con cháu mình...
Được dâng hiến con lắc đầu... bỏ chạy

Mai mốt ngủm, xuống đáy tầng địa ngục
(Trời đất nào dung một thằng quỷ như con?)
Gặp Diêm Vương hắn chỉ mặt quát lớn:
“Thằng quỷ sống, sao giờ này mới xuống?”

Con chẳng hãi quạt liền, “Mẹ, vừa thôi bố,
Cũng đều là ... quỷ, sao mày nở ép nhau?
Kiếm chai rượu mình ngồi đây cạn láng
Nói thật với mi tao chẳng hám Thiên đàng,
Bởi trên đó toàn Cha Cố Bà Sơ, người đúng đắn
Mặt mày táo bón, bộ tịch nghiêm trang coi mà thấy nản,
Ăn mặc kín bưng chẳng cho ai xem tí... vú chút đùi
Uống toàn nước lạnh, hay cô ca hay cà phê sữa đá
Tao đây bợm rượu làm sao mà sống nổi?

Tao thà xuống địa ngục với mi
Bởi nơi đây hảo hán bạn bè đầy đủ cả,
Toàn những thằng trời đánh phải.... đứng xa
Những thằng ngày xưa vá trời lấp biển
Áo lính giày sô ngang dọc bốn phương trời
Nhưng nửa đường gẫy cánh dù đại bàng cũng ngã
Thành không giữ được, gạt nước mắt, lời thề xưa đành bỏ
Thằng chết thảm, thằng vào tù, thằng bỏ chạy
Uất hận cháy con tim và linh hồn ngập máu
Thôi đành “Làm Quỷ Nước Nam” kể từ ngày tháng đó...
Mi Quỷ nhà trời, tao Quỷ nước Nam, mình cùng đều là quỷ
Thôi uống đi cha đừng giở trò lý sự...”

Diêm vương nghe nói liền bùi ngùi sa lệ,
Hắn vỗ vai con “Này thằng quỷ nước Nam,
Năm 75 địa ngục tao bỗng rộn ràng,
Dân lính miền Nam tự dưng ào đổ xuống
Chết trong ngục tù, chết trên biển cả đại dương...
Chết vùng kinh tế mới, chết vì thiếu ăn, chết bờ chết bụi
Những người thảm tử chết oan mắt không thể nhắm
Chuyện tang thương tao đâu biết, bây giờ mi mới nói,
Cho tao xin lỗi đã làm mi nổi nóng
Thôi bây giờ mi có muốn chi không?”

“Lỗi phải mẹ gì vểnh tai nghe tao nói
Tao muốn mi lên trở lại trần thế
Diệt hết loài Cộng Phỉ cho tao
Thằng Hồ thằng Duẫn chết trốn nơi nao?
Và luôn cả thằng cẩu Kỳ khốn nạn
Chỉ cho tao, tao đái vào mặt chúng”

Diêm Vương đưa con cuốn sổ miệng cười cười:
“Chuyện nhỏ cưng ơi, đây này mày sẽ thấy
Cộng Phỉ sắp tàn rồi sổ sách có ghi đây
Còn bọn thằng Hồ tụi Cộng Sản ác ôn
Tao nhốt hết dưới hầm phân mày ỉa đái
Thôi uống đi cha để rồi cho tao hỏi
Tại sao trần thế có cơm mà còn hay mê phở?”

Con làm ngụm rượu rồi khà ra một phát:
“Mẹ, quỷ nhà trời sao hiểu được bọn tao?
Cơm ăn hoài phải đổi món chớ sao
Không những Phở ngon nhưng còn nhiều thứ khác...”

Diêm vương ngắt lời và chắp tay mà lạy:
“Con lạy ông, xin ông đừng nói nữa
Làm con thèm chắc bỏ địa ngục theo ông
Ông quả đúng là một thằng quỷ sống...”

Quỷ sống (mầm non thi sĩ) Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Xuân 2012

Gần chục năm sau, nhớ lại bài thơ, thấy… hay hay, viết lại chia sẽ cho anh chị em coi. Một điều quan trọng, tâm hồn tôi ngày xưa thế nào thì bây giờ cũng y như vậy, chẳng thay đổi chút nào. Ai biết đời đổi thay, sẽ không bao giờ thay đổi.

Kết luận
Đời người, Sinh Lão Bệnh Tử là lẽ thường, mỗi ngày có hàng trăm ngàn người chết trên thế giới, chết thêm một thằng dở hơi như tôi cũng chẳng có gì quan trọng. Tôi viết lại những giòng này vì bây giờ có nhiều thì giờ để nhìn lại cuộc đời mình. Và nhìn đến đâu thì tôi thấy mình mang nợ tới đó. Nợ công ơn sinh thành dưỡng dục của song thân, nợ công cha chữ thầy, nợ sông nợ núi, nợ những người lính QLVNCH đã chết cho tôi được sống, nợ bạn bè bằng hữu, nợ tha nhân, vân vân. Nợ tiền bạc có thể trả được, nhưng nợ ân tình thì khó mà trả lắm, chỉ có chết mới đem theo được mà thôi…
Đã trải qua một lần ở ngưởng cửa tử sinh và nhìn thấy được cái phù du mong manh của kiếp người, tôi mới thấy biết ơn vợ con, anh em ruột thịt trong nhà. Những chuyện này bình thường tôi không nhìn thấy, nhưng khi hữu sự, mới thấy đó là những món quà vô giá mà trời ban cho tôi. Những giọt nước mắt thổn thức và đau đớn của người vợ hiền, những cái nhìn lo sợ của con cái, những chia sẻ ngọt ngào của anh em ruột thịt trong nhà, đã làm cho lòng tôi rúng động. Rồi còn bạn bè xa gần nữa. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình đã làm gì xứng đáng đê được quý thương như thế…
Thôi thì xin quỳ xuống đất mà lạy tạ tất cả.
Nhắc tới bạn bè, từ bạn học La San ngày xưa còn bé cho đến bạn bè anh em trong phi đoàn ngày xưa, bạn lính, bạn trong những hội ái hữu, bạn trong phong trào tranh đấu, bạn văn, bạn ăn nhậu bây giờ, bỗng cảm thấy nhớ và thương quá họ quá. Tôi chí tình với người ta như thế nào thì tôi chưa biết rõ, nhưng tôi thấy anh em bạn bè chí tình với tôi quá. Từ ngày tôi ngã bệnh, đã không biết có bao nhiêu email, bao nhiêu lời nhắn gởi nồng nàn thân thiết đến với tôi. Tôi đọc và cảm động lắm, nhưng chưa có dịp trả lời.
Nhân bài này, tôi xin gởi đi khắp nơi để cám ơn tất cả các bạn bè thân mến xa gần của tôi. Những tấm thịnh tình này, tôi nguyện khắc cốt ghi tên. Tôi hiện còn mệt lắm, xin đừng gọi điện thoại, nhưng tôi có thể đọc mail, dù chưa thể trả lời được…

Văn Bút Nam Hoa Kỳ ở Houston sắp long trọng tổ chức họp mặt bầu ban chấp hành mới ngày 13 tháng 3 này, nghe vui quá nhưng tôi đang làm Xạ Trị, không đi được, đành xin kiếu. Xin uống dùm tôi vài hớp rượu cho tôi đỡ thèm, chửi thề dùm tôi vài tiếng cho tôi đỡ nhớ, và cuối cùng, hãy cười lên khằng khặc để nhớ đến nhau. Chúc anh chị em vui vẻ và hẹn lần sau.

3/12/2021
Today is a good day to be alive…
Trường Sơn Lê Xuân Nhị
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	96371.l19.jpg
Views:	0
Size:	66.1 KB
ID:	1759886  
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
huudangdo1 (03-20-2021), Lien53 (08-11-2021)
Old 04-24-2021   #334
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,408
Thanks: 21,690
Thanked 38,200 Times in 12,887 Posts
Mentioned: 636 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7247 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Rừng



Trí nhớ của tôi thường bội bạc. Hoặc thiên vị. Trong cuộc sống, có biết bao nhiêu sự kiện đã ghi sâu vào ký ức của tôi. Và cũng vô số sự kiện khác trôi qua đời tôi như nước trôi đầu vịt, không để lại dấu vết gì. Lại có những chi tiết tôi cho là đáng nhớ, chẳng hạn, khi đã khôn lớn, lần đầu tiên cầm vô – lăng lái chiếc xe hơi, nhưng tôi không thể nào nhớ được đấy là xe hiệu gì, đi đâu, lúc nào, đi với ai, với mục đích gì. Trong khi đó, ký ức về người đàn bà thành phố lỡ bước vào một nơi rừng rú lại thường trở lại với tôi rất rõ nét.

Chiều nay, một chiều cuối năm, ngồi một mình bên tách trà quên uống đã nguội lạnh, tôi lẩn thẩn ôn lại những ngày qua, và hình ảnh người đàn bà ấy lại nổi bật kéo theo nhiều chuỗi hồi ức khác tưởng đâu đã hoàn toàn bị quên lãng.

Chuyện xẩy ra cách đây hơn nửa thế kỷ.

Tôi thích núi rừng. Có lẽ từ thuở nhỏ, nhỏ lắm, thời thơ ấu, tôi sống tại một thành phố rất trẻ, rất hoang sơ, rất rừng rú. Núi rừng in đậm vào tâm hồn tôi khi còn là một trang giấy trắng. Cây cối, thác ghềnh. Con thỏ rừng, con chồn, con sóc, con hươu, con nai, con heo rừng, con gà rừng, con khỉ … sống lẫn lộn với người – người Việt Nam như tôi, và khá nhiều người thuộc dân tộc thiểu số mà trước kia gọi là người Thượng. Và nhiều thứ khác nữa chứ. Tiếng suối reo, tiếng chim kêu vượn hú, tiếng cọp gầm. Và những trận mưa rừng xoá nhoà trời đất.

Đặc biệt là sương mù. Những buổi sáng sương mù lấp kín nhà sàn nằm cheo leo trên những vách núi, sườn đồi, những thung lũng, những mặt hồ, những hố sâu. Có khi sương mù phủ gần hết những trái đồi thấp, chỉ chừa lại đỉnh. Tưởng như sương mù là biển cả mênh mông, đỉnh đồi là những hòn cù lao bé nhỏ, lẻ loi.

Lớn lên, cuộc sống kéo tôi ra khỏi núi rừng, ở toàn những nơi phồn hoa đô hội. Nhà cửa chật chội, chi chít; xe cộ rộn ràng, náo động; dân cư ồn ào, chen chúc. Và bụi bặm. Và mải mê tranh sống. Nhiều lúc tôi tưởng tôi đã đánh mất tôi. Nhiều khi quên quá khứ. Tôi thử dò xét lòng mình – nếu cuộc sống cho phép, nghĩa là có công ăn việc làm như nhau, thì thích sống ở đâu hơn. Rừng núi hay đô thị? Cũng có chút phân vân, tôi chọn núi rừng.

Khi có lệnh động viên, vào trường Võ Bị Thủ Đức, tôi vẫn thích được đi huấn luyện quân sự tại những bãi xa, càng xa càng tốt, hơn là quanh quẩn trong hội trường, trong phòng học, học những môn như chiến tranh tâm lý, chiến tranh chính trị, tháo gỡ và lắp ráp các loại vũ khí, quân xa, binh thư, vân vân. Đi tới đồi 18 trong vùng quận Thủ Đức, đi Gò Dưa, đi Tân Vạn, hay có lần được đi di hành xa, cuốc bộ, nón sắt trên đầu, súng trên vai, ba lô nặng trên lưng, đến tận vùng Dĩ An, Biên Hòa. Mệt nhoài mà thích. Không có rừng núi, nhưng thay vào đó, cũng được gặp những ngọn đồi thấp, những con đường lên lên, xuống xuống, những truông, những trảng, và cây cối tràn lan.

Một hôm, Tết sắp tới, trên bãi tập bắn súng đại liên, tôi lân la gợi chuyện với một sỉ quan huấn luyện:
“Thưa Thiếu úy, ngày mai là Ba Mươi Tết rồi. Được nghỉ không, thưa Thiếu úy?”
“Không.”

“Mai học ở hội trường hay đi bãi?”
“Đi bãi.”

“Đi bãi nào? Có xa không, thưa Thiếu uý?

Anh ta nhìn tôi, hơi gắt:
“Anh hỏi để làm gì?”

Tôi đang lúng túng tìm câu trả lời thì vị si quan đó, trẻ tuổi hơn tôi nhiều, lập nghiêm:
“Nhà binh kỷ luật sắt. Có nhiều thứ cần phải bảo mật. Không được hỏi vớ vẩn.”

Nói xong, anh ta cau mày đứng dậy, quay người đi nhanh.

15 năm sau...

Tôi đi tù cải tạo. Trong B (trung đội) của tôi, tôi chơi thân với Chí, một phần do chúng tôi đều có vài kỷ niệm giống nhau, từng sống tại hai thành phố lân cận vùng cao nguyên thời thơ ấu – tôi Pleiku, Chí Ban Mê Thuột. Chí là Đại úy Bộ Binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, từng phục vụ trong cả bốn Vùng Chiến Thuật. Những ngày cuối cùng trước khi “tan hàng”, Chí đóng tại Dakto, Kontum. Đã có gia đình, vợ và ba con, có đứa sắp vào đại học. Qua những lần đi lao động bên cạnh nhau, chuyện trò thì thầm, tôi được biết như thế. Chí vui tính, hiếu động, táo tợn, “rắn mặt.”

Chúng tôi không biết B của chúng tôi thuộc đại đội nào, tiểu đoàn nào, trung đoàn nào. Chỉ biết xa thành phố, nằm sâu trong vùng núi rừng hoang vắng, mùa Hè nóng như thiêu đốt, mùa Đông lạnh thấu xương.

Một hôm, vào giờ nghỉ giải lao, Chí lân la đến cán bộ quản giáo cười cười làm thân, rồi tò mò hỏi:
“Thưa cán bộ, mai đi lao động khu nào nhỉ?”
“Anh nói tiếp đi!”

“Và có đi sớm như sáng nay không?”
“Cái gì? Cứ nói tiếp!”

“Thưa, đi đốn cây hay đi cắt tranh?”

Viên quản giáo quay đầu nhìn chằm chặp, và lặp lại câu nói cũ:
“Nói tiếp!”

Chí lại cười cười:
“Thưa, tôi chỉ muốn biết chừng đó thôi.”

Viên cán bộ quản giáo quắc mắt, nói qua kẽ răng:
“Này, này, ý đồ gì vậy?”

Chí chột dạ, gượng cười:
“Thưa … thưa … tôi không có ý đồ gì cả. Chẳng qua, chẳng qua…”

Nói chưa hết câu, Chí nghiêng mình chào rồi vội đi nhanh về phía chúng tôi.

Sau khi đi lao động về, trước giờ ăn tối, có người đến đưa Chí lên Khung trình diện, mang theo hành lý. Chúng tôi ngơ ngác. Khung là trụ sở của Trung Đoàn thì phải. Hành lý rất nhẹ, chỉ một cái bị nhỏ đựng một bộ áo quần tươm tất mang theo từ hồi trình diện học tập cải tạo, khi có thăm nuôi, thắng bộ đồ đó lên cho đẹp mặt. Mặt ai? Có lẽ mặt tù cũng như mặt cai tù. Và một áo cụt ba lỗ, một quần xà lỏn tự khâu lấy bằng vải bao cát. Có cả một cái chén gò từ miếng tôn cháy sém, một đôi đũa tre tự chuốt lấy to và dài. Khi trình diện đi tù cải tạo, chúng tôi không có đủ thông tin, nên không mang theo chén, dĩa, nồi, niêu.

Chúng tôi biết mang theo hành lý có nghĩa không trở lại với chúng tôi.

Trại tù có một hội trường khá rộng, mái tranh, nền đất, không có phên, vách. Không có ghế cho tù ngồi. Chỉ có một cái bàn nhỏ, một cái ghế đẩu dành cho cán bộ khi lên lớp. Vào mùa mưa, gió tạt mưa vào, ướt át. Chúng tôi tụm năm tụm ba chạy quanh tìm chỗ khô ráo.

Ngày nào chúng tôi cũng đi lao động trừ Chủ Nhật. Những hôm học các môn lý thuyết, chính trị cũng khỏi đi lao động ngoài rừng. Thì tới hội trường. Lao động cực nhọc, nhưng chúng tôi thích hơn đến hội trường nghe “nhồi sọ, tẩy não”.

Có những khu rừng quen vì đã đến nhiều lần. Nhưng thường đến bằng những lối đi khác nhau. Có nơi đi thật lâu mới tới. Vì xa? Không hẳn. Một lần đi lâu đến một khu rừng lạ. Chí, hồi đó đang còn ở tù chung với chúng tôi, trèo lên một cây cao định hái bụi hoa phong lan theo như lời hắn khai, bị lính bảo vệ bắt gặp, nổ súng chỉ thiên. Hắn hoảng hốt tụt xuống, rồi bị biệt giam nửa tháng vì phạm nội quy. Có lẽ vì đã phạm cái tội đó cho nên về sau Chí “lèng èng” hỏi chuyện đi khu này khu nọ nên bị dồn hai tội làm một, bị chuyển đi trại khác.

Trở lại thời kỳ hắn chưa bị chuyển trại. Hết bị biệt giam, hắn đổi tính, gắt gỏng. Ít chuyện trò với mọi người. Không còn những lối đùa giỡn náo nhiệt, vui nhộn. Tệ hại hơn nữa, hắn nhìn mọi người bằng con mắt ngờ vực. Trừ tôi ra. Tôi tự hỏi, hắn nghi ngờ chuyện gì? Hay là Khung đã tung hoả mù, gieo những mầm nghi kỵ trong đám tù vốn không quen biết nhau từ nhiều nơi dồn về? Đã thế, đám tù này cũng không được sống chung với nhau lâu ngày. Chúng tôi chưa kịp tìm hiểu nhau thì “Cách mạng” lại “xóc bài”. Chúng tôi lại bị phân rẽ ra mỗi người đi một ngả.

Một hôm, khi chỉ còn hắn và tôi đứng cạnh nhau, hắn thì thầm:
“Tụi nó có nhiều trò quỷ quái lắm. Dẫn tụi mình bị đi quanh quẩn đến hụt hơi mới tới nơi. Nhưng thật ra, rất gần. Trèo lên cây cao thấy ngay. Tao lấy cớ trèo cây hái phong lan, thực ra để quan sát quanh vùng.”
“Quan sát làm gì vậy?” Tôi hỏi.

Chí nhớn nhác nhìn quanh, hạ giọng:
“Để trốn trại. Cậu và tui nhé. Có hai đứa, giúp nhau, mới có hy vọng thoát.”

Nó bị chuyển trại chăng? Đó là do chúng tôi bàn tán, suy luận. “Cách Mạng” không bao giờ cho chúng tôi một thông tin nào về nó, hoặc về bất cứ vấn đề nào khác trừ những gì liên quan tới “Học tập tốt, lao động tốt”. Chúng tôi cũng không được hỏi han gì cả. Câm. Điếc.

Hay là nó bị thủ tiêu rồi, tôi buồn rầu ngẫm nghĩ.

Có lần đi thật lâu, chắc là xa thiệt, tới một khu rừng cây cối cao ngất. Tôi thấy náo nức. Ô, núi cao, rừng sâu! Chúng tôi lần đầu tiên thấy sóc bay. Ngửa mặt nhìn lên ngọn cây, thỉnh thoảng thấy vài ba con sóc màu nâu nương theo gió bay là là từ cành cao của cây này đến cành thấp hơn của cây khác. Không thấy nó bay ngược lại, từ thấp lên cao. Có lẽ không bay được. Thấy chúng tôi, vài ba con sóc tò mò đáp xuống đất. Một bạn tù rình bắt được một con.

“Mày giỏi quá. Nhanh như sóc mà cũng bị tóm.”
“Nhằm nhò gì. Cá, chim, tao cũng bắt như chơi.”

Thật thế, anh chàng này, vào mùa mưa, có dịp đi qua những hố bom B-52 đầy nước, hình tròn, đường kính khoảng vài mươi mét, mà được quản giáo cho tù xuống tắm, hắn bắt cá. Những người khác ham bơi, lội, vùng vẫy, kỳ cọ, hắn mò mẫm bơi quanh ven bờ hố, lấy tay khoét vài cái lỗ sâu độ một gang tay. Anh em quậy nước bùn lên làm cá cay mắt và sợ, trốn vào mấy cái lỗ đó. Mươi phút sau, hắn trở lại mò tay vào những cái hang đó bắt được cá. Bắt chim én càng khỏe hơn. Chỉ cắm vài con ruồi vào một khúc tre nhỏ xíu như que tăm, ngay cạnh đó đặt một cái thòng lọng. Ngày xuân con én đưa thoi, thấy ruồi tiện thể bay qua đớp, vướng vào dây thòng lọng. Phải chi cứ lo việc đưa thoi.
Thế là bữa ăn chiều của nó thấy mà thèm.
“Hôm nay cậu lại có món sóc rô ti,” Một người hỏi.

“Không, con sóc này lông dày êm quá. Rờ sướng tay. Cậu có coi cuốn phim gì gì đó có cái thằng khờ thích rờ chuột? Tui là thằng khờ đó, đem về nuôi chớ không ăn. Sóc dễ làm thân lắm. Mới đó nó đã biết giỡn với tui, thấy chưa. Đấy, đấy, coi cặp mắt ngây thơ long lanh kia kìa. Coi hai bàn tay nó chắp lại kia kìa.”

Hắn lấy dây lạt cột con sóc vào một gốc cây để rảnh tay đi lao động. Đến giờ nghỉ trưa ăn xong cơm nguội hoặc củ khoai mì mang theo, hắn quay lại thăm con sóc. Một bầy kiến lửa bu vào đầy mắt, đầy miệng con sóc. Chết cứng queo.

Tại một khu rừng khác, cũng đi khá lâu mới tới, chắc cũng xa thiệt, chúng tôi chặt mây. Lần đầu tiên tôi thấy dây mây. Nó là một loại dây rừng có những lóng dài, có mắt mọc ra thành vài ba nhánh nhỏ. Vỏ bọc bên ngoài dây mây đầy gai nhọn. Mây bò chằng chịt quanh những cành, những cây cao. Chặt mây, rút mây ra khỏi cây to thế nào cũng bị gai đâm rách áo, sướt tay, lủng chân.

Cũng trong cánh rừng này, sắp tập họp trước khi trở về trại, tôi chợt thấy một cây lạ, khá cao, cành lá xanh tươi, một mình đứng lẫn trong nhiều cây cổ thụ khác. Thân cây có một lớp vỏ màu bạc bao kín. Tôi chăm chú nhìn, rồi lấy dao chặt nhẹ mấy nhát vào gốc cây. Thích cái cây đó chặt chơi “làm kỷ niệm”, chứ không định phá hoại “có hệ thống”, cũng không “có ý đồ” gì ráo. Vỏ tróc, gỗ bên trong màu vàng tươi thoang thoảng một mùi dễ chịu. Bụng đói, đói liên miên, đói kinh niên, thấy cái gì có vẻ ăn được là ăn ngay. Ăn bất cứ con gì còn nhúc nhích, trừ con ruồi và con muỗi. Nhưng gỗ đâu biết nhúc nhích, cũng nếm thử vài mảnh nhỏ văng ra xem sao. Thấy thơm và ngọt, tôi gọi mấy người trong toán tới. Tất cả đều thích thú cho là đã tìm ra một loại cây quý. Biết đâu quý hiếm hơn cây quế trong rừng. Thì một bạn thấy thế chạy vội đến la to đừng ăn, đừng ăn, coi chừng ngộ độc chết tươi cả ngay bây giờ. Chúng tôi chợt tỉnh. Đứa thì cố khạc nhổ, đứa thì đứng lặng người lắng nghe bụng dạ mình chuyển động ra sao.

Đến bây giờ tôi cũng không rõ đó là cây gì. Chỉ nhớ là sau đấy, trên đường về lán, chúng tôi, những người đã nhai những mảnh gỗ vụn đó, đều cảm thấy uể oải, mệt nhọc, hoa mắt, chân bước lâng lâng, lảo đảo. Nếu không có anh em cho vịn vào vai để cùng đi, nếu không có chú lính bảo vệ súng cầm tay, mặt non choẹt cố làm ra vẻ “hình sự”, trông thấy thương hơn là ghét, chúng tôi đã nằm lăn quay xuống đường mòn. Nhiều hôm sau đó chúng tôi cũng chưa bình phục hẳn.

Hình ảnh chú lính bảo vệ trở lại với tôi. Cố làm ra vẻ hắc ám, sắt máu nhưng không che giấu nổi những nét ngây thơ, chất phát, ngờ nghệch. Đúng là một kịch sỹ bất đắc dĩ. Anh ta nghĩ gì trong đầu? Là một cá nhân bé nhỏ bị nhồi nặn trong một chế độ độc tài toàn trị, với bộ máy tuyên truyền khổng lồ, liệu anh ta, và ngay cả những quản giáo hay những người chuyên đứng lớp thao thao bất tuyệt về chủ nghĩa này, lý thuyết nọ, có thể nào suy nghĩ độc lập? Có thể anh ta nghĩ rằng chúng tôi là những tên Ngụy rất nguy hiểm, những tên Việt gian bán nước, ôm chân đế quốc, thích ăn tim gan người, uống máu đồng bào, “xơi tái” bào thai của “chiến sỹ gái”? Cho nên, nếu có “sự cố” bất tường nào dù nhỏ nhặt xẩy ra, phải dùng bạo lực cách mạng thẳng tay trấn áp?

Chúng tôi đi tù tại Miền Nam, loại tù không có nhiều “nợ máu với nhân dân”, chắc chắn không nếm mùi đau khổ bằng những người tù bị đưa ra ngoài Bắc. Nhưng đã ở tù thì kể chi đến gian khổ, tôi thầm nghĩ. Than van, trách móc chỉ khiến cho cái đau đau thêm. Hãy quên hết, quên đói, quên thiếu thốn, quên nhọc nhằn. Quên buồn, quên nhớ. Ý chí nói với tôi như thế. Nhưng tôi có chịu làm theo hay không? Dường như có, dường như không. Dường như mà thôi, chẳng có gì rõ ràng.

Liệu tôi có thể quên nếp sống cũ? Liệu tôi có thể nào đừng nghĩ đến xã hội ngoài kia mà tôi không hề có được một tin tức chính xác nào. Quản giáo thì nói láo, vợ con đến thăm thì không dám tiết lộ sự thật vì có cán bộ đứng cạnh nghe ngóng. Báo chí không có đã đành, đài vô tuyến cũng không được nghe ngoại trừ thỉnh thoảng “được” bắt buộc nghe đài phe ta.

Đừng nghĩ “khi về” thì sẽ làm sao có thể chạm trán với xã hội ngoài kia. Mà khi nào là khi về, “Khi về hỏi liễu Chương Đài”. Đừng nghĩ đến vợ con đang chìm nổi trong cơn “đại hồng thuỷ”. Đừng nghĩ rằng, trước những thay đổi khủng khiếp, liệu người vợ chỉ trông cậy vào đồng lương ít ỏi và cố định của chồng, suốt ngày lo săn sóc việc nhà và nuôi con, nay có biết và có kịp thay hình đổi dạng, để xông pha vào cuộc đời mới đầy đe doạ. Liệu có chịu tập tành buôn thúng bán mẹt; bon chen, giành giật; gồng thuê gánh mướn. Hay là khi vô phương kiếm sống, lại xoay qua làm nghề không vốn. Vâng, biết đâu, biết đâu. Và đứa con độc nhất sắp đến tuổi đi học? Liệu nó có được cắp sách đến trường hay là ngày ngày chạy ra ngoài chợ Cầu Ông Lãnh đá cá lăn dưa, hay là lêu lổng đầu đường xó chợ, hay là đi bụi đời. Mà nếu may mắn được đi đến trường thì cái đầu non nớt đó sẽ học những gì? Chắc chắn sẽ có những bài học mới lạ, kỳ quái, và sẽ không thiếu những môn huấn luyện cách “lăng mạ, luận tội, lên án” Ngụy quân, Ngụy quyền trong đó có cha của nó, chú của nó, họ hàng của nó, láng giềng của nó, đồng bào của nó. Khi cha nó về, nó sẽ nhìn cha bằng “nửa con mắt”?

Như đã nói trên, tôi tự nhủ đừng nghĩ ngợi lôi thôi. Càng nghĩ ngợi, càng bế tắc. Và tôi đã thành công. Là vì những ý nghĩ tối tăm vừa nêu trên, lúc đó, đã nằm sâu dưới cát, lớp cát dày phủ kín đầu con đà điểu ngoài sa mạc. Vâng, người ta nói, khi gặp nguy hiểm, con đà điểu chui đầu xuống cát để khỏi phải thấy gì. Sự thật có phải là thế không? Nhờ đấy, con đà điểu “khôn ngoan” đã ù lì sống, đã không bị hội chứng tâm lý, chấn động tinh thần. Bây giờ, nước đã chảy nhiều dưới cầu, lớp cát dày bị gió sa mạc thổi bạt, hai con mắt con đà điểu mở to quay nhìn quá khứ. Giật mình.

Tình yêu có từ bé đối với rừng núi không ngờ lại là điều hay cho tôi. Nhờ tình cảm đó, những chuyến “đi rừng” lao động dù cực khổ và bị kềm kẹp vẫn mang lại cho tôi vài ba kỷ niệm khó quên như tôi vừa kể. Nhưng tôi còn muốn kể thêm câu chuyện dưới đây nữa. Nó khiến tôi mỗi lần nhớ đến là mỗi lần bàng hoàng thảng thốt như bị dội lên đầu một thau nước lạnh.

Tôi luôn luôn mong được đi rừng xa. Đúng như mong ước của tôi, một hôm gần Tết ta, sau khi tập họp, quản giáo cho hay sẽ đi xa, xa nhất từ trước đến giờ. Sẽ được ghé một nơi đặc biệt. Một người tù bẩm bẩm, Khoan hồng, cách mạng lại khoan hồng.

Tôi nhẩm tính, thế là sắp ăn bốn cái Tết tù. Người xưa dùng chữ đúng quá, “Ăn Tết”. Vừa đi vừa suy đoán năm nay ăn Tết ra sao. Chắc sẽ được nghỉ lao động một ngày, mong nó không rơi vào ngày Chủ Nhật. Và “trên cả tuyệt vời”, có lẽ chúng tôi sẽ có thịt heo, mỗi năm tù được ăn một lần vào dịp Tết. Mỗi người cũng sẽ được chia một miếng thịt khiêm tốn to bằng một lóng ngón tay, gặp miếng có mỡ coi như trúng số. Chắc năm nay cũng thế, B chúng tôi cũng sẽ bàn bạc sôi nổi, cuối cùng “đạt được sự nhất trí cao”: gom thịt và cơm lại, cho vào nồi lớn, thêm chút muối và mấy gàu nước giếng, bắc lên lò nấu cho thật nhừ. Thế là, một nồi cháo thịt nóng hổi thua gì Cháo Chợ Cũ mà chúng tôi thường nhắc đến khi họp nhau tán gẫu sau bữa ăn tối mà cứ ngỡ chưa ăn.

Chắc cũng sẽ đấu cờ tướng từ sáng đến chiều, cho điên cả cái đầu. Nhà vô địch sẽ không được hưởng “vinh quang”, nghĩa là “bị nghỉ lao động” một ngày. Tên nào thích thể thao, dù thân thể còn da bọc xương, chắc sẽ được đá banh. Chân không giày, chia làm hai phe, phe ở trần, phe mặc áo. Nhưng Tết năm nay tôi sẽ không ghi danh đá banh trên cái sân khủng khiếp đó. Nào đá dăm tai mèo nhọn hoắt, nào đá cuội lục cục nằm rải rác đạp lên đau méo mặt, nào lỗ chân trâu gồ ghề, lởm chởm, nào những bụi hoa trinh nữ, tôi thích chữ bông mắc cở hơn, đầy gai nhọn mọc phục kích khắp sân.

Sau trận đấu tên nào cũng bong móng chân cái. Nhiều tháng sau móng mới mới chịu lần mò nhú ra thật chậm, trông đến sốt ruột. Đó là chưa kể cái bụng không cứng kéo theo cặp giò rất mềm, đá vào trái banh da mà tưởng như đá vào tảng đá.

Vợ con phải nhịn thèm để dành quà Tết vào dịp thăm nuôi đầu Xuân. Có những gì nào? Mong được một thỏi đường đen, thèm ngọt quá; một chai nước mắm thiệt, vì ngày ngày chỉ được ăn loại nước mắm làm bằng nước muối thắng chút nước màu cho vui mắt; và nhất là cái bánh tét nhân chuối, hay nhân đậu xanh, hay biết đâu nhân thịt. Thèm thịt quá.

Đầu óc lan man, chân bước đều đều như máy. Trên nhiều đoạn đường, tôi đi mù lòa theo sức lôi kéo vô hình của đoàn tù, không để ý đến cái lưng của người đi trước, hay cái vai của người đi bên cạnh. Chỉ cắm đầu loáng thoáng thấy những bàn chân sù sì, gót nứt nẻ, mang dép râu, xủi đất, cát, bụi bay vật vờ. Bỗng nhiều tiếng reo, Ồ con suối, chảy mạnh quá. Tôi bỡ ngỡ nhìn quanh.

Con suối nhỏ rộng khoảng 10 mét chảy ngang qua một vùng đất khá bằng phẳng. Bắc ngang qua con suối là một thân cây còn tươi đường kính hơn một gang tay, còn cả vỏ nguyên vẹn, chứng tỏ rằng “cây cầu” này ít người qua lại. Bên một bờ suối còn một gốc cây lẫn trong đám cỏ cao có nhiều vết mới chặt. Có lẽ mấy ngày trước đây một người nào đó đốn cây này, chặt hết cành, rồi đẩy thân cây cho nằm ngang qua dòng suối. Thế là có cây cầu. Cành, lá, có lẽ đã được mang về nhà làm chất đốt.

Nhiều người tù khi qua cầu thấy nước chảy nhanh, chóng mặt, sợ ngã xuống suối đành phải ngồi bệt xuống, hai chân choàng qua hai bên thân cây, cái kiểu ngồi trên lưng ngựa, hai tay chống xuống thân cây nâng người lên, nhích nhích tiến tới từng chút một. Trông giống trẻ con đùa giỡn. Quản giáo, lính bảo vệ đi qua cầu một cách dễ dàng như đi trên mặt đất phẳng. Có khi họ còn trổ tài chạy phon phon. Tôi nghiệm ra rằng đại đa số chúng tôi không phải là lính chuyên nghiệp, vốn là công chức, tư chức, bị động viên nhập ngũ chưa được bao lâu thì rã đàn tan nghé. Nay bị ném vào núi rừng. Vụng về, lọng cọng.

Xa xa, phía ngược dòng suối là rừng tre ngút ngàn. Từ mô đất cao nhìn xuống, tre xanh ngát, hết lớp này đến lớp khác, đu đưa trong gió trông như những tấm gấm vóc khổng lồ lượn sóng. Xuôi theo dòng suối, rừng cây trùng điệp, cây không tên, hay đúng ra chúng tôi không biết tên, cũng xanh tươi, rậm rạp. Rừng nhiệt đới muà xuân là thế đó. Hai bên lối mòn ngoằn ngoèo, hoa dại nhiều màu đã nở rộ. Cỏ dại trên mặt đất cũng trổ hoa, thường là hoa màu vàng nhỏ như ngọn rau má. Cũng có bướm bay chờn vờn quấn quýt nhau, đuổi nhau; chuồn chuồn thì bay đứng một chỗ trên không trung quan sát chúng tôi. Rừng nhiệt đới phải có nhiều loại côn trùng chứ, tôi ngẫm nghĩ. Chúng đâu cả? Chỉ thấy bươm bướm và chuồn chuồn. Chắc hẳn côn trùng đang nằm ẩn trong bụi cây, đám cỏ, lòng đất, chờ đêm xuống bò đi kiếm ăn và thi nhau hoà tấu những khúc nhạc thiên thu. Chim cũng hiếm, trừ chim én. Khó thấy chúng nó, chốc chốc nghe lảnh lót tiếng hót. Hay đó không phải là tiếng chim, mà là “tiếng gọi” của núi rừng. Trên trời cao, mấy cụm mây trắng trôi bồng bềnh. Ở thành phố ít thấy mây bay.

Khoảnh rừng thưa này khá rộng, chim én bay lượn nhiều. Một câu thơ trong Kiều, Ngày xuân con én đưa thoi, đã được nhắc bên trên, lại nhắc lại, vì tôi thấy nó đẹp, êm, và ấm quá. Tại sao câu thơ ấy đẹp, êm? Khó nói. Nhưng ấm thì dễ tán láo. Đưa thoi khiến tưởng tượng đến khung cửi với hai bàn tay nhỏ của cô dệt vải, và từ vải may áo thay cho cái gọi là áo làm bằng bao cát sù sì, chùm đụp, xiêng xẹo, hở hang, mới mặc ngứa ngáy chịu hết nổi, lâu ngày quen. Nhưng vẫn nhớ cái áo bằng vải thiệt như trẻ con mới bỏ bú nhớ bầu sữa.

Tưởng là đã đến nơi, nhưng không. Chúng tôi chỉ dừng lại chờ những người ngồi lết lết qua cái cầu độc mộc. Sau khi mọi người qua khỏi cầu, đoàn tù tiếp tục đi.

Đầu óc tôi lại lang thang. Và nhớ. Lang thang nhớ về quá khứ. Đừng nhé, hãy khoan, hãy đừng nghĩ đến tương lai. Hãy là con đà điểu ngoài sa mạc. Nhớ chuyện cũ thôi. Nhớ là liều thuốc xoa dịu, mơn man, làm nhẹ phiền muộn. Là tiếng nói thủ thỉ, hay đay nghiến; nụ cười hân hoan, hay hờn dỗi; ánh mắt reo vui, hay trách móc. Là bàn tay quen quen, mai tóc cỏ rối, nụ hôn bâng khuâng, làn da ấm áp. Là tiếng khóc trẻ thơ trong veo, tiếng tập nói bi bô vừa chớt vừa ngọng, chiếc giày nhỏ xíu nằm lăn lóc trên gác nhỏ một hôm tìm thấy. Là tiếng ho hen quát tháo bầy chó vồ sủa của ông già hàng xóm mỗi khi có khách đến nhà, tiếng rao hàng quà rất đúng giờ mỗi buổi sáng, tiếng xe xích lô máy bỗng nổ ròn rã khuấy động rồi xa dần, nhỏ dần, mất hút. Là con phố có hàng cây sao, có lề đường rộng, khua vang tiếng guốc chen lẫn với tiếng cười khúc khích mỗi buổi chiều khi học trò con gái “Em tan trường về.” Là quán cà phê khói thơm ngào ngạt cùng thân hình yểu điệu và mái tóc đen dài che nửa khuôn mặt rất đẹp của cô chủ, làm nổi bật đôi mắt mơ màng lơ đãng không bao giờ nhìn thẳng vào một ai. Phải chăng không nhìn vào người nào chứng tỏ chưa có nơi có chốn, thì những chàng trai mới lớn tha hồ nuôi hy vọng, ngày ngày đến trồng cây si.

Nhưng không có cái nhớ nào dai dẳng, tha thiết, và lặp đi lặp lại bằng nhớ tô phở, tô bún bò, tô hủ tíu. Ngây ngất cả thần hồn vì mùi thơm bốc lên, ấm cả lòng dạ khi bàn tay nâng niu bên ngoài cái tô no tròn nóng, như trẻ thơ nâng bầu vú mẹ. Dù thèm đến mấy, cũng sẽ không dám ăn liền. Như tên mọt sách, cầm cuốn sách mới đã chờ đợi lâu nay, không dám giở ra đọc liền. Âu yếm nhìn tên tác giả, hân hoan như thấy tác giả gật đầu mỉm cười đáp lại, nhìn tranh bìa trước, ngắm chữ bìa sau, ướm thử xem nó nặng bao nhiêu, rồi bàn tay trái cầm gáy cuốn sách, ngón cái tay phải khẩy nhẹ vào cạnh những trang giấy để nghe mùi giấy mới, mực mới, chữ nghĩa mới lan toả những đợt sóng từ trường.

Vâng, tôi sẽ không ăn ngay. Trước khi ăn, như đã nói, tôi hãy thưởng thức bằng khướu giác, xúc giác, rồi mới lim dim mắt ngắm nó như ngắm bức tranh ấn tượng. Màu đỏ cay của ớt, màu xanh mát của hành lá, màu đen ròn của tiêu, màu trắng mịn của bánh phở, con bún, sợi hủ tíu.

Thế còn màu sắc của thịt tái, chín, nạm, gầu, gân, vè, sách, giò heo, chả lụa, thịt băm, tóp mỡ, nước lèo? Màu sắc của những thứ đó vượt ra khỏi lãnh vực của ấn tượng. Tượng trưng chăng? Siêu thực chăng? Thật khó mà diễn tả bằng lời.

Cuối cùng đoàn tù dừng lại hẳn. Chúng tôi đến khu rừng này lần đầu. Đúng ra đây không phải là khu rừng, mà là một trảng tranh. Và thật là lạ, tại một góc của cái trảng tranh xanh tốt và khá rộng này có mấy gánh gánh hàng ăn. Khoai, sắn, chuối, ổi, bưởi, trái cóc, mấy khúc mía chưa róc vỏ … Và những loại bánh hấp hoặc nấu chín gói trong lá chuối. Trông ngon lành quá. Gần Tết rồi, chắc có bánh tét. Tết luôn luôn có bánh tét, tôi muốn gọi nó là bánh tết.

Không xa nơi chúng tôi tập họp trước khi phân tán ra làm nhiều toán nhỏ, cuối đám tranh, sau những bụi cây và lau sậy san sát, thấp thoáng năm ba mái nhà lá. Tôi tưởng như lâu ngày nay gặp lại quê nhà, thân, quen, ấm áp, dù đang mùa Đông. Thấp thoáng bóng dáng người dân thường, trông nghèo nàn, lam lũ, nhưng ăn mặc đâu vào đấy. Đàn ông quần cụt, áo sơ mi rách rưới, vá víu, đàn bà quần dài đen, áo bà ba cũ kỹ. Không kỳ quặc như chúng tôi – áo bao cát ba lỗ, một lỗ to cho cái đầu bờm xờm thò ra, hai lỗ nhỏ cho hai cánh tay xương xẩu có chỗ thoát ly; quần xà lỏn bao cát thì trông chỉ văn minh hơn chiếc khố; mỗi người may theo mỗi cách, mà vẫn có mẫu số chung, là méo mó, xộc xệch, hở hang.

A, đây là xã hội loài người, nhưng họ có phải là Việt Cộng hay không nhỉ? Nghĩa là họ có xem mình như kẻ thù, như Ngụy, để họ cải tạo phụ đạo? Hay họ chỉ là những người thường dân, dù sống dưới chế độ nào. Tôi buồn rầu nghĩ tiếp, dưới chế độ nào đi nữa thì dân vẫn là dân, chính quyền là chính quyền, đảng là đảng, Việt cộng là Việt cộng. Lẽ nào mọi người đều là Việt cộng?

Ở mãi trong rừng ngày ngày đối diện với sắt máu, kềm kẹp, rình rập, đói khát, bệnh tật, nhiều khi mình cảm thấy mình không phải là con người nữa. Một nhà thơ nói trúng:

Mười năm, mặt xạm soi khe nước,
Ta hóa thân làm vượn cổ sơ.[1]

Nay thấy loài người, lòng bỗng nao nao. Và có hàng, có quán. Không chừng có cả chợ. Có lẽ nơi này rất xa những nơi từ trước tới nay chúng tôi đã đến để được “Vinh Quang” – “Lao động là vinh quang.” Khẩu hiệu được lặp đi lặp lại này làm tôi nghĩ đến câu nói “Xúi trẻ ăn cứt gà.” Chúng tôi không còn là trẻ con nữa, vậy câu nói đó nên được đổi thành “Xúi già ăn cứt vịt” chăng? Tôi nghĩ bụng vinh quang hay không còn tùy thuộc vào mục đích của cái lao động ấy chứ. Chẳng hạn ta được cho ăn bánh vẽ làm việc đến kiệt lực trong khi kẻ khác ngồi không hưởng trọn thành quả của cái lao động ấy, thì vinh quang cái nỗi nào.

Một người đột nhiên cất cao giọng “phát biểu linh tinh”:
“Hôm nay là ngày cuối năm, mai Tết, ngày vui của dân tộc. Mừng Xuân Ơn Đảng.”

Một giọng khác bẻ:
“Trật. Phải nói: Ơn Đảng Mừng Xuân. Cho nên Cách Mạng chiếu cố cho chúng ta lao động tại vùng này để được gần gũi với nhân dân hưởng cái Tết ấm no, độc lập, thống nhất, tự do, hoà bình.”

Có tiếng xì xào, rì rầm. Hưởng ứng hay phản đối? Nhưng dù gì thì dù, mọi người vui hẳn lên, cố cắt thật nhiều tranh, cho mau đạt chỉ tiêu, để còn nhiều thì giờ đi “mua sắm”. Nghĩa là để có thể ngồi nán lâu hơn giờ nghỉ quy định bên các hàng ăn, hàng quà tán gẫu. Ai có tiền thì “mua sắm” củ khoai, trái chuối, trái bắp, ăn Tết; ai không tiền thì ăn Tết bằng mắt.

Tôi chợt liên tưởng cách đây 15 năm trên những bãi tập quanh vùng Thủ Đức, Chợ Nhỏ. Giờ nghỉ trưa, chúng tôi la cà đến những cô gái quê xinh xắn nói năng ngọt ngào, duyên dáng, áo bà ba nhiều màu, và quần trắng, quần đen mỏng “sexy” làm nổi lên những “đường cong tuyệt mỹ”. Họ ngồi bán những thức ăn, thức uống. Bán những nụ cười tươi tắn. Nay bên những gánh hàng ăn lỏng chỏng xác xơ, cũng những cô gái quê còn trẻ lắm nhưng trông lam lũ quá. Tóc búi tó không chút mượt mà, mặt mày hốc hác không trang điểm, nước da nám, sạm, áo quần toàn một màu đen bạc thếch vì dãi dầu mưa nắng. Đi chân đất.

Tôi ngạc nhiên khi thấy dăm ba bạn tù có tiền đến mua quà. Trong những chuyến thăm nuôi, ngoài “đồ tiếp tế”, thân nhân của họ lén chuồi một ít tiền. Vợ tôi cũng muốn làm như thế nhưng tôi từ chối ngay, nghĩ rằng ở tù trong rừng thì tiền bạc có ích gì. Tôi đâu ngờ rằng có một ngày như hôm nay. Tôi cũng chưa có ý nghĩ trốn trại, thì phải có chút tiền mang theo phòng thân.

Tôi càng ngạc nhiên hơn. Lẫn trong nhóm người nghèo khổ đó, ngồi thu mình đằng sau chiếc rổ bày ra mấy món thức ăn, là một người đàn bà còn trẻ, trên dưới ba mươi tuổi. Thoáng trông tôi đã nhận ra ngay cái dáng dấp “lãng mạn tiểu tư sản bóc lột”. Cô ta như ở một tinh cầu lạ rơi xuống, khác hẳn bọn tù chúng tôi đã đành, mà cũng không có nét nào giống những cô gái quê khốn khó. Lâu ngày quen mắt với núi rừng âm u, nay bàng hoàng thấy hiện lên hình ảnh của ngày xa xưa như trong chuyện cổ tích. Một chút thân thương và rất nhiều xót xa. Tôi quên cả giữ ý, nhìn trân trối.

Người đàn bà gầy gò, tay chân như thừa thãi. Mái tóc đã lâu không uốn buông thỏng xuống vai áo màu tím nhạt, sờn, rách, để lộ làn da xanh xao. Không lạnh sao, mùa đông nơi rừng núi mà. Đôi mắt to, đen, ngơ ngác, mang một vẻ sợ sệt thường trực khó hiểu, nổi bật lên trên khuôn mặt không vui, với đôi mày thanh tú, cái cằm hơi nhọn, chiếc mũi thon. Hai bàn tay gầy ngón dài thường nắm chặt vào nhau, như để chống cái lạnh, cho thấy trên ngón tay thứ tư của bàn tay trái chiếc nhẫn vàng nho nhỏ. Thế là đã có nơi nương tựa? Hay chàng không còn? Hay chàng cũng đang ở tù như chúng tôi? Biết đâu có thể cùng B với tôi.

Tò mò, hay vì lâu ngày không thấy người nữ, tôi trố mắt nhìn kỹ hơn. Nhìn hai bàn chân mang dép Nhật mòn hết gót. Nhìn chiếc quần lãnh đen bạc màu có mấy miếng vá ở đầu gối. Khi người đàn bà đứng dậy quay người, tôi nhìn miếng vá ở mông. Và mông. Tôi quên hết mọi cung cách giao tiếp lịch sự tối thiểu. Tôi thầm nghĩ, trước kia, với chút trang điểm và bớt gầy, có lẽ đấy là một nhan sắc đáng kể. Và chắc chắn là dân thành phố. Nhưng sao lại lạc lỏng tới nơi này? Cơn xúc động trong tôi bỗng dưng lóe lên như đốm than hồng phủ tro bị cơn gió mạnh thổi tạt qua.

Rổ đựng thức ăn cũng gợi trí tò mò của tôi: một ít mứt gừng gói trong giấy trong, hai chén chè đậu xanh đánh, một dĩa xôi lạc, trước kia gọi là xôi đậu phụng, và đũa, muổng. Và một thẻ nhang, một bông cúc vàng gói chung trong một mảnh giấy báo đặt bên dưới dĩa xôi. Tôi muốn xin mảnh giấy báo mang về đọc xem có gì trong đó, mà không dám. Chỉ chừng đó. Không có người nào tới đấy hỏi mua quà. Cũng phải thôi, bọn tù chúng tôi đâu cần những món ăn xa xỉ như thế.

Vài ba người bán quà ngồi gần đấy tỏ vẻ khó chịu. Khó chịu vì tôi chăng? Vì cái nhìn rất ngố không biết che đậy của tôi? Tôi chột dạ, chỉnh đốn lại thái độ. Bỗng họ lớn tiếng bàn bạc với nhau có lẽ cốt để cho tôi nghe chăng.

Một người nói:
“Không biết nó từ đâu mà tự nhiên nhô ra. Coi tức cười quá vậy trời.”

“Nó? Nhưng nó nào?” Người thứ nhì hỏi.
“Thì còn ai nữa. Cái con ranh đó đó.”

A, họ không nhắm vào tôi. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm trong người.

Người thứ nhì nói tiếp:
“Con ranh đó hả? Thì từ Sài Gòn chớ từ đâu nữa. Lên đây bán đồ cho … cho … mấy anh tù.” Quay nhìn thẳng vào tôi. “Chắc không phải đâu. Lên làm gái.”

Người thứ nhất lắc đầu, le lưỡi:
“Phải có da có thịt mới có thể làm gái chớ. Ốm như con khỉ gió thì làm gì được!”

Người kia không đồng ý:
“Ở đó mà không làm gái! Coi cái mặt mốc kia kìa. Không làm gái thì cái tướng đó làm được gì mà sống.”

Người thứ ba bây giờ mới ra miệng, tỏ ra biết nhiều và biết điều hơn, nói với hai người kia, nhưng mắt thì chăm chăm nhìn cô Sài Gòn:
“Tui biết nó. Tui gặp con khùng này mấy lần rồi. Nó làm gì mặc kệ nó, mình dư hơi đâu mà xía vô. Không ưa thì đuổi nó đi chỗ khác cho đỡ ngứa con mắt.” Nói xong cười thích thú.

Cứ sau mỗi câu nói trên, người đàn bà thành phố, trông như con chó lạc chủ bị một bọn người cầm gậy gộc dọa đánh, run rẩy co rúm người lại. Con mắt càng ngơ ngác, vẻ mặt càng hoảng hốt. Như một phản ứng tự nhiên, quên mình là tên tù, tôi nhảy vào can thiệp. Tôi buột miệng nói mấy câu, ban đầu hùng hồn, dõng dạc, dần dần yếu xìu:
“Ê, ba chị kia, làm gì vậy? Người ta cũng …” Xoay nhìn người vừa nói. “À, à chị có biết cô này hả. Thôi, tội nghiệp, tha cho người ta đi. Tui, tui sẽ… Tui sẽ …”
“Tui sẽ làm gì?”

Tôi ngẩn người, đáp nhanh:
“Tui sẽ cám ơn lắm lắm.”

Họ cố nhịn cười. Người đàn bà thành phố lấm lét nhìn tôi, ngơ ngác. Tôi đâm ngượng, im bặt. Rồi ngó lãng ra đằng xa nơi vài ba người tù đang ăn khoai mì, miệng ngốn ngấu ngon lành, mắt mở thao láo.

Nhưng thật không ngờ, người đàn bà vừa đòi đuổi cô thành phố quay lại nói với tôi:
“Tui giỡn chơi thôi, anh biết chớ. Tui có quyền gì mà đuổi người ta. Còn anh muốn mua đồ của nó thì cứ mua đi. Nói khéo khéo nó sẽ cho ăn chùa, khỏi cần trả tiền, tui bảo đảm. Con này nó khùng mà. Khùng thì biết gì đâu.” Quay nói với hai người bạn hàng. “Thôi, tụi mình đi bán chỗ khác nghen. Ngồi đây nhột.”

Ba người đứng dậy thong thả gánh hàng quà của mình đi đến nơi anh lính bảo vệ đang ngồi cạnh lùm cây nhỏ lấy thuốc lá ra vấn.

Không có một khúc cây, một cục gạch, hay tảng đá gần đó, để ngồi, tôi đứng xớ rớ bắt chuyện:
“Chị bán những thứ gì đó?”

Người đàn bà không trả lời, nhìn chỗ khác, có vẻ thèn thẹn. Tôi nói thêm:
“Sao toàn là những đồ cúng cả vậy. Lại có cả thẻ nhang.”
“Kệ tui. Anh đi chỗ khác để cho tui yên. Đi ngay đi.”

A, cái cô này lạ thật. Mình vừa đứng về phe cô ta, cô lại đuổi mình đi. Hay là vì mình vô ý nhìn người ta như muốn “ăn tươi nuốt sống” khiến người ta bực tức? Tự thấy mình có lỗi, tôi dịu giọng:
“Cô mau quên quá. Không có tui, ba con nhỏ kia đã xé xác cô rồi. Không chừng tụi nó quay lại đó.”

Cô ta đứng bật người dậy, hoảng hốt, nói líu lưỡi:
“Thật không … Thật không… Chết, chết, chết. Làm sao đây?”

Tôi không ngờ cái phản ứng thái quá đó. Không biết nói gì, nói đại một cách vớ vẩn, buồn cười:
“Chắc họ không quay lại đâu.”

Người đàn bà coi bộ dễ tin:
“Anh nói thiệt hả anh.” Rồi cười lặng lẽ và cúi xuống lấy một chén chè đưa tôi, miệng lẩm bẩm như nói một mình:
“Trước cúng sau cấp. Cấp thì ăn. Không ăn thì bán. Anh ăn không tui bán cho? Ăn xong đi chỗ khác chơi.”

Tôi ngạc nhiên đáp:
“Tui không đói.”

Người đàn bà bỗng đổi thái độ, dịu giọng:
“Tui cũng không đói như anh. Tui anh giống nhau. Không ăn thì đem lên đây bán. Người ta bán được tui cũng bán được. Anh cũng mua được. Ăn xong đi chỗ khác chơi.”

Cô ta lại lơ đãng nhìn quanh. Đột nhiên cô bước tới gần, nói nhỏ bên tai tôi:
“Nhưng tui không lên đây buôn bán giành khách của họ đâu, mà họ cứ làm khó, làm dễ tui hoài. Tui sợ ba cái bà đó lắm.” Hai bàn tay che mặt, vai thun. “Tui đem lên cho ảnh. Tết năm nay không có gì, tui chỉ đem được chừng đó thôi. Lâu quá mới đi mà ít đồ quá. Ảnh có giận không hả anh? Anh cứ nói thiệt đi, tui không ngán đâu.”

Tôi tò mò hỏi:
“Ảnh? ảnh là ai?”

Người đàn bà cau mày:
“Ảnh là ảnh, chớ còn là ai nữa.” Mắt rưng rưng. “Ảnh không chịu gởi thơ về cho tui. Mấy ngày rồi. Mấy tháng rồi. Mấy năm rồi. Tui đi kiếm ảnh nhiều nơi. Thằng con tui cũng bỏ tui mà đi. Nó mới mấy tuổi đầu mà cũng đi đâu mất.”

Cô này đúng là khùng như chị bán hàng hồi nãy đã nói, tôi lo lắng. Hay mất trí? Cô ta tiếp tục lảm mhảm:
“Không biết ảnh ở đâu. Đi tìm nhiều nơi lắm, nơi nào cũng có có không không. Người ta chỉ tui tới đây mấy lần rồi, ảnh không chịu gặp tui. Trước cúng sau cấp, tui đem lên cho cho ảnh ăn. Chớ có tính bán buôn gì đâu, mà mấy bà hồi nãy la rầy dữ quá. Anh thích thì cứ lấy một chén chè mà ăn. Có tiền trả, không có tiền, ăn chịu. Ăn một chén thôi. Rồi đi nơi khác chơi.”

Tôi chợt nghĩ đến người bạn thân đã bị chuyển trại. Hay đã chết? Tôi buột miệng hỏi:
“Có phải ảnh tên Chí?”

Người đàn bà giật bắn mình, mở to mắt, lắp bắp:
“Đúng, đúng, đúng. Sao, sao anh biết?” Đứng nhón chân lên, hớt hơ hớt hải nhìn bốn phía. “Anh ơi, anh ở đâu?” Xoay qua tôi. “Anh dẫn tui tới ảnh đi.”

Tôi bối rối:
“Này chị. Hãy từ từ. Để tui tính. Anh Chí trước kia cùng B với tôi.”
“Chí cái gì, Bê cái gì…”

Tôi ngắt lời:
“Nhưng, nhưng …” Tôi không dám nói Chí không còn ở chung B với tôi nữa. Lòng còn chút hồ nghi, tôi hỏi thêm. “Chị có ba đứa con phải không? Đứa lớn nhất có lẽ đã vào Đại Học. Ô, chị còn trẻ quá, có lẽ nào…”

Người đàn bà ngẩn ngơ, đưa bàn tay xua xua, rồi phá lên cười:
“Tui ba con. Sao nhiều quá vậy. Một thôi. Hai cũng chưa ra nổi lấy đâu có ba, có bốn.” Bỗng ngồi bệt xuống đất hai tay ôm mặt khóc nức nở, nói qua làn nước mắt. “Mà … mà … mà một cũng không xong. Bé ngoan sao lại hư vậy … sao lại cũng bỏ mẹ mà đi, mà … đi chơi … Đi đâu lâu quá không về. Anh ơi. Anh Chính ơi, anh về ngay. Anh và em đi tìm nó!”

Tôi lặng người. Vài người bạn tù thấy thế vội bước tới. Người đàn bà hoảng sợ vói hai tay vồ lấy chiếc rổ đứng lên định chạy. Tôi giữ lại, lúng túng, nói:
“Chị ngồi lại đây một chút, xin ngồi lại một chút thôi. Tui có chuyện muốn thưa chuyện nhiều nhiều với chị, với các bạn. Có gì trở ngại đâu, phải không các bạn? Tụi tui không hung dữ đâu, chị đừng sợ.”

Nghe tôi nói thế, không ngờ người đàn bà ngoan ngoãn đặt rổ xuống đất ngồi lại chỗ cũ, nghiêng đầu vểnh tai lên về phía tôi, như muốn nghe cho rõ tôi sẽ nói gì. Mấy người bạn ngạc nhiên trố mắt nhìn tôi. Một người lên tiếng:
“Có chuyện riêng muốn nói với nhau hả? Thì bọn tui đi chỗ khác.” Vừa bước một bước, như sực nhớ điều gì, quay lại nói tiếp. “ Này chị, chị có vẻ không phải là dân vùng này, phải không?”
“Tui ở Sài Gòn.”

“Khi nào chị về Sài Gòn?”
“Về Sài Gòn hả? Về chớ sao không về. Về, về. Về ngay bây giờ. Có anh Chính cùng về với tui nữa.”

Người tù lộ vẻ vui mừng rút từ trong túi áo bao cát một bao thư nhàu nhò đưa cho người đàn bà, thì thầm:
“Thơ tui viết sẵn từ lâu mà không gởi được. Dặn vợ lần thăm nuôi sắp tới đem vài thứ thuốc. Chỉ có vậy thôi. May quá nay gặp chị. Nhờ chị về Sài Gòn bỏ vô Bưu điện. Đã viết sẵn địa chỉ. Có điều xin chị thương tình mua cho tui con tem dán lên cho. Chị làm ơn nhé, tui đội ơn chị vô cùng.”

Người đàn bà ngơ ngác cầm lá thư sửa soạn cho vào túi áo. Bỗng cán bộ quản giáo, theo sau là lính bảo vệ, có lẽ đã quan sát từ nãy đến giờ, chạy vọt tới. Anh ta nhanh như chớp giật lấy bức thư trong tay cô ta và bỏ ngay vào trong chiếc cặp. Anh gằn giọng, nói qua kẽ răng:
“Hai người theo tôi.”

Người tù vừa đưa thư đứng sững, mặt xanh như tàu lá. Người đàn bà run lẩy bẩy, cặp mắt điên dại như mắt con thú rừng vừa bị sập bẫy. Màu đen đôi mắt chuyển dần thành màu trắng dã và, lạ quá, trong một thoáng, hai chấm đỏ hiện lên mơ hồ.

Tôi nhớ trong một câu chuyện có đề cập đến săn bắn[2], tác giả cho biết trừ mắt người và voi không phản chiếu ánh đèn, ngọn đèn săn trong đêm quét đến đâu thì trong vòng 50 thước ta thấy hiện lên những chấm sáng, từ cặp mắt cọp sáng rực, đến mắt nai, mắt nhái, mắt nhện.

Nhưng đó là ban đêm với ngọn đèn săn. Đằng này mới xế chiều, không đèn, lại là mắt người. Tôi trông gà hóa cuốc chăng? Làm sao có chấm đỏ trong mắt của người đàn bà?

Tôi chồm tới. Lính bảo vệ chỉa súng, lên đạn. Tôi dừng lại, lắp bắp nói :
“Thưa, thưa cán bộ. Cán bộ xét lại cho, cho. Chị này điên.”
“Anh im ngay.” Gằn từng tiếng. “Điên thật hay điên giả? Điên thật ư? Cũng có cách. Đinh hết điên.”

Dường như muốn rõ nghĩa hơn, anh ta nhắc lại cái ý đó, nói qua kẽ răng:
“Đinh đục vào, điên văng ra.”

Hồi tôi còn ở Trảng Lớn, Tây Ninh, có một anh tù gốc Quảng Trị bị “mát dây”, ưa lý sự, châm chọc, nói văng mạng, phạm húy. Lại thường chen tiếng Pháp vào. Thỉnh thoảng anh hét to, Tao điên đây, tao điên đây, tụi bay làm chi được tao nào. Sau đó anh bị đưa đi đâu hết mấy tuần lễ. Lúc trở về với bạn tù, anh im lặng một cách khó hiểu. Giống như Chí trước kia. Những lỗ tròn nhỏ như đầu chiếc đũa tím đen bao quanh bởi lớp da đỏ bầm lấm tấm trên trán, trên hai mép của anh. Bị gặng hỏi nhiều lần về những vết tím đen đó, anh không thoái thác được, đành lầm bầm trả lời, Đinh … đinh … Lúc đó chúng tôi không hiểu anh nói gì. Nay thì hiểu rồi, đinh đục vào, điên văng ra. Quản giáo đã buột miệng tiết lộ sự thật chứ không phải hù dọa.

Bỗng quản giáo nhíu mày ngẫm nghĩ, ngập ngừng liếc nhìn tôi. Ánh mắt đột nhiên chuyển qua dịu dàng, hiền từ, anh ta chậm rãi nói chung cho mọi người nghe bằng một giọng ấm áp:
“Nhưng thôi. Cần gì phải mạnh tay đến thế nhỉ. Cách mạng đã có rất nhiều cách xử lý rất tốt cho những sự cố như thế này. Và rất khoan hồng, rất nhân đạo.”

Nói xong, cái vẻ hiền từ vụt bay đi mất, quản giáo nghiêm mặt nhắc lại lệnh:
“Anh kia, chị kia, theo tôi.”

Thật bất ngờ, người đàn bà lao vào tôi, ôm chầm, nói đứt quãng:
“Anh Chính! … anh Chính! … Cứu em! …Cứu em với!”

Tôi phản ứng như máy, gỡ những ngón tay của người đàn bà ra, hơi khó khăn, và đẩy nhẹ cô ta về phía quản giáo. Cô buông tay, lảo đảo, sửng sốt nhìn tôi. Cặp mắt đó, lại hiện lên đốm đỏ, chất chứa một điều gì rất khó hiểu. Khinh bỉ? Căm hờn? Nó sẽ đeo đuổi tôi mãi. Nó sẽ làm hỏng đời tôi sau này.

Quản giáo bước đi trước, hai bàn tay khoát khoát xua đuổi tôi và mấy anh tù đứng gần đấy đi nơi khác. Hai “tội phạm” riu ríu bước theo, lính bảo vệ cầm súng đi sau cùng. Tôi hụt hẫng. Mọi người im lặng ngơ ngác nhìn.

Cảnh tượng vừa rồi vẫn thường xẩy ra sau khi Miền Nam thất thủ. Như giữa sói và cừu. Trên một cánh đồng êm đềm, một đàn cừu ngoan ngoãn gặm cỏ. Bỗng một con chó sói xuất hiện. Đàn cừu hoảng hốt chạy tán loạn. Con sói rượt theo vồ được một con cừu, cắn vào cổ, vật ngã, rồi ngồi xuống từ từ nhai ngấu nghiến con mồi. Đàn cừu thấy yên yên dừng lại quay nhìn. Cừu, hơn cả dê, thích nhìn xa. Có con động tính hiếu kỳ, tiến lên mấy bước, giương đôi mắt ngây thơ nhìn cho rõ hơn.

Tôi cay đắng thầm tự so sánh với con cừu ngây thơ. Tôi tệ hơn.

Rừng mùa Đông mau tối. Chúng tôi không ai có đồng hồ, 6 giờ rồi chăng? Tiếng trời gầm nghe không xa lắm. Một cơn gió chạy luồn theo khe núi tạo nên những tiếng hú dài. Cây, cành nghiêng ngã, lá rụng ào ào. Chắc sắp đổ mưa. Trên đường về, đến phiên tôi phải vác bó cuốc nặng. Lạ chưa, đi cắt tranh mang cuốc? Chắc quản giáo tính lộn, tôi thầm nghĩ. Và nhớ một câu nói “thuộc lấy làm lòng”của quản giáo: “Chúng tôi không bao giờ nhầm lẫn.”

Mưa đổ xuống thật. Đội mưa đi mà không thôi nghĩ đến người đàn bà và anh bạn tù.

Này này, tôi nói với tôi, nếu mày không lẩn thẩn con cà con kê thì đâu đến nỗi. Giá mày có tư cách hơn, có dũng khí hơn. Chẳng biết họ sẽ ra sao? Cái anh chàng đó chắc sẽ bị biệt giam. Hay chuyển trại. Hay là, hay là? Và người đàn bà Sài Gòn mất trí? Điên? Đinh?

Con đường đê nhỏ xíu bề ngang chỉ hơn một gang tay, lầy trơn, lồi lõm, khó bước. Tôi tháo dép râu treo lên cán cuốc đi chân không cho dễ bám đất. Lòng nặng trĩu, bước loạng choạng, tôi trượt chân té xuống một cái ao đầy nước bên đường. Nằm sóng soải, nước ngập đầu, bó cuốc bung ra. Một lưỡi cuốc chém vào bắp chân phải của tôi, và chạm vào xương đầu gối. Máu chảy nhiều. Anh lính bảo vệ đứng lại, chỉa súng, chờ.

Tôi lóp ngóp ngồi dậy, loay hoay bó lại bó cuốc cho chặt hơn, rồi cởi trần lấy áo bao cát quấn vào vết thương cho cầm máu. Lạnh run cầm cập. Đoàn tù đi qua, đi qua, lặng lẽ. Trong bóng mờ tranh tối tranh sáng, có lẽ họ không thấy tôi bị thương. Họ không quan tâm mấy, trượt té là chuyện nhỏ. Hơn nữa, họ không được tự ý đứng lại khi không có lệnh. Khi tôi đứng dậy, mới nhận thấy mình là người đi áp chót. Người đi cuối là lính bảo vệ.

Nhưng không phải thế. Ngoảnh mặt nhìn lui tôi thấy, không xa lắm, không được rõ lắm, trong bìa rừng, bóng dáng mấy người. Tôi cố nhìn kỹ. Một lính bảo vệ súng cầm tay, và thêm hai người nữa. Nhìn kỹ hơn, đúng là anh bạn tù đưa thơ lúc nãy hai tay bị trói quặt ra sau lưng, đi lom khom, và người đàn bà Sài Gòn hai tay cũng bị trói, nhưng đưa lủng lẳng ra đằng trước. Từ trước đến giờ tôi vẫn nghĩ chỉ có một quản giáo và một bảo vệ dẫn chúng tôi đi lao động. Thì ra số người canh gác, số lính “bảo vệ” chúng tôi, có thể lên đến ba, bốn, hoặc nhiều hơn tuỳ theo nhu cầu, hoàn cảnh. Nhưng họ không lộ diện.

Lẫn trong tiếng mưa rơi và tiếng gió hú, là tiếng rên rỉ, than thở, khóc lóc của người đàn bà. Có lúc rít lên nghe như tiếng con heo đang bị thọc huyết, có lúc gõ từng giọt đều đều như tiếng cú rúc trong rừng khuya.

Tôi đặt bó cuốc lên vai, chạy lúp xúp cho kịp đoàn tù đi đằng trước, mấy lần lại suýt trượt té. Tôi chạy bươn bươn, vượt qua gần hết đoàn tù. Tôi chạy như chạy trốn. Tôi không muốn nghe. Tôi không muốn thấy. Nước mắt tự dưng tuôn ra hòa với nước mưa chảy dài từ cái đầu ướt mèm xuống cằm. Mấy người đi trước, tôi trông như những hình nộm múa may, quờ quạng. Bỗng tôi nghe văng vẳng. Mọi thứ âm thanh, mọi tạp âm đều bị gạn lọc hết, tôi chỉ nghe những tiếng khóc, tiếng rú, tiếng than. Và núi rừng, cây cối cũng đều bị nhạt nhoà, tôi chỉ còn trông thấy đôi mắt đen tối, trũng sâu, đầm đìa. Rồi nó đổi màu, nó biến thành hai đốm lửa, lan ra, lan ra mãi thành đám cháy lớn. Khu rừng rực lửa trong tôi.

Đầu óc tôi đã bị gột sạch những liên tưởng, những hình ảnh, những âm thanh cũ, những thứ lâu nay đã đeo đuổi theo tôi mỗi khi tôi đi lao động trong rừng xa. Vâng, mới đây thôi, mới hôm qua, rừng càng xa càng khiến lòng tôi phơi phới. Tôi biết rằng chuyến đi hôm nay đã giết chết trong tôi nhiều thứ tình cảm rối rắm, chẳng hạn như tình thương đối với người lính bảo vệ trông thật vô tư. Và cả tình yêu tôi ấp ủ từ thuở nhỏ đối với núi rừng.

Trước kia rừng là nước, tôi là cá. Hết rồi. Rừng nay là lửa. Lửa nung nấu tim gan.

*****

Nắng kéo dài nhiều tháng. Bây giờ, cuối năm, trời bỗng đổ một trận mưa thật lớn như muốn ban cho năm cũ một chút ơn huệ vớt vát muộn màng. Trong những phút đầu tiên của trận mưa ấy, con đường nhựa trở nên trơn trợt, xe phải chạy chậm lại. Sau đó khoảng vài mươi phút, mặt đường mới sạch nhẵn lớp bùn lầy, bánh xe mới dễ bám.

Tuy thế, một chiếc xe hơi cũ kỹ vẫn chạy nhanh trên đường Edinger theo hướng từ Tây sang Đông. Người lái xe là một ông già hơi gầy, cao cao, tóc bạc phơ, trông yếu ớt, mệt nhọc. Phục sức luộm thuộm. Đôi mắt nhớn nhác chứng tỏ một tâm hồn không ổn định. Mang một thứ bệnh nào đó liên quan đến thần kinh chăng? Hẳn nhiên ông già già hơn chiếc xe nhiều. Đuổi theo sau chiếc xe đó là một xe Cảnh Sát đèn chớp, còi hụ.

Mưa lớn, đường Edinger vắng, không gặp đèn đỏ, chiếc xe hơi cũ vượt nhanh qua những đường giao lộ như Magnolia, Brookhurst. Chạy hết Mile Square Park, chiếc xe quẹo gấp qua trái trên đường Euclid. Lái xe cái kiểu đó có ngày chết. Xe Cảnh Sát vẫn lẽo đẽo đuổi theo sau cách một quãng ngắn. Mưa càng lúc càng lớn. Cái gạt nước không kịp gạt hết những giọt mưa đập lên kính chắn gió. Cảnh vật trước mặt ông già do đó bồng bềnh, nghiêng ngửa. Kính chắn gió đằng sau của xe thì bị phủ đầy sương đêm chưa kịp tan, và nước mưa. Ông đã bấm nút “Làm tan băng.” Xe cũ. Những nút bấm không kích hoạt nhanh.

Chiếc xe lại tiếp tục vùn vụt chạy qua các đường Mc. Fadden, rồi Bolsa, rồi Fifth, rồi Hazard. Thấy đèn giao thông màu vàng xuất hiện, ông càng đạp thêm ga cho xe phóng nhanh để kịp vượt qua đèn đỏ.

Bỗng bảng tên đường Emperor Quang Trung hiện lên mờ mờ dưới cơn mưa càng lúc càng nặng hột. Ông đạp thắng gấp, quẹo nhanh qua trái để vào một Khu Doanh Thương. Xe trượt trên lớp nước tràn ngập đường, lủi vào đụng cột đèn điện đánh sầm một tiếng. Và nằm nghiêng cạnh mép đường, đầu xe chìm một phần trong làn nước. Quên tắt máy, ông nhăn nhó quay nhìn cái tay lái bị đầu gối phải của ông chạm mạnh vào, lệch qua một bên. Cây gậy gỗ nằm cạnh cửa xe gãy làm đôi. Máu chảy ra khá nhiều, thấm đỏ ống quần. Ông tỏ vẻ đau đớn, càu nhàu, Lần này bác sĩ dở hơi giở trò hỏi đau bao nhiêu từ không đến mười, sẽ đáp không chút phân vân đau chín. Hay mười?

Chiếc xe Cảnh Sát chạy theo đằng sau quẹo ngay vào. Từ trên xe bước xuống một cảnh sát giao thông cao lớn, lực lưỡng. Ông ngồi yên chờ. Người cảnh sát ra dấu bảo ông hạ kính xe xuống. Ông làm theo.

Câu đầu tiên của cảnh sát:
“Ông có bị thương không?”

Ngần ngừ một chút, ông trả lời:
“Không, không sao cả. Hoàn toàn không bị thương.”

Có lẽ ông nghĩ nói như thế sẽ bị phạt nhẹ, hay tha bổng. Là vì mình làm mình bị thương khi lái xe cũng là phạm luật chứ? Lái xe gây thương tích cho người ta là lỗi nặng, mình cũng là người ta. Bị phạt nặng, rồi còn bảo hiểm tăng, có khi bị “treo giò” mấy tháng. Đời nào!

Anh cảnh sát bảo ông tắt máy, yêu cầu ông trình bằng lái xe, giấy bảo hiểm, giấy thuế lưu hành hàng năm. Xem qua một lượt, cảnh sát nói tiếp:
“Ông chạy quá tốc độ. Hai lần vượt đèn đỏ. Làm gì mà chạy nhanh dữ thế?”

Ông liếc nhìn đồng hồ, nói:
“Tôi có hẹn với bác sĩ đúng 9 giờ sáng hôm nay. Tôi ngủ quên. Sợ trễ hẹn. Thật ra tôi không vượt đèn đỏ. Vượt đèn vàng thôi. Cái đèn vàng mau tắt, còn cái đèn đỏ thì mau hiện. Có thế thôi.”

Anh cảnh sát mỉm cười. Thấy anh cảnh sát trẻ trung không khó đăm đăm như những cảnh sát khác mà ông đã gặp nhiều lần trong những dịp như thế này, ông cố kéo dài câu chuyện. Biết đâu, anh ta sẽ thông cảm, nhẹ tay. Có lẽ nghĩ như thế, ông hăm hở tranh nói trước khi cảnh sát hỏi tiếp:
“Tôi bị thương ở đầu gối lâu ngày, từ hồi, từ hồi … Cũng cơn mưa lớn như thế này, mưa trên rừng. Chữa mãi không lành. Tôi đi khập khiễng nhưng ngồi lái xe thì bình thường. Nghĩa là không có vấn đề gì. Thời tiết thay đổi, nhức nhối khó chịu lắm. Nhất là ban đêm không ngủ được. Nay được bạn bè mách nước, bảo tập thể dục mới khỏi, chứ thuốc thang không ăn thua. Tôi thử tới bác sĩ Vật Lý Trị Liệu trong khu này…”

Anh cảnh sát ngắt lời:
“Vâng, tôi nghe đủ rồi. Nhưng tôi đuổi theo, đèn chớp, còi hụ, sao ông không chịu dừng lại?”
“Trời mưa lớn quá, tôi không nghe gì cả. Cũng không thấy đằng sau. Cái kính sau đó mà, nó bị nước mưa che hết. Hơn nữa tôi lãng tai nặng. Cửa xe đóng kín, không mưa tôi cũng không nghe. Không lẽ anh không biết điều đó?”

Anh cảnh sát như vô cảm, lấy cái máy lớn hơn bàn tay bấm bấm trên các ô, xong chìa ra cho ông và nói:
“Thế hả? Đây, xin ông vui lòng ký vào đây.”

Ông già đầu khặc khừ, nhăn mặt, bặm miệng, mắt muốn đổ lửa. Không còn lẩn thẩn con cà con kê nữa, cũng không buồn xem cảnh sát ghi gì trong máy, ông ký rẹt một cái. Anh cảnh sát lấy lại máy, in tờ biên nhận và trao cho ông. Ông lạnh lùng nói:
“Cám ơn.”

Cảnh sát lạnh lùng đáp:
“Cám ơn.”

Khi anh cảnh sát quay người sắp đi dưới cơn mưa, ông hỏi vói:
“Phạt tui hả? Bao nhiêu tiền?”

Anh cảnh sát không trả lời, nhún vai, đi thẳng. Ông sực nhớ Cảnh Sát chỉ làm biên bản. Tòa án sẽ quyết định phần còn lại.

Ngự Thuyết
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	rung.png
Views:	0
Size:	690.1 KB
ID:	1779166  
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (10-12-2021)
Reply

User Tag List



 
Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
New Menu

Tin nóng nhất 24h qua

Tin nóng nhất 3 ngày qua

Tin nóng nhất 7 ngày qua

Tin nóng nhất 30 ngày qua

Albums

Total Videos Online
Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px

Tranh luận sôi nổi nhất 7 ngày qua

Tranh luận sôi nổi nhất 14 ngày qua

Tranh luận sôi nổi nhất 30 ngày qua

10.000 Tin mới nhất

Tin tức Hoa Kỳ

Tin tức Công nghệ
Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px

Super News

School Cooking Traveling Portal

Enter Portal

Series Shows and Movies Online

SERIES ONLINE 1

Donation Ủng hộ $3 cho VietBF
Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.

Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px

All times are GMT. The time now is 02:08.
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.
Log Out Unregistered

Page generated in 0.23396 seconds with 13 queries