“Minh Mạng thang” - một bài thuốc đông y được cho là  liên quan đến sự nhiều vợ, đông con của Vua Minh Mạng triều Nguyễn -  hiện đã được một công ty dược sản xuất đại trà hơn chục năm nay. 
Tuy nhiên đến thời điểm  này, có hay không “Minh Mạng thang” trong lịch sử vẫn đang còn là một  dấu hỏi.
 
43 phi tần và 142 con
 Theo Nguyễn Phúc Tộc Thế phả (NXB Thuận   Hoá, 1995), Vua Minh Mạng sinh năm 1791, tên là Nguyễn Phúc Đảm, là con   thứ tư của Vua Gia Long. Ông lên ngôi vua năm 1820, lấy niên hiệu là   Minh Mạng.
 Cho đến nay, không có tài liệu cho biết  cụ thể và chính xác  chân dung, thể lực của ông thế nào ngoài các thông  tin: “Thông minh,  hiếu học, giỏi cưỡi ngựa, bắn cung; rất siêng năng,  thức khuya, dậy sớm  xem xét công việc, có khi thắp đèn đọc sớ chương  các nơi gửi về đến canh  ba mới nghỉ”.
 
 
                               
Nơi đây, ngày xưa là chỗ làm việc của Thái y viện triều Nguyễn.     Ảnh: H.V.M
 Trong cuốn “Kể chuyện các đời vua nhà   Nguyễn” do Nguyễn Viết Kế sưu soạn (NXB Đà Nẵng, 1996; trang 22) viết:   “Bình nhật, khi nghỉ ngơi, vua có 5 bà vợ hầu hạ: Một bà vấn thuốc têm   trầu, một bà quạt, một bà đấm bóp, một bà ru và một bà để sai vặt. 
 Mỗi  đêm, vua cho thái giám gọi 5 bà vào  hầu. Mỗi bà một canh. Hết 5 canh thì  danh sách các bà được chuyển giao  cho Tôn Nhơn phủ giữ để tiện theo dõi  việc khai hoa nở nhụy của các bà  sau này”. Và theo danh sách này, Vua  Minh Mạng có “quan hệ” với 43 phi  tần và sinh hạ được 142 người con,  trong đó có 78 hoàng nam, 64 hoàng  nữ. Ông cũng là vị vua có nhiều phi  tần và đông con nhất trong số 13  vua triều Nguyễn.
 Tương truyền rằng, để Vua Minh Mạng có   “sức đàn ông” phi thường, các ngự y trong triều đã nghiên cứu, bào chế   những bài thuốc có tính năng tráng dương bổ thận cho thiên tử dùng. Các   bài thuốc đó, ngày nay còn lưu truyền với tên gọi “Minh Mạng thang” gồm   20 bài (có tài liệu ghi 24 bài).
 Trong đó, hai bài nổi tiếng nhất, được   các thầy thuốc dùng chữa bệnh nhiều nhất hiện nay là “nhất dạ lục giao   sinh ngũ tử” (một đêm quan hệ 6 lần sinh 5 con trai) và “nhất dạ ngũ   giao sinh tứ tử” (một đêm quan hệ 5 lần sinh 4 con trai). Xem ra Vua   Minh Mạng cũng không thua kém gì thần Hercule trong thần thoại Hy Lạp:   Một đêm quan hệ với 50 phụ nữ và có đến... 49 cô thụ thai(!).
 Một bác sĩ Tây y cho rằng câu chuyện   “lục giao” hay “ngũ giao” chỉ là sự ngoa dụ thường thấy trong lối văn   cổ, vì đó là điều không tưởng. Bởi theo ông, mỗi lần giao cấu, con người   chỉ bắn tinh khí ra khoảng 2 – 4ml và muốn làm thụ thai, mỗi mililít   tinh khí phải chứa 100 triệu tinh trùng và số tinh trùng quái dị phải   dưới 20%. Khối lượng và sự đậm đặc của tinh khí thường giảm xuống mau   chóng sau nhiều lần giao cấu liên tục. Như vậy trong một đêm 5 lần 6   lượt tính giao thì những lần sau chỉ có mà... bắn súng nước!
 
 
                               
Chân dung Vua Minh Mạng.
 Tuy vậy, với tên thuốc và những dữ liệu   liên quan đến chuyện phi tần, con cái của Vua Minh Mạng, nhiều người  tin  rằng “Minh Mạng thang” là một loại “dâm dược” kiểu như Viagra có  thể  giúp họ cải thiện bản lĩnh đàn ông. Mấy chục năm qua, không chỉ ở  Huế mà  khắp nơi trong Nam ngoài Bắc, cửa hàng đông dược nào cũng có  riêng cho  mình mấy bài “Minh Mạng thang” và sẵn sàng bốc cho ai có nhu  cầu về ngâm  rượu uống. Rượu “Minh Mạng thang” pha sẵn bán lẻ theo “xị”  cũng có thể  được chào hàng ở các quán rượu của nhiều địa phương.
 Tại Huế - “quê hương” của “Minh Mạng   thang” - năm 1998, Cty dược phẩm Thừa Thiên – Huế đã chủ trì đề tài   nghiên cứu khoa học: “Nguồn gốc bài thuốc “Minh Mạng thang” và đề xuất   các bài thuốc phù hợp trong sản xuất rượu Minh Mạng”, sau đó cho sản   xuất đại trà rượu này để bán ra thị trường. Mấy năm trước, “Minh Mạng   thang” của Cty dược phẩm Thừa Thiên – Huế còn là sản phẩm “đặc thù” để   làm quà tặng cho khách quý trong, ngoài nước của tỉnh.
 
Chưa tìm thấy nguồn gốc
 “Minh Mạng thang” nổi tiếng là vậy,   nhưng cho đến nay, các lương y ở Huế và cả nước chưa ai tìm thấy xuất   xứ, nguồn gốc của bài thuốc. Nguyên nhân được lý giải rằng “Minh Mạng   thang” là bài thuốc thuộc loại tối mật của triều đình nhà Nguyễn do các   ngự y trong thái y viện bốc riêng cho vua, không ai được phép bắt  chước,  kể cả đại quan cận thần. Tuy nhiên, do thấy rõ công hiệu phi  thường của  “Minh Mạng thang” nên một số quan lớn trong triều đã “móc”  nối với các  ngự y trong thái y viện để lén lút sao phái thuốc đưa ra  ngoài.
 Bởi vậy các bài “Minh Mạng thang” được   sử dụng lâu nay ở Huế chủ yếu là từ lưu truyền của một số gia đình và...   sao chép trên các báo và tạp chí! Lương y Phan Tấn Tô - Phó Chủ tịch   Hội Đông y tỉnh Thừa Thiên – Huế - cho biết, lần đầu tiên ông tiếp xúc   với phương thuốc “Minh Mạng thang” là từ sách “Những phương thuốc bổ và   trường xuân trong y học cổ truyền Đông phương” của lương y Lê Văn Sơn,   NXB Sông Bé, 1987. Còn theo tài liệu của chúng tôi, bài “Minh Mạng   thang” được công bố sớm nhất là trên nhật báo Sống, Sài Gòn, 27.4.1968,   gồm 25 vị thuốc.
 Hiện tại, Hội Đông y Thừa Thiên – Huế   đang thực hiện đề tài “Thu thập, biên dịch và đề xuất hướng sử dụng các   bài thuốc của Thái y viện triều Nguyễn” theo đặt hàng của UBND tỉnh  Thừa  Thiên – Huế nhằm chuẩn bị việc phục hồi mô hình thái y viện, đưa  vào  khai thác du lịch.
 “Chúng tôi đã lục tung tất cả các thư  tịch liên quan  đến thái y viện, thậm chí đã tiếp xúc với 300 châu bản  là các bài thuốc  của Thái y viện triều Nguyễn, trên đó có châu phê và  chữ ký của các ngự  y, hiện đang được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc  gia I, nhưng vẫn  không tìm thấy bài “Minh Mạng thang” - lương y Phan  Tấn Tô nói. Trước  đó, ông cũng đã tiếp xúc với các châu bản triều  Nguyễn tại Trung tâm Lưu  trữ quốc gia IV ở Đà Lạt, nhưng kết quả cũng  không có gì mới.
 Vậy nên không lạ lắm khi nhiều người   nghi ngờ về sự tồn tại và tính chân xác của “Minh Mạng thang”. Lương y   Thích Tuệ Tâm - Giám đốc Tuệ Tĩnh đường Liên Hoa ở Huế - là một trong   những người sưu tầm được nhiều nhất các dị bản “Minh Mạng thang” (17   bài).
 Ông cũng thường xuyên sử dụng hai bài  “nhất dạ...” vừa kể để bốc  cho người bệnh có nhu cầu từ nhiều năm nay.  Ông bình luận: “Về mặt tính  dược, đây chỉ là một bài thuốc thông  thường, có chức năng bồi bổ khí  huyết, bổ thận, tráng dương, không phải  là thuốc hứng dục kiểu như  Viagra hiện nay, nên không có gì đặc biệt  lắm vì thuốc bổ thận tráng  dương thì đông y có nhiều bài, trong đó có  bài còn hay hơn Minh Mạng  thang nhiều”.
 Thêm nữa, trong hai bài “nhất dạ lục   giao sinh ngũ tử” và “nhất dạ ngũ giao sinh tứ tử”, thì chỉ có bài thứ   hai (ngũ giao...) có nhiều vị thuốc thiên về bổ thận tráng dương. Còn   bài đầu tiên (lục giao...) lại thiên về thu phong trừ thấp với nhiều vị   thuốc trị đau lưng, nhức mỏi gân cốt. Ông phỏng đoán: “Theo tôi, việc   Vua Minh Mạng có nhiều phi tần và sinh nhiều con, có thể là do ông bẩm   sinh cường tráng và có năng lực đặc biệt trong chuyện đó chứ không hoàn   toàn phụ thuộc vào những bài thuốc này, có thể do đời sau gán vào cho  ly  kỳ mà thôi”.     
 Lương y Thích Tuệ Tâm một lần nữa khẳng   định: “Minh Mạng thang” không phải là “dâm dược” mà là một bài thuốc  bồi  bổ nguyên khí, bổ thận tráng dương rất tốt cho sức khoẻ, dù trẻ hay   già, có bệnh hay không có bệnh. Tuy nhiên, đây là bài thuốc cần có sự   gia giảm tuỳ theo thời tiết và thể trạng của từng người (ví dụ mùa đông   thì tăng thêm các vị nóng; người yếu thận thì phải tăng thêm các vị bổ   thận; người không yếu thận nhưng bị phong thấp thì giảm bổ thận, tăng  vị  chống nhức mỏi...), nên muốn sử dụng hiệu quả thì phải tìm đến thầy   thuốc bắt mạch kê đơn. Còn uống rượu sản xuất đại trà, hoặc tự mua về   ngâm rượu uống thì hầu như không có tác dụng, và có khi còn tác dụng   ngược...”. 
 Vậy là có hay không “Minh Mạng thang”,   đến bây giờ vẫn chưa có câu trả lời chính xác. Nhiều vị lương y cho rằng   việc tìm ra nguồn gốc “Minh Mạng thang” là cần thiết. Tuy nhiên, việc   cần thiết hơn bây giờ là tìm hiểu logic chung của tất cả các bài thuốc   có tên “Minh Mạng thang” được lưu truyền lâu nay để trên cơ sở đó không   phủ nhận chúng và tìm cách để bài thuốc đó phát huy hiệu quả tốt hơn   nữa.