Peter Arnett làm việc cho hãng thông tấn Associated Press (AP) từ  1962 cho tới 1975 ở Việt Nam và qua đó là phóng viên lâu năm nhất ở tại  chỗ. Các bài viết mang nhiều tính phê phán của ông thường không làm cho  giới quân đội Mỹ và chính phủ Nam Việt Nam hài lòng. Đối với nhiều  người, ông là thông tính viên tốt nhất của Chiến tranh Việt Nam. Mới  đây, ông cũng nổi tiếng qua những bài tường thuật riêng cho CNN từ Chiến  tranh vùng Vịnh chống Iraq.
 
 Đầu 1964, những kế hoạch hoạt động bí mật đến từ Washington. Quyết  định đã được đưa ra, tấn công cảng và tàu ở Bắc Việt. Người ta thật sự  lo ngại, rằng vũ khí và quân lính được chở bằng tàu thủy dọc theo bờ  biển xuống Nam Việt Nam. Ngoài ra, chính phủ Mỹ muốn gây áp lực để làm  bất ổn định Bắc Việt Nam. Họ gửi gián điện ra miền Bắc để tuyên truyền  chống Hồ Chí Minh, họ gửi những người phá hoại, cho nổ tung vài cây cầu.  Các hoạt động này được quyết định ở Washington. Chúng rất bí mật, được  CIA điều khiển, từ các chuyên gia được che chắn rất tốt. Chúng được tiến  hành từ Nam Việt Nam, nhưng không ai biết điều đó, cả các phóng viên  lẫn người Việt. Một trong những kết quả của kế hoạch bí mật OPLAN 34A là  các sự kiện ở Vịnh Bắc bộ, những cái được chính phủ Mỹ trình bày như là  một cuộc tấn công tàu hải quân Mỹ. Tổng thống Johnson nói: “Chúng tôi  tuần tra trong vùng biển quốc tế, và người cộng sản tấn công.
 Chúng tôi không thể chấp nhận điều đó.” Điều mà ông không nói là  những chiếc tàu chiến này chở những người phá hoại và thâm nhập được đưa  lén vào Bắc Việt. Điều này được giữ bí mật trước công chúng Mỹ. Johnson  sử dụng những cuộc tấn công này để thu hút tình cảm quốc gia Mỹ. Và ông  đã khiến cho Quốc Hội đã trao cho ông tựa như là toàn quyền cho cuộc  chiến. Các nghị sĩ nói: “Chúng tôi ủng hộ tất cả những gì mà anh làm ở  đó!”, nếu như ông có thể ngăn chận được người cộng sản. Đó là lần ủy  quyền mà ông cần. Ông ấy là một chính trị gia rất khôn khéo. Nếu như  người ta biết  nhiều hơn về sự việc thì đã có thể có hạn chế rồi. Nhưng  như thế thì ông ấy đã có thể dùng sự kiện đó để thúc đẩy các ý tưởng  riêng của ông nhằm mở rộng cuộc chiến. Thật là bi kịch.
 Là phóng viên, chúng tôi luôn ở ngoài đó,  ở tại các cố vấn Mỹ cũng như tại những người lính Nam Việt Nam. Tôi tin  rằng chúng tôi hiểu rất tốt sự phát triển của cuộc chiến. Cuối 1964,  chúng tôi từ giới truyền thông hiểu được rằng phía cộng sản chiến đấu  với rất nhiều nhiệt tình, rất yêu nước. Người ta có thể nhìn thấy điều  đó, và chúng tôi viết về điều đó. Mặt khác, chúng tôi nhận ra rằng giới  chỉ huy quân đội Mỹ hết sức chán nản. Họ nhất quyết tiêu diệt Việt Cộng  và ngăn chận chủ nghĩa cộng sản, quyết định bảo vệ cái mà họ là “Nam  Việt Nam tự do”. Tướng Westmoreland yêu cầu có thêm quân, và thật sự là  ngày càng có nhiều quân lính đến. Đối với tôi, cuộc chiến này dường như  không bao giờ chiến thắng được – vì bản chất của cuộc xung đột, vì những  cánh đồng ruộng lúa, vì rừng rậm. Đó không còn là một cuộc chiến mà  người ta có thể quyết định trên chiến trường.
 Những tiếng nói yêu cầu một giải pháp ngoại giao bắt đầu vang to lên.  Cả tôi và đồng nghiệp của tôi cũng cho đó là giải pháp tốt nhất. Khi  những lực lượng đánh bộ đầu tiên đổ bộ xuống Đà Nẵng – và tôi tường  thuật về lần đến nơi của họ – lúc đó tôi bị sốc và buồn rầu, vì tôi có  cảm giác theo bản năng, rằng nước Mỹ sẽ thất bại ở Việt Nam. Lính Mỹ  không được huấn luyện cho cuộc chiến này. Ví dụ như khi lực lượng  Marines đầu tiên xuất quân thì 60 phần trăm người lính phải được mang  trở về bằng trực thăng, vì bị nóng quá mức, họ không thể chịu đựng được  nhiệt độ vùng nhiệt đới. Năm 1965, tôi theo lính dù vào rừng, và họ nắm  tay nhau, họ cầm tay nhau đi qua rừng rậm, với vũ khí ở trên vai, hết  sức sợ lạc nhau. Người Mỹ đơn giản là đã không chuẩn bị trước cho loại  chiến tranh này.
 Các lực lượng đánh bộ đầu tiên tới đây là những người lính chuyên  nghiệp, Marines, đã đăng ký tòng quân nhiều năm, cũng có cả lính dù nữa.  Tôi có cảm giác là những người chuyên nghiệp đang hoạt động ở đó, mặc  dù tổn thất đã tăng lên. Nhưng rồi đã trở nên tồi tệ hơn rất nhiều khi  những người lính nghĩa vụ tới đây, người trẻ tuổi, người Mỹ da đen và  nghèo, được tuyển chọn ở Detroit và New York và được gửi vào một cuộc  chiến mà họ hoàn toàn không muốn dính líu tới. Họ bắt đầu mang những dấu  hiệu hòa bình. Họ không muốn ở đây, không có lý do để chiến đấu ở đất  nước này. Lúc tường thuật về họ thì người ta nhanh chóng nhận thấy rõ  rằng họ không đủ khả năng cho nhiệm vụ đó, đánh đuổi người cộng sản. Họ  phải phục vụ một năm và đếm từng ngày cho tới lúc trở về quê hương. Vì  vậy mà Hoa Kỳ đã thất bại ở Việt Nam, vì họ không thành công trong việc  xây dựng một quân đội quyết tâm cho tới cùng cực. Việt Cộng ngược lại  thì chiến đấu vô điều kiện; không có nơi mà họ có thể trở về. Họ chiến  đấu cho quê hương của họ.
 Có một tiến bộ năm 1965/66, khi nước Mỹ gủi 300.000 người sang Việt  Nam. Người ta nhét họ vào các căn cứ, họ tăng cường cho lực lượng pháo  binh, có rất nhiều trực thăng hơn. Người ta có thể tựa người ra sau và  nói: “Chúng ta có 300.000 lính ở đây. Mỗi ngày họ đều đi ra ngoài để  thực hiện những hoạt động quân sự, tất cả đều tốt đẹp.” Nhưng khi vấn đề  là chiến thắng người cộng sản thì tất cả những điều đó đều vô ích. Vì  phía cộng sản ở Hà Nội nói rằng: “Được thôi, chúng tôi biết phải làm thế  nào!” Họ có thể phát triển một chiến lược để chiến thắng được người Mỹ.  Và chiến lược này tất nhiên là phục kích, chuyển cuộc chiến lên núi và  bảo vệ con đường mòn Hồ Chí Minh với rất nhiều lính cho những chiếc xe  tải của họ. Họ đơn giản là chơi cờ với chúng tôi.
 Westmoreland đóng quân trên toàn Nam Việt Nam, nhưng các hoạt động  quân sự thì không đáng giá tới một xu. Ví dụ như Củ Chi, nơi Sư đoàn 25  của chúng tôi đóng quân: Ở đó, người ta đã tính toán một một diện tích  nhất định, cần phải được “làm sạch”. Người ta đẩy người cộng sản ra khỏi  vùng này. Nhưng họ có đường hầm dưới mặt đất, và đơn giản là trốn đi xa  50 dặm trở vào rừng rậm. Tức là không hề có một thành công nào hết,  ngoài việc người cộng sản bây giờ cách xa một ngày đường hành quân.  Nhưng Westmorelnad có thể trở về nhà và nói rằng. “Có tiến bộ!”
 

Sài Gòn Tết 1968
 Về lâu dài thì không có tiến bộ. Cuối 1967, khi tướng Westmoreland ra  trước Quốc Hội và tuyên bố chiến thắng nằm trong tầm nhìn và có ánh  sáng ở cuối con đường hầm thì tôi viết rằng điều đó là tầm bậy. Người Mỹ  kẹt trong một ngõ cụt. Họ không thể xua đuổi người cộng sản ra khỏi đất  nước đó. Năm 1968 sẽ có những trận đánh lớn. Tôi viết điều đó, những  người khác cũng viết như vậy. Đánh giá đó của năm 1967, thắng cuộc chiến  này, là điều vô lý. Người cộng sản nghỉ ngơi dưỡng sức cho tới mức họ  có thể tiến hành những trận đánh lớn. Rồi điều này cũng xảy ra vào cuối  tháng Giêng 1968 với đợt tấn công Tết Mậu Thân. Tôi nghĩ là ý kiến công  chúng ở Hoa Kỳ sau đó đã quay ngược 180 độ ngay lập tức. Người đọc tin  tức của CBS Walter Cronkite lúc đó hỏi trực tiếp trên truyền hình: “Đang  xảy ra những gì ở đó? Tôi nghĩ là chúng ta sắp thắng cuộc chiến này rồi  cơ mà!”
 Đợt tấn công Tết Mậu Thân cho tới nay là một trong những hoạt động  gây tranh cãi nhiều nhất của toàn bộ cuộc chiến. Có hai quan điểm khác  nhau. Một quan điểm cho rằng phía cộng sản đã tiến hành một chiến dịch  xuất sắc mà với nó họ đã làm cho người Mỹ và người Nam Việt Nam mất tinh  thần chiến đấu, và thắng cuộc chiến. Cách nhìn kia là đợt tấn công dịp  Tết Mậu Thân đã thất bại và người Mỹ đã bỏ lỡ cơ hội để đâm nhát dao kết  liễu Việt Cộng. Tôi ở bên phía của những người nói rằng đó là một chiến  lược quân sự và chính trị xuất sắc của người cộng sản. Westmoreland về  Hoa Kỳ năm 1967 để tuyên bố chiến thắng sắp đến, và trong tháng Giêng  1968 ở Sài Gòn, người ta tin rằng chiến tranh tuồng như đã chấm dứt rồi.  Tất cả những điều đó đã bị ném vào đống rác khi Việt Cộng tấn công 40  thành phố và giết chết nhiều lính Mỹ và người Việt. Người Mỹ bị đánh  trúng đến tận xương tủy: sự việc, rằng kẻ địch xâm nhập vào cho tới khu  đất của đại sứ quán và bao vây phi trường. Nó làm lung lay niềm tin của  giới công chúng. Tổng thống Johnson sụp xuống; tất cả những điều này đã  dẫn tới quyết định của ông, không tái ứng cử. Tết Mậu Thân đã làm thay  đổi tiến trình lịch sử.
 Thời đó, tôi nhìn thấy người cộng sản đã có những tổn thất nào trong  đợt tấn công. Nhiều du kích quân của miền Nam bị giết chết, vì họ đã hy  sinh. Hàng ngàn và hàng ngàn người trong số họ đã chết. Nhưng qua đó họ  đã cho thấy rõ rằng Hoa Kỳ không dễ dàng thắng được cuộc chiến này. Và  điều đó là hoàn toàn không thể chấp nhận được đối với công chúng Mỹ, vì  sự sẵn sàng để tiếp tục bước sâu hơn vào trong đó đã cạn kiệt. Trên khắp  nước đã có những cuộc biểu tình phản đối. Đó là một lần thức tỉnh dữ  dội. Trận tấn công Tết Mậu Thân cần phải đi vào lịch sử như là một trong  những trận đánh lớn nhất và quan trọng nhất của thế kỷ 20.
 Nhìn toàn cuộc thì giới công chúng của chúng tôi đã ủng hộ cuộc chiến  trong những năm sáu mươi. Những sự lộn xộn sau đó của Đệ nhị Thế chiến,  cuộc Chiến tranh Lạnh – điều đó làm cho phần lớn người Mỹ tin rằng Liên  bang Xô viết là một mối đe dọa, và nhân danh dân chủ để chịu trách  nhiệm cho những vùng đất xa xôi là chính danh. Ngay cả khi các tổn thất ở  Việt Nam mỗi lúc một tăng lên, phần lớn vẫn còn hậu thuẫn cho chính  phủ. Ngày càng có nhiều phản đối trong giới sinh viên, những người tránh  xa cuộc chiến; nhiều người trí thức cho đó là một cuộc chiến tranh  thuộc địa. Năm 1968, cuộc đấu tranh vì quyền dân sự đã làm tê liệt các  trường đại học. Con số những người biểu tình tăng lên. Đã thấy rõ là  phần lớn người Mỹ không còn muốn có chiến tranh nữa. Khi Nixon thâm nhập  sang Campuchia năm 1970, sinh viên không muốn chấp nhận điều đó. Phản  đối bùng nổ trên khắp nước. Nixon thật sự là đã bị bắt buộc phải rút  lui. Ông đã trì hoãn điều đó, Kissinger đã trì hoãn điều đó. Nhưng rồi  năm 1973 họ cuối cùng cũng rút quân đội Mỹ về. Vào thời điểm này, giới  công chúng đã quá chán ngán cuộc Chiến tranh Việt Nam – họ vẫn còn chán  ngán cuộc chiến này.
Tôi ở lại Sài Gòn cho tới khi kết thúc, để tường thuật về lần chiếm  thành phố.  Tôi đã ở đó ngay từ đầu của cuộc chiến và cho rằng tôi cũng  cần ở đó khi nó kết thúc, để thông báo sự thật về các sự kiện. Người  cộng sản có hành hình nhiều người không? Họ làm thế nào để quản lý thành  phố? Có một cuộc chiếm đóng không khoan nhượng hay không? Tôi cảm thấy  mình sẵn sàng ở lại, đánh liều tính mạng và quan sát mọi việc.
 Khi tôi nhìn thấy họ, những người chiến thắng, tiến quân vào trên  những chiếc xe tải và xe tăng của họ và trong những bộ quân phục, lúc đó  tôi nghĩ – và tôi cũng viết cho AP – rằng toàn bộ cuộc chiến đúng là  một sự phung phí đẫm máu thời gian. Toàn bộ lần tham chiến của Hiệp  Chúng Quốc Hoa Kỳ, sự cống hiến của những con người trẻ tuổi, hàng tỉ  dollar, sự hy sinh của người Nam Việt – giống như tất cả những việc đó  chỉ chấm dứt trong khoảnh khắc này, khi những người chiến thắng tiến  quân vào. Họ chào mừng, họ tiếp nhận quyền chỉ huy một cách nhanh chóng  và tự chủ. Điều mà phía Mỹ chiến đấu cho nó thì thật ra chỉ là một ý  tưởng tuyên truyền, mang lại cho người Nam Việt lối sống Mỹ, điều mà đã  không bao giờ thành công, không bao giờ có thể nhận ra được. Và trong  khoảnh khắc đó tôi rất đau buồn, rằng nói chung là cuộc chiến này đã  được tiến hành. Người cộng sản cũng có thể tiến vào Sài Gòn trước đó 20  năm, sau khi họ đánh bại người Pháp. Thế nhưng Hoa Kỷ đã ngăn chận những  cuộc bầu cử thống nhất được ấn định ở Genève cho năm 1956 và qua đó là  ngăn chận một lần tiếp nhận quyền lực một cách hòa bình. Tôi rất bực tức  và buồn rầu, rằng tất cả mọi cố gắng đã thành thừa thải. 60 nhà báo  cũng bị giết chết, bên cạnh hàng triệu người lính và dân thường người  Việt, đó mới là một bi kịch thật sự. Cuộc chiến kéo dài này không hề  mang lại điều gì tốt đẹp cho người Nam Việt hay Hoa Kỳ hết. Nó tàn bạo,  nó giết người. Và nó là một thất bại hoàn toàn.
 
Phan Ba trích dịch từ “Apokalypse Vietnam”