Đó là một  khu vực, một hướng, mà dưới đó “sạch”, không có tàu ngầm địch và ngư lôi  địch uy hiếp tàu chiến mặt nước của Hải quân Việt Nam.
 Trước hết phải khẳng định rằng tàu ngầm KILO của Việt Nam không phải là  “chiếc nỏ thần” như của An Dương Vương. Bởi v́ không những nó ít ỏi mà  đằng sau nó đang c̣n nhiều thách thức từ việc điều động tàu cho đến sử  dụng trong tác chiến…mà đ̣i hỏi bản lĩnh và trí tuệ cao.
  Cần lưu ư là cả hai cuộc chiến thế giới đều kết thúc với thất bại chính  thức của ư tưởng chiến tranh tàu ngầm. Sau Thế chiến I là bởi việc ứng  dụng hệ thống các đội tàu có áp tải và thiết bị thủy âm ASDIC, trong Thế  chiến II là sự ứng dụng radar và máy bay…đă làm cho tàu ngầm trở thành  “con mồi” thay v́ “kẻ đi săn”.
  Ngày nay, dù tàu ngầm được phát triển vượt bậc th́ các phương tiện săn  ngầm cũng không kém, khiến cho tàu ngầm phải thêm một chức năng sống c̣n  nữa là lẩn trốn. Cho nên, theo logic đó th́ hy vọng hoàn toàn về tàu  ngầm trong tương lai là điều xa xỉ.
  Nhưng tại sao tàu ngầm vẫn là “thực đơn” không thể thiếu, rất quan trọng của Hải quân các quốc gia ven biển?
  Thứ nhất, nói ǵ th́ nói, tất cả những ǵ thuộc về tàu ngầm và lực lượng  săn ngầm đều là lư thuyết suông. Thế giới hơn 68 năm nay lực lượng tàu  ngầm, lực lượng săn ngầm chưa có cuộc chiến đấu nào cùng nhau hoặc đối  đầu, trong khi những ǵ thu được từ cuộc chiến trên quần đảo Manvinat đă  trở nên quư hiếm mà chưa đủ đô để kiểm nghiệm.
  Thứ hai là tàu ngầm tỏ ra quá nguy hiểm, lợi hại đối với những quốc gia  và các phương tiện lưu thông trên biển mà khả năng chống ngầm hạn chế  khiến rất dễ bị tổn thương.
  Cuối cùng là, mỗi quốc gia có cách sử dụng tàu ngầm khác nhau cho mục  đích khác nhau. Như tuyên bố của tướng Phùng Quang Thanh-Bộ trưởng quốc  pḥng Việt Nam là “tàu ngầm KILO chỉ để bảo vệ vùng biển của Việt Nam,  gồm thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế và lănh hải của Việt Nam, không  có mục đích sử dụng nào khác”.
 
  
  Thế trận liên hoàn hỗ trợ tấn công, bảo vệ lẫn nhau giữa KILO, tàu tên  lửa, hệ thống Bastion-P…cho hải chiến du kích kiểu Việt Nam phát huy tác  dụng.
 
   T́nh h́nh hiện nay, với vũ khí trang bị pḥng thủ biển hiện có th́ Việt  Nam đủ sức làm chủ mặt biển và không hải phận. C̣n ḷng biển và đáy  biển?
  Sự xuất hiện lữ đoàn tàu ngầm KILO của Việt Nam cũng không nằm ngoài bối  cảnh đó và dĩ nhiên được kỳ vọng là phải hoàn thành tốt chức năng nhiệm  vụ được giao phó, trong đó nhiệm vụ ngăn chặn, tiêu diệt tàu ngầm địch  trong vùng biển của ta đồng nghĩa với việc bảo vệ cho tàu chiến mặt nước  của chúng ta không bị tàu ngầm địch uy hiếp là nhiệm vụ quan trọng bậc  nhất mang tính sống c̣n.
  Nếu chúng ta không ngăn chặn được tàu ngầm địch, để chúng lọt vào tuyến  pḥng thủ th́ chiến lược chống tiếp cận bị phá sản, đặc biệt khi đó coi  như phần “mềm” hải chiến du kích đă bị “virus” tấn công, thế trận pḥng  thủ mất liên hoàn, không hỗ trợ được cho nhau nên sẽ rất khó khăn để các  lực lượng thực hiện nhiệm vụ.
  Chẳng hạn, khi tàu ngầm địch được tung hoành chỉ cần ở vùng giáp lănh  hải th́ nó hoàn toàn ngăn chặn hoạt động của tàu mặt nước chúng ta triển  khai đến vị trí xuất phát tấn công (một tiền đạo nhận bóng để tấn công ở  giữa sân và ở sát cầu môn th́ vị trí nào tấn công sẽ nguy hiểm cho đối  phương hơn?).
  Các tàu phóng lôi, tên lửa Việt Nam giống như cánh tay nối dài của  Bastion-P và được hệ thống này bảo vệ không sợ tàu chiến mặt nước của  địch tấn công trong phạm vi 300 km tính từ bờ. Nếu lực lượng này mà bị  tàu ngầm địch uy hiếp, triệt hạ th́ coi như hệ thống Bastion-P không c̣n  tác dụng cho bảo vệ Trường Sa.
  Khi Trường Sa bị tấn công th́ sự hỗ trợ của tàu chiến mặt nước bị cắt  đứt, kẻ địch được rảnh tay chỉ đối phó với Không quân Việt Nam và đương  nhiên Không quân Việt Nam sẽ phải một ḿnh thực hiện nhiệm vụ khó khăn,  nặng nề hơn.
  Đó là lư do v́ sao Việt Nam c̣n sắm thêm 2 chiếc Gerpad chuyên về chống  ngầm và nếu như không nhầm th́ trong mỗi chiếc tàu ngầm KILO Việt Nam  tính năng chống ngầm được ưu tiên nhất, cấp thiết nhất.
 
  
  Thủy lôi chống ngầm, 24 quả mà KILO mang theo, rải xuống trên tuyến  chống ngầm cũng it nhất là làm cho tàu ngầm địch “khựng” lại buộc chúng  phải “đi theo lối khác”.
 
   Chống ngầm hiệu quả nhất là dùng tàu ngầm để chống tàu ngầm, v́ vậy, ít  nhất có 2/6 KILO chuyên về chống ngầm. Và, nếu như Việt Nam mua thêm máy  bay chống ngầm của ai đó th́ không có ǵ thắc mắc.
  Đương nhiên trên một khu vực bảo vệ rộng hơn 1 triệu km vuông biển đảo  th́ không nhất thiết phải “sạch” hết, tức là không có tàu ngầm địch,  không có thủy lôi địch…v́ chúng ta không có khả năng, nhưng trên một khu  vực cần thiết th́ nhất thiết phải tạo ra một khu vực biển “sạch”. Tại  sao phải “sạch” th́ chúng ta đă hiểu, c̣n đó là khu vực nào, hướng  nào…th́ chúng ta không cần biết v́ đó là việc của Bộ TM Hải quân.
  Như vậy, tàu ngầm Việt Nam xuất hiện cùng với các phương tiện chống ngầm  khác sẽ tạo ra được một khu vực biển “sạch” mà ở đó trời của ta, mặt  biển của ta, ḷng biển của ta. Khu vực biển “sạch” mà ở đó xuất hiện một  thế trận như sau:
  Thứ nhất, các lực lượng được bảo vệ nhau liên hoàn. Ví dụ: tàu ngầm hoạt  động không sợ máy bay săn ngầm địch v́ đă có tàu mặt nước và không quân  phía trên, tàu chiến cơ động không sợ tàu ngầm và tàu chiến lớn của  địch v́ có tàu ngầm KILO ở dưới, không quân ở trên và Bastion-P từ bờ…
  Các lực lượng này như những dầm chịu lực, cái th́ chịu lực nén, cái th́  chịu lực xoắn…liên kết với nhau trong một khối-khu vực nên không ngại va  chạm. Như vậy có thể nói, độ an toàn khi triển khai tấn công của các  lực lượng của ta rất cao.
  Thứ hai là cho phép phía pḥng thủ hoàn toàn nắm quyền chủ động tác  chiến. Nghĩa là Việt Nam có thể sẵn sàng đối đầu một trận khi xác định  chắc thắng như kinh nghiệm đánh trận Điện Biên Phủ hoặc có thể chọn trận  mà chơi, chọn nơi mà đánh theo cách tập kích hay phục kích.
  Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, tàu ngầm KILO của Hải quân Việt Nam xuất hiện  là nhu cầu tất yếu của thế trận pḥng thủ biển đảo. Trong “sơ đồ chiến  thuật” này, tàu ngầm KILO không phải là tất cả nhưng là một yếu tố không  thể thiếu. Thiếu nó trong khi hệ thống chống ngầm hạn chế th́ chiến  lược chống tiếp cận bị phá sản. Thiếu nó hải chiến du kích sẽ gặp vô vàn  khó khăn, đặc biệt là bảo vệ Trường Sa.
  Vậy, tàu ngầm KILO Việt Nam trong hải chiến du kích sẽ thể hiện như thế  nào với các lực lượng khác? Thế nào là đ̣n “3 đánh 1” hay lực lượng phân  tán hỏa lực tập trung?
  Năm 2011 trong bài viết “Tàu ngầm Việt Nam, nguy cơ mới cho quân xâm  lược”, tôi đă nêu một quan điểm: “…như vậy trong tay Việt Nam tàu ngầm  hoạt động rất ít giống với quy ước, nó được sử dụng, biến đổi thành rất  nhiều chiêu thức nguy hiểm. Nhà sản xuất cũng không nghĩ ra là có lúc nó  sẽ như thế.
  Cũng là giống Hổ, Hổ ở châu Phi có cách săn mồi với những pha rượt đuổi  đầy ngoạn mục nhưng Hổ ở Việt Nam không săn mồi như thế v́ không có đồng  cỏ rộng để rượt đuổi, không có hàng trăm con mồi mà tha hồ lựa chọn. Hổ  Việt Nam chỉ ŕnh mồi ở những vị trí mà con mồi hay đi qua và bắt buộc  phải đi qua. Và khi con mồi đă trong “tầm vồ” th́ ... mới gọi là Chúa  sơn lâm”.
  Rơ ràng ŕnh mồi ở nơi con mồi hay đi qua th́ ai cũng biết nên khó thành  công, c̣n ŕnh mồi ở nơi con mồi bắt buộc phải đi qua th́ chắc ăn,  nhưng làm sao để con mồi “buộc phải đi qua” là cả một nghệ thuật bày  mưu, tính kế nhà binh.
  Vậy tàu ngầm KILO Việt Nam có cơ hội nào để ŕnh đúng chỗ địch “bắt buộc phải đi qua”?
SH