Con số thống kê Bộ Kế hoạch Đầu tư Việt Nam vừa công bố cho thấy đầu  tư nước ngoài trực tiếp (FDI) vào nước này trong bảy tháng đầu năm  chỉ ở mức 8,03 tỷ đô la, bằng 66,9% so với cùng ḱ năm 2011.

Việt Nam đang lộ yếu kém về đầu tư, công nghệ và quản trị
  
Sự suy giảm từ 19,9 tỷ đôla năm 2010 xuống con số đáng thất vọng như  vừa nêu trong lúc FDI toàn cầu tăng từ 1,24 đến 1,6 ngàn tỷ trong cùng  thời gian cho thấy FDI tại Việt Nam đang đi ngược chiều với xu hướng  thế giới.
Sự tụt hạng đầu tư của Việt Nam ở châu Á cùng thời gian cũng chứng  minh môi trường kinh doanh nước này đang mất điểm trong mắt giới đầu  tư, so với nước cùng khu vực như Indonesia, tăng từ vị trí 21 lên 9  một cách ngoạn mục.
Vậy giới quan sát đang cho rằng những lí do chính nào ngoài lí do 'suy  thoái kinh tế toàn cầu' được 'ưa chuộng' của chính phủ Việt Nam khiến  giới đầu tư nước ngoài trở nên ngán ngẩm việc đầu tư ở Việt Nam đến vậy?
Đăng kí nhiều, không sử dụng hết
Thông số FDI  được đăng kí tại Việt Nam, thường chênh lệch xa với lượng FDI được chính  thức đưa vào sử dụng v́ tốc độ giải ngân yếu kém.
Việc đưa vốn đầu tư vào chính thức sử dụng tại Việt Nam là một thử thách  đối với tập đoàn nước ngoài (FIEs) v́ các thủ tục giấy tờ cũng như các  điều khoản qui định đầu tư rắc rối, không rơ ràng.
Các dự án lên đến hàng tỉ đôla thậm chí sau khi đă hoàn thành các thủ  tục, vẫn phải đối mặt với công đoạn “khó nuốt nhất” của quy tŕnh đầu  tư: 'giải phóng mặt bằng', được quản lư bởi các chính quyền địa phương  nghèo vốn.
Một ví dụ tiêu biểu trong thời gian gần đây nhất đó là dự án hợp tác đầu  tư của tập đoàn thép Tata của Ấn Độ với Tập đoàn thép quốc gia Việt  Nam.
"Doanh nghiệp Nhà Nước vẫn là ṇng cốt của nền kinh tế trong chiến lược phát triển"
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
Dự án 5 tỷ đô la đă phải nằm “bất động” trong bốn năm liền v́ sự chậm  chạp của tỉnh Hà Tĩnh trong việc giải phóng mặt bằng với lời bào chữa  “không đủ ngân sách”.
Đây là lý do khiến phía Ấn Độ mất kiên nhẫn đến nỗi đích thân Thủ  tướng Manmohan Singh phải “nhắc khéo” về dự án với Chủ tịch Trương Tấn  Sang trong cuộc gặp năm 2011 tại New Dehi.
Kết quả là trong tháng 8, phía Việt Nam đă bắt Tata phải trích thêm một  khoản 100 triệu đôla nữa để trả tiền giải phóng mặt bằng, gấp hơn ba lần  so với 30 triệu đô la qui ước ban đầu, nhằm ‘thúc đẩy’ tiến tŕnh dự  án.
Lao động rẻ đă lỗi thời

Chủ tịch Trương Tấn Sang đã nhận được thông điệp từ Ấn Độ về vụ Tata đầu tư vào Hà Tĩnh
  
Kinh tế gia Raphael Cecchi của hăng phân tích đầu tư ONDD tại Bỉ nói  trong một cuộc Bấm  phỏng vấn với BBC rằng, một trong hai thế mạnh  lớn nhất của Việt Nam đó là lực lượng lao động đông đảo với giá rẻ.
Tuy nhiên ngay cả ông và giới phân tích trên thế giới cũng thống nhất  rằng, trước nhu cầu thị trường toàn cầu ngày càng tinh vi và thâm dụng  vốn cũng như tốc độ tăng giá lao động trong nước nói riêng, thế mạnh này  sẽ bị xói ṃn rất nhanh.
Giới quan sát nói Việt Nam sẽ khó đón nhận những làn sóng FDI khổng lồ  trong tương lai với đội ngũ lao động kém tŕnh độ, chủ yếu bắt nguồn từ  những bất cập trong nền giáo dục vốn thiếu sự tự do để cạnh tranh,  chuyên môn hóa của nước này.
Một ví dụ cụ thể là vào năm 2011, Intel , hăng sản xuất chip điện tử  hàng đầu của Mỹ, đă gặp trở ngại trong việc đầu tư vào Việt Nam khi số  công nhân đủ tŕnh độ tuyển dụng chỉ bằng một phần nhỏ số lượng yêu cầu.
Hăng Intel vào thời điểm đó đă gạt qua một bên lợi thế lao động giá rẻ  của Việt Nam, tuyên bố rằng đó không phải là điều họ t́m kiếm.
Trong những năm trước, khi giá lao động Trung Quốc tăng nhanh, nhiều ư  kiến đă cho rằng Việt Nam sẽ là điểm dừng chân tiếp theo của những nhà  đầu tư muốn hướng về Châu Á.
Cho tới nay, Trung Quốc, với giá lao động tối thiểu cao hơn Việt Nam  rất nhiều, vẫn là điểm dừng chân hàng đầu cho các tập đoàn công nghệ  khổng lồ của thế giới như Samsung, Apple nhờ những nỗ lực nâng cao chất  lượng lao động.
Họ đã đưa đội ngũ lao động cao cấp lên làm ṇng cốt cho nền kinh tế  trong lúc vẫn đảm bảo giá cả, chất lượng và năng suất sản xuất ở mức  cạnh tranh so với thị trường lao động quốc tế từ rất sớm.
Điện cúp, đường tắc

Chính phủ Việt Nan quyết tâm duy trì vị trí ưu thế về chính sách cho doanh nghiệp nhà nước
  
Bài viết của kinh tế gia Geoffrey Cain trên tờ Foreign Policy (FP) trong  tháng 7/2012 có đoạn:”Việt Nam của năm 2012 là xứ sở mà chính phủ  ra quyết định xây dựng các công tŕnh cảng ở những nơi ḱ quái hoặc  đường xá không có ư nghĩa kinh tế nào.”
Vấn đề cơ sở hạ tầng không được đầu tư đúng nơi, đúng lúc và đúng mức độ  đang là vấn đề gây quan ngại với giới đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt là  khi vấn đề mất điện và giao thông đ́nh trệ có những ảnh hưởng trực tiếp  đến sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Nhiều năm qua, các doanh nghiệp đặt xưởng sản xuất tại Việt Nam liên tục  kêu ca là 'chới với' v́ không có điện để sản xuất, nhất là trong thời  điểm mùa hè, dẫn đến thiệt hại về cả năng suất cũng như chi phí sản  xuất.
Báo chí nêu như với Samsung, vụ mất điện 10 phút đă có thể biến các  sản phẩm dang dở thành 'phế thải', gây tốn kém lên đến hàng chục triệu  đô la.
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) thì liên tục lên tiếng than lỗ v́  thiếu nước, chi phí mua điện ngoài tăng cao, cũng như các nguồn điện  chậm tiến độ như một phần các lí do cho vấn đề bất cập năng lượng.
Trong khi đó, EVN vẫn đầu tư vào các ngành không liên quan như ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản.
'Ngại' doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp Nhà  Nước (DNNN), bị coi là trở ngại lớn nhất với sự phát triển của khu vực  tư doanh, vốn được cho là ṇng cốt và tương lai của nền kinh tế Việt  Nam, mà c̣n là lá chắn nguồn FDI từ bên ngoài suốt nhiều năm qua.
Ngân hàng HSBC hôm 1/8 nói sai lầm lớn nhất của Việt Nam là tập trung  40% tổng sản lượng doanh thu quốc doanh (GDP) vào các tập đoàn nhà nước  kém hiệu quả, tạo ảnh hưởng tiêu cực lên thị trường nhưng lại đ̣i hỏi sự  hỗ trợ khổng lồ để tiếp tục tồn tại.
Các doanh nghiệp này, bị các nhà đầu tư lên án là với số vốn lớn mạnh đă  ra sức thao túng vị trí 'đầu tàu của ngành', chiếm thế độc quyền bằng  cách mở rộng đa ngành để tạo khó khăn cho việc thâm nhập thị trường của  các tập đoàn nước ngoài, ảnh hưởng đến mức FDI tiềm năng đổ vào Việt Nam  những năm qua.
Trong cùng bài trên FP, Geoffrey Cain viết về doanh nghiệp nhà nước  ở Việt Nam: "Họ thật là một đám phiền toái, chẳng ai (nhà đầu tư nước  ngoài) muốn dính vào họ."
Tuy nhiên, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vẫn tiếp tục khẳng định Doanh  nghiệp Nhà Nước vẫn là ṇng cốt của nền kinh tế trong chiến lược phát  triển đất nước từ đây đến năm 2015.
"Họ thật là một đám phiền toái"
Geoffrey Cain
Có điều chính ông này là người bị dư luận lên án v́ đă bỏ ngoài tai  những cảnh báo của các chuyên gia về tác hại của mô h́nh DNNN nhiều năm  trước khi Vinashin, Vinalines đổ vỡ.
Lạm phát: nỗi ám ảnh kinh hoàng
Lạm phát trong  năm 2012 đă giảm xuống mức đáng kể, thế nhưng những dư âm và hậu quả của  mức lạm phát lên đến 23% của năm 2011 vẫn c̣n tồn đọng trong nền kinh  tế hiện tại và tâm lí các nhà đầu tư.
Một phần nguyên nhân cho t́nh trạng suy giảm lượng FDI trong năm 2012,  đó là các biến động tâm lư của nhà đầu tư trong thời điểm một năm trước  đó.
Trong bối cảnh lạm phát Việt Nam lên đến mức cao nhất Châu Á năm 2011,  các khách hàng nước ngoài cũng như các công ty nước ngoài trở nên lănh  đạm hẳn với thị trường Việt Nam và t́m cách chuyển dần sang các nước lân  cận trong suốt thời gian sau đó.
Nguyên nhân cho sự lănh đạm đó là sự mất đi lợi thế cạnh tranh giá cả  trong nước trước áp lực lạm phát khiến yêu cầu tăng lương của nhân viên,  chi phí vật liệu, lăi suất cao ngất ngưởng và các ngân hàng đua nhau  siết vốn.
Nguồn FDI vào ngành bất động sản trong cũng giảm xuống rơ rệt trước một  thời gian dài chứng kiến sự sụp đổ của ngành này cùng những món nợ xấu  c̣n tồn đọng ở thời điểm hiện tại.

Những tiến triển trong quan hệ hợp tác của Việt Nam với các nước lân cận đang mở ra những nguồn FDI tiềm năng mới.
  
Mặc dù Chính phủ Việt Nam đă có những nỗ lực rơ rệt trong việc hạ lạm  phát, giới quan sát vẫn đang 'nín thở' theo dơi tốc độ giảm lăi suất của  nước này bởi khả năng tái lạm phát nếu lăi suất được giàm không đúng  mực.
Kinh tế gia Raphael Cecchni nhận đinh rằng, Việt Nam, trước nỗ lực giải  quyết mức lạm phát đang phải hi sinh tăng trưởng thường niên và giá trị  tiền đồng, vốn cũng là điều đang khiến các nhà đầu tư lo ngại rằng sẽ  giảm độ hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam.
FDI sẽ quay trở lại ?
Các động thái của Nhà nước  Việt Nam trong thời gian gần đây cho thấy nỗ lực của phía chính quyền  trong việc tái khẳng định tính hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt  Nam.
Giới phân tích cho rằng, nỗ lực rơ rệt nhất, đó là việc tái ổn định kinh  tế vĩ mô, thắt chặt tín dụng và hạ mức lạm phát một cách quyết liệt kể  từ Nghị Định số 11 năm 2011.
Các đề án tái cơ cấu ngân hàng cũng như Doanh nghiệp nhà nước của chính  phủ Việt Nam trong thời gian gần đây cũng đang được đánh giá là có những  tác động tích cực lên tâm lí đầu tư nước ngoài.
Vấn đề giải ngân trong báo cáo của Cục thống kê cũng được các chuyên gia  cho là tốt hơn so với cùng ḱ năm ngoái, chứng tỏ sự tiến bộ trong công  tác quản lí nguồn FDI.
Sự gia tăng trong các mối quan hệ song phương gần đây giữa Việt Nam và  các nước Nhật, Mỹ, Nga cũng được cho là đang mở đường cho những nguồn  FDI đầy tiềm năng.
Tuy nhiên, có một điều mà giới quan sát đồng thuận, đó là Việt Nam cần  quyết liệt hơn nữa trong việc giải quyết các vấn đề hiện hữu trong cơ  cấu đă và đang khiến các khối đầu tư tỉ đô quay mặt đi
BBCNews