Về bản chất, cách dùng người của Trump không khác gì cách của các lãnh tụ cộng sản. Nếu nói theo ngôn ngữ toán học thì khác dấu và hoàn toàn giống ở “trị tuyệt đối”.
Nếu về cá nhân các lãnh tụ cộng sản trọng dụng những kẻ trung thành với mình thì trong chính sách chung, chế độ cộng sản ưu tiên thành phần công nông và những kẻ có “lý tưởng xã hội chủ nghĩa”.
Trump cũng trọng dụng những kẻ trung thành với mình, những kẻ thuộc “giai cấp” tỷ phú và những thành phần cực hữu [1].
Mặt khác, như có thể phân tích, cách dùng người của các lãnh tụ cộng sản – từ cấp trung ương đến cấp địa phương – thể hiện cách vận hành của chế độ cộng sản.
Chế độ này phát triển theo khuôn khổ những “kế hoạch 5 năm” vạch ra trong các đại hội đảng, rồi đến lượt, các kế hoạch này được chia nhỏ để tiến hành hay thúc đẩy theo các “phong trào thi đua”.
Đặc biệt, khi bị sa vào tình trạng khủng hoảng, suy thoái, chỉ tiêu kế hoạch có thể không đạt được, thế là họ bắng nhắng… phát động phong trào. Cũng có lúc những lãnh tụ này thấy sự nghiệp chính trị của mình sao mà… nhạt quá, phải làm cái gì đó cho xôm tụ, thế là moi óc ra tìm cái gì đó để… phát động phong trào, cho xôm.
Nếu “vinh quang” của lãnh tụ tối cao ở trung ương phụ thuộc vào thành tựu của các kế hoạch 5 năm thì đường thăng tiến của các lãnh tụ thấp hơn lại phụ thuộc vào những kế hoạch con và sự sôi nổi và “hoành tráng” của các “phong trào thi đua”.
Do đó, những cán bộ có khả năng “phát động phong trào” thường có cơ hội thăng tiến, vì được việc và dễ lọt mắt xanh cấp trên.
Nhưng thường thì đây là những kẻ chỉ có tài vặt, tài làm ảo thuật chứ không phải thực tài. Đó là tài ăn nói, tài bày vẽ, tài văn nghệ, tài “hiện thực hóa” ý đồ của cấp trên về mặt trình diễn để có những bản báo công đẹp, chứ không hẳn là tài kinh bang tế thế. Chính vì vậy nên, hầu như trong mọi vụ đổ bể hay tai tiếng của các cơ quan nhà nước, các vụ phá sản của những công ty quốc doanh, công chúng mới biết là những quan chức nắm giữ các vị trí trọng yếu tại đây phần đông đều xuất thân từ những cán bộ “phát động phong trào”.
Như Võ Kim Cự, cựu Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh, là kẻ chịu trách nhiệm trực tiếp trong vụ ô nhiễm Formosa vào năm 2016 khi Công ty Fomorsa của Đài Loan ngang nhiên xả thải ở Vũng Án, làm ô nhiễm cả một vùng biển rộng lớn, khiến cá chết hàng loạt từ Hà Tĩnh đến Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế. Nhìn lại đường quan lộ thì Cự chính là kẻ được chiếu cố do có tài hưởng ứng trong nền chính trị “phát động phong trào” từ khi chỉ còn là một Bí thư huyện đoàn:
“Khi ấy, Đoàn Thanh niên phát động phong trào thanh niên lập nghiệp; đang là bí thư Huyện Đoàn Cẩm Xuyên, ông Cự mạnh dạn đi đầu thành lập một xí nghiệp thanh niên phát triển kinh tế. Ông Hà Quang Dự (lúc đó là Bí thư thứ nhất T.Ư Đoàn) khi về làm việc với tỉnh Đoàn, đi khảo sát mô hình của Võ Kim Cự đã nhận xét “cậu này hăng hái…”. Sau đó, ông Hà Quang Dự trao đổi với ông Nam (Dương Xuân Nam, tổng biên tập báo Tiền Phong) nên tìm cách giúp Võ Kim Cự vượt qua khó khăn ban đầu, phát triển kinh tế, thắp sáng nhân tố mới, tạo sức lan toả trong thanh niên. “Báo Tiền Phong cho Võ Kim Cự vay một số tiền đáng kể thời điểm đó để xây dựng xí nghiệp…”, ông Nam nói. Sau này, ông Nam và báo Tiền Phong, T.Ư Đoàn tiếp tục quan tâm giúp đỡ chàng thanh niên hăng hái Võ Kim Cự trong công tác Đoàn cũng như phát triển xí nghiệp thanh niên và trong cuộc sống” [2].
Chúng ta thấy gì?
Bí thư Trung ương Đoàn Hà Quang Dự “phát động phong trào” và phong trào có “thành công tốt đẹp” thì Dự mới có bệ phóng để tiến thân.
Cự nắm ngay cơ hội, ra mắt trình diễn ngay với “xí nghiệp thanh niên phát triển kinh tế” dù vốn liếng chẳng có mấy đồng, nhưng cần gì, cái chính là Cự lọt mắt xanh của Dự.
Mà Dự cũng biết rõ “xí nghiệp” của Cự là thứ hữu danh vô thực nên mới ra lệnh báo Tiền Phong ứng tiền cho vay, dù tớ báo không phải là ngân hàng. Nghĩa là Dự cần Cự mà Cự cũng cần Dự.
Thành tích chính trị của Dự phụ thuộc vào bản báo công từ “phong trào” này, mà để báo công cho hay thì phải cần những người như Cự, như là “nhân tố mới” để “tạo sức lan tỏa”.
Họ không nói nhưng có thể nhận ra rằng cái xí nghiệp của Cự cũng chẳng làm nên cơm cháo, phải sinh tồn nhờ vào sự chiếu cố đặc biệt của cấp trên: “Sau này, ông Nam và báo Tiền Phong, T.Ư Đoàn tiếp tục quan tâm giúp đỡ chàng thanh niên hăng hái Võ Kim Cự..”
Đây là mối quan hệ cộng sinh và nó đã hình thành nên một liên minh chính trị lâu dài, ít ra cho đến khi Cự rơi đài.
Như vậy thì tài “phát động phong trào” chỉ là tài trình diễn, tài đón gió, tài chứng tỏ sự “hăng hái” khi hưởng ứng ý đồ cấp trên. Trong trường hợp trên thì việc “thanh niên lập nghiệp” có thực sự hữu ích, có bền vững lâu dài hay không, không quan trọng. Quan trọng là cái “khí thế” tạo ra và những báo cáo thật đẹp để cấp trên hài lòng.
Nhờ vậy mà sau này Dự mới thăng tiến, trở thành Bộ trưởng kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Thể dục thể thao, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Thể dục thể thao, Chủ tịch Ủy ban Olympic Việt Nam.
Và Cự cũng vậy, từng bước đi lên rồi trở thành ông vua đất Hà Tĩnh. Nhưng do chỉ có tài trình diễn, tài đón đầu với ý đồ của cấp trên mà không có tầm nhìn của một nhà quản trị, một người xây dựng chính sách, Cự mới bị những tài phiệt Đài Loan qua mặt để tàn phá môi trường sinh thái của đất nước.
Trở lại với Trump, có thể thấy, Trump tập hợp quanh mình những kẻ trung thành, những nhà tài phiệt và những nhân vật truyền thông, là người có tài trình diễn. Thậm chí cả Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth cũng là người dẫn chương trình của đài truyền hình Fox, nghĩa là Trump muốn tìm những tay chân có khả năng “phát động phong trào”.
Dùng người như thế thì cách khoe khoang công trạng cũng thế: Trump cũng giống hệt các lãnh tụ cộng sản ở cách báo công.
Làm gì, đi đâu, tổ chức hội nghị nào, bao giờ các lãnh tụ cộng sản ta cũng “thành công tốt đẹp” cả.
Trump cũng vậy, nhìn từ cuộc thương chiến với Trung Quốc, với Canada rồi nỗ lực hòa giải giữa Nga và Ukraine v.v… Trump bao giờ cũng giở giọng “thành công tốt đẹp” nhưng liên tục xuống nước.
Thậm chí như mới đây, sau khi huênh hoang về vai trò của mình trong nỗ lực tiến tới giải pháp ngưng bắn “ngay lập tức” tại Ukraine, Trump lại ngây ngô thú nhận rằng không biết hai bên đã bàn với nhau những chuyện gì. (The US president said Russia and Ukraine would now hold direct talks because “they know details of a negotiation that nobody else would be aware of”). Nghĩa là: “Tổng thống Mỹ cho biết, Nga và Ukraine hiện sẽ đàm phán trực tiếp vì ‘họ biết chi tiết về cuộc đàm phán mà không người nào biết’.” [3]
Lời của Trump cũng trớt quớt như hiệu lực ngưng bắn “ngay lập tức” bởi hiện tại hai bên vẫn đánh nhau ầm ầm.
Tóm tắt: Sắc lệnh chống lại sinh viên nước ngoài đã khiến Harvard quay lưng lại với những người thông minh nhất thế giới.
Chính quyền Trump đã đóng băng hàng tỷ đô la tiền tài trợ liên bang cho Đại học Harvard, đe dọa đến tình trạng miễn thuế của trường và tìm cách chỉ đạo chương trình giảng dạy và tuyển dụng của trường. Bây giờ, chính phủ dường như quyết tâm phá hủy ngôi trường này vì tội chống trả. Và vì mục đích gì?
Đó là cách chúng ta đọc động thái của Bộ An ninh Nội địa Mỹ (DHS) hôm thứ năm nhằm cấm sinh viên nước ngoài theo học tại ngôi trường nổi tiếng thế giới này. Đó là 6.800 sinh viên, hay một phần tư tổng số sinh viên của Harvard, và tương lai của họ đột nhiên trở nên hỗn loạn. Đây cũng là một cuộc tấn công thiển cận vào một trong những thế mạnh cạnh tranh lớn của Mỹ: Khả năng thu hút những người giỏi nhất và thông minh nhất thế giới.
Bộ trưởng Bộ Nội an (DHS) Kristi Noem. Nguồn: Oregon Public Broadcasting
Cuộc tấn công mới nhất bắt đầu khi DHS yêu cầu Harvard giao nộp nhiều hồ sơ khác nhau về sinh viên nước ngoài, bao gồm cả việc liệu có bất kỳ ai đã tham gia vào hoạt động bất hợp pháp hay rời khỏi trường đại học do “hoạt động nguy hiểm hoặc bạo lực, hoặc bị tước quyền” hay không.
Một số yêu cầu về hồ sơ của trường là hợp lý, nhưng một số lại quá đáng khi yêu cầu thông tin cá nhân của sinh viên. DHS cũng cho Harvard hai tuần để phản hồi. Nếu trường không phản hồi, Bộ trưởng DHS Kristi Noem cho biết bà sẽ “tự động thu hồi” chứng nhận của trường trong Chương trình Sinh viên và Trao đổi Khách mời (SEVP). “Việc thu hồi sẽ không được kháng cáo”.
Chương trình SEVP cho phép những người không phải là công dân nhập học tại các trường đại học bằng thị thực sinh viên. DHS có thể cấm các trường đại học tham gia chương trình nếu họ không tuân thủ “yêu cầu lưu giữ hồ sơ, lưu giữ, báo cáo và các yêu cầu khác” đối với sinh viên nước ngoài. Harvard cho biết, họ đã phản hồi với “thông tin theo yêu cầu của luật” trong vòng hai tuần và đã nộp thêm hồ sơ vào ngày 14 tháng 5.
Bà Noem cho rằng, phản hồi của Harvard là không thỏa đáng và đã loại trường khỏi chương trình. Điều này có nghĩa là sinh viên nước ngoài sẽ phải rời khỏi đất nước trong thời gian ngắn hoặc tìm một trường đại học khác của Mỹ chấp nhận họ.
Hầu hết sinh viên nước ngoài của Harvard đều đang theo học các chương trình sau đại học. Nhiều người hỗ trợ nghiên cứu khoa học và giảng dạy các khóa học đại học. Việc đuổi họ ra khỏi Harvard sẽ làm gián đoạn các dự án nghiên cứu và có thể khiến một số giáo sư khoa học rời đi để đến các trường đại học khác. Có vẻ như đây là mục tiêu của việc đóng băng các khoản tài trợ nghiên cứu của Harvard.
Harvard đã khởi kiện hôm thứ sáu và một thẩm phán liên bang đã ban hành lệnh cấm tạm thời đối với lệnh cấm sinh viên. Trường đại học này nói đúng rằng hành động của chính quyền Trump là “hành động trả đũa rõ ràng đối với việc Harvard thực hiện quyền Tu chính án thứ nhất của mình để từ chối các yêu cầu của chính phủ nhằm kiểm soát hoạt động quản lý, chương trình giảng dạy và ‘ý thức hệ’ của giảng viên và sinh viên của Harvard“.
Trường đại học này có vẻ sẽ thắng kiện, nhưng cho đến khi tòa án giải quyết được vấn đề, hàng ngàn sinh viên không làm gì sai sẽ phải chịu sự ràng buộc pháp lý. Một số người trong số họ chắc chắn đã phản đối các cuộc biểu tình chống Israel và thậm chí có thể họ đến từ Israel. Tại sao lại trừng phạt họ?
Chiến thuật của nhóm Trump chống lại Harvard đã gợi nhớ đến cách Chính quyền Obama cắt viện trợ cho sinh viên đối với các trường Cao đẳng Corinthian vì lợi nhuận với lý do phản ứng chậm trễ đối với các yêu cầu cung cấp hồ sơ. Việc học của hàng ngàn sinh viên đã bị gián đoạn để nhóm Obama có thể tạo ra một làn sóng chính trị.
Điều này sẽ gây tổn hại khủng khiếp đến khả năng thu hút những người trẻ tài năng mang theo doanh nghiệp và vốn trí tuệ của họ đến nước Mỹ. Những người không phải công dân chiếm hơn một nửa số bằng tiến sĩ trong các lĩnh vực liên quan đến AI hồi năm 2022. Nhiều người đã đi làm tại các công ty Mỹ như Nvidia hoặc tự thành lập công ty riêng.
Quỹ Chính sách Quốc gia Mỹ phát hiện ra rằng “những người nhập cư đã thành lập hoặc đồng sáng lập gần hai phần ba (65% hoặc 28 trong số 43) các công ty AI hàng đầu ở Mỹ và 70% sinh viên sau đại học toàn thời gian trong các lĩnh vực liên quan đến trí tuệ nhân tạo là sinh viên quốc tế“. Những người nhập cư cũng đã thành lập hơn một nửa số công ty khởi nghiệp tư nhân của Mỹ có giá trị từ 1 tỷ đô la trở lên.
Ngay cả khi được sửa đổi, lệnh của bà Noem sẽ vang vọng khắp thế giới như một tín hiệu cho thấy nước Mỹ không còn cởi mở để giáo dục những người trẻ thông minh nhất thế giới. Sinh viên nước ngoài sẽ hiểu được thông điệp này và sẽ đem tài năng của họ đến nơi khác. Bộ chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc hẳn đang cười sung sướng khi kẻ thù chính của họ đang tự làm mình suy yếu—đầu tiên là với thuế quan khiến các công ty của họ kém cạnh tranh hơn, và giờ là với cuộc tấn công vào những người tài giỏi là dân nhập cư.
Giống như hầu hết các trường đại học Mỹ, Harvard cần một cú hích để quay trở lại với sứ mệnh giáo dục những tâm hồn cởi mở. Nhưng điều đó đòi hỏi phải có cải cách. Chính quyền Trump dường như nghĩ rằng họ cần phải phá hủy Harvard để cứu vớt trường này. Điều này đi ngược lại với việc làm cho nước Mỹ trở nên vĩ đại.
__________________
The Following 2 Users Say Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Theo dõi cuộc “đấu trí” giữa Donald Trump với hai nước láng giềng là Canada và Mexico về thương mại, tôi không thể không nghĩ đến sự chú trọng của Napoleon Bonaparte (1769 – 1821) với yếu tố thời gian trong những toan tính chiến lược.
Nhưng đầu tiên, với tôi, cách đấu trí đó lại gợi nhớ cái tuổi ấu thời với những “tối hậu thư hai rưỡi”. Cái tuổi trẻ ranh tập tành làm người hùng hay thủ lĩnh mafia, dõng dạc ra lệnh những đối thủ đồng trang lứa, rằng tao đếm đến ba thì mày phải làm cái này, cái kia, tỷ như tránh qua một bên nhường đường, trả lại hòn bi đã giật, nhặt cái mũ trên đầu vừa hất xuống đất v.v…
Mạnh miệng như thể đổ máu tới nơi, nhưng, khi giây phút “tối hậu” đã cận kề mà đối phương vẫn không tỏ dấu hiệu nao núng, thì nhũn ra và chuyển sang… “thời kỳ quá độ”. “Hai” không mạnh dạn tiến thẳng lên “ba” mà chờn vờn ở giữa, đã rời bờ mà vẫn chưa tới bến đúng nghĩa “quá độ”: “Một, hai, … hai rưỡi”.
Trò hăm dọa “hai rưỡi” tưởng chỉ là của đám trẻ ranh, vậy mà, bây giờ, cũng là trò chơi chính trị của con người quyền lực nhất thế giới. Khi hoãn tới hoãn lui việc áp dụng thuế quan với Canada hay Mexico, một Donald Trump từng hùng hùng hổ hổ cũng nhũn ra như thế, cũng “thời kỳ quá độ” như thế, bởi vì đối phương cho thấy họ không hề nao núng, không phải là thứ dễ bị bắt nạt.
Đến lượt Napoleon, một thiên tài quân sự với những di sản sống mãi về văn hóa, giáo dục, hành chánh và luật pháp. Khi nhìn vào cái chiến lược mà Trump đang thực hành thì thiên tài này sẽ đánh giá như thế nào?
Chiến lược, theo Napoleon, là “nghệ thuật vận dụng thời gian và không gian”, trong đó thời gian phải là ưu tiên một bởi không gian mất vẫn có thể lấy được, còn thời gian mà mất thì mất luôn: “Strategy is the art of making use of time and space. I am less concerned about the later than the former. Space we can recover, lost time never”. Nghĩa là: “Chiến lược là nghệ thuật sử dụng thời gian và không gian. Tôi ít quan tâm đến cái sau hơn là cái trước. Không gian chúng ta có thể khôi phục, nhưng thời gian đã mất sẽ không bao giờ khôi phục được“.
Như thế, nếu thực sự tin vào việc bảo toàn quyền lợi cho nước Mỹ bằng cuộc chiến thuế quan, tại sao Trump phải liên miên để mất thời gian bằng trò “tạm hoãn”?
Mà nói đến chiến lược thì phải nói đến ba yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” và, ở đây, Trump bị hỏng hết cả ba.
Nga đang kẹt ở Ukraine. Nếu Mỹ tiếp tục đóng vai trò của vị cứu tinh, không chỉ với Ukraine mà với cả Âu châu như đã từng làm thế dưới thời Joe Biden, ít ra cái khẩu hiệu “nước Mỹ vĩ đại” cũng thành tựu phần nào. Làm thế thì Mỹ sẽ vĩ đại ngời ngời như đấng anh hùng thống lĩnh thế giới, như đã từng thế vào Đệ nhất rồi Đệ nhị thế chiến. Mà đã thống lĩnh về an ninh – chính trị thì ưu thế kinh tế – thương mại sẽ là chuyện đương nhiên, như đã từng thấy sau hai cuộc đại chiến.
Không hiểu được cái lẽ đương nhiên này là một. Trump cũng hoàn toàn mù tịt về mắc mứu lịch sử chẳng có gì phức tạp lắm trong quan hệ Nga – Ukraine.
Ukaine từng được thế hệ trước của chúng ta gọi là Uy Kiên theo lối phiên âm Hán Việt, hay phổ biến hơn là Tiểu Nga và chính cái tên này chứng tỏ tầm quan trọng chiến lược của đất nước này với Nga. Hoàn toàn trống trải với địa hình thảo nguyên nên khả năng phòng thủ của Nga rất yếu và, nhìn lại lịch sử, những đội kỵ binh của Napoleon hay đội quân cơ giới của Adolf Hitler đã tiến quân ào ào theo thế chẻ tre, xông thẳng đến thủ đô Moscow. Để chống cự thì, cả hai lần, Nga chủ yếu trông cậy vào cái lạnh cực kỳ khắc nghiệt của mùa Đông nhưng, “Đòi được vạ thì má đã sưng”, đợi đến lúc đó thì đất nước đã tan hoang ra rồi. Chính vì vậy nên, trong chiến lược lâu dài, Nga hiểu là mình phải tạo những vùng đệm an toàn từ xa mà điểm then chốt là Ukraine.
Âu châu đang nắm trong tay cái cơ hội ngàn năm một thuở nhằm bóc bỏ cái trái độn ấy, bảo vệ nền an ninh của mình và khiến Nga trở nên yếu thế hơn bao giờ hết. Nhưng Trump lại ra tay phá bĩnh, nối giáo cho giặc!
Trong cái nhìn chiến lược, đã đánh mất thời gian, Trump còn để mất cả không gian. Nếu cha ông chúng ta chủ trương “Bán bà con xa mua láng giềng gần” thì Trump, thực sự, đang bán bà con gần chỉ để mua kẻ thù xa.
Gần là Canada, Mexico và là “bà con” bởi, từ năm 1992, đã cùng ký vào “Thỏa ước tự do mậu dịch Bắc Mỹ” (North American Free Trade Agreement: NAFTA). Kẻ thù xa là Nga nhưng nói “mua” thì quá vinh dự cho Trump. Thực chất, những gì đang diễn ra cho thấy Trump đang bán nước Mỹ cho Nga, nhưng bán với giá không đồng: Nga không tốn cái gì cả nhưng lại được rất nhiều!
Từ một góc độ khác thì, phải chăng, Trump đang học theo Tần Thủy Hoàng?
Để thôn tính lục quốc, Tần Thủy Hoàng đã theo lời Phạm Thư thực hiện chiến lược “Viễn giao cận công”: Nước gần như Hàn thì đánh chiếm trước nhất, nước xa là Tề thì kết thân rồi đánh chiếm cuối cùng, sau một giai đoạn kéo dài đến 10 năm. Nhưng Trump? Chẳng lẽ ông ta điên rồ đến mức tính toán đến việc nuốt chửng Canada và Mexico trước, sau đó mới tính sổ với Nga?
Nuốt chửng lục quốc, Tần Thủy Hoàng đã tiến hành rất nhiều cải cách quan trọng để thống nhất Trung Hoa nhưng cần nhớ rằng, chỉ ba năm sau khi ông ta qua đời vì bệnh, ở tuổi 49, nhà Tần lại bị diệt vong. Cơ nghiệp khổ công xây dựng trong 37 năm làm vua, đặc biệt là trong 12 năm xưng hoàng đế, đã tan thành mây khói và, ngày nay có nhắc lại, chủ yếu người ta chỉ nói về Tần Thủy Hoàng như là một kẻ “phần thư khanh Nho”, đốt sách chôn học trò.
Và Trump, vẫn chưa đến mức “phần thư” nhưng rõ ràng Trump là một kẻ “bài thư”, từ mà tôi nghĩ ra với hai tầng nghĩa khác nhau.
Đầu tiên thì “bài thư”, để tạm dịch từ dylexia hay bibliophobia mà giới quan sát cho rằng Trump đang mắc, cái hội chứng khó đọc hay nói gọn là bệnh chán chữ hay ngán chữ, sợ sách. Nếu đó là bệnh lý cá nhân thì chính căn bệnh cá nhân này đã gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng cho nước Mỹ.
“If you’re reading this sentence, you’ve read more than the president has today”. (Nếu bạn đang đọc câu này, bạn đã đọc nhiều hơn tổng thống đã đọc trong ngày hôm nay), nhà bình luận Winsor Mann đã viết như thế hồi tháng 5 năm 2020. Theo Mann thì chính căn bệnh này đã biến Trump trở thành một tội đồ với những phản ứng vô trách nhiệm nếu không muốn nói là “ngu xuẩn” trong đại dịch Covid: Trong hai tháng đầu năm, Trump đã phớt lờ hơn một tá những báo cáo tình báo về bệnh dịch này, chỉ vì quá ngán chữ hay sợ chữ, không chịu đọc! [1]
Và đây cũng là điều sẽ khiến Napoleon chê Trump. Thiên tài quân sự của Napoleon xây dựng trên cả nền tảng văn hóa bởi ai cũng biết, ông ta là một con mọt sách, đọc rất nhiều: “Read over and over again the campaigns of Alexander, Hannibal, Caesar, Gustavus, Turenne, Eu-gene and Frederic. … This is the only way to become a great general and master the secrets of the art of war”. (Hãy đọc đi đọc lại các chiến dịch của Alexander, Hannibal, Caesar, Gustavus, Turenne, Eugene và Frederic… Đây là cách duy nhất để trở thành một tướng lãnh vĩ đại và thủ đắc nghệ thuật chiến tranh).
Nhưng Trump còn “bài thư” trên ý nghĩa “phản trí thức” qua những chính sách thù hằn với tri thức và sự truyền bá tri thức. Trump đã “bài” như thế qua việc phá hoại nền giáo dục Mỹ như giải tán Bộ Giáo dục liên bang. Trump đã “bài” như thế với những quyết định hành pháp thù địch với các đại học và sinh viên. Và Trump cũng đã “bài” như thế với việc xóa bỏ các cơ quan truyền thông có chức năng phổ biến giá trị Mỹ trên toàn cầu như VOA.
Sợ đọc nhưng Trump lại rất to mồm và đây cũng là điều để Napoleon chê: “You do not get peace by shouting: Peace. Peace is a meaningless word; what we need is a glorious peace.” Nghĩa là: “Bạn không thể đạt đến hòa bình bằng cách kêu gào: Hòa Bình. Hòa bình chỉ là một từ vô nghĩa; những gì mà bạn cần là một một nền hòa bình trong vinh quang“.
Nhưng đó chính là điều mà hai thầy tớ Trump và JD Vance làm cả thế giới văn minh sững sờ hay giận dữ khi đón ông Volodymyr Zelensky, Tổng thống Ukraine, tại Tòa Bạch ốc. Cả Vance và Trump thi nhau gào rống về một thứ hòa bình chỉ có trên lưỡi trong khi cái mà nhân dân Ukraine thực sự đòi hỏi một thứ hòa bình có thật, hòa bình trong danh dự.
Thầy nào tớ đó, từ tổng thống đến phó tổng thống, rồi các ông bộ trưởng, cố vấn, phụ tá, ai cũng thế cả thì chúng ta còn có kỳ vọng nào về cái chính quyền này? Nói theo Napoleon: “If you build an army of 100 lions and their leader is a dog, in any fight, the lions will die like a dog. But if you build an army of 100 dogs and their leader is a lion, all dogs will fight as a lion.” Nếu chúng ta xây dựng một đạo quân gồm 100 con sư tử đặt dưới trướng một con chó thì, trong bất cứ trận chiến nào, sư tử sẽ chết như chó. Nhưng nếu chúng ta xây dựng một đạo quân gồm 100 con chó đặt dưới trướng một con sư tử, cái đội quân toàn là chó này sẽ chiến đấu như một bầy sư tử.
Cái bi hài kịch của nước Mỹ hiện tại là nhà lãnh đạo tối cao không hề là sư tử, mà những kẻ răm rắp phục tùng ông chủ này cũng không đáng mặt sư tử. Và, dẫu rất hùng mạnh, rồi đây Quân đội Mỹ sẽ chiến đấu như thế nào với một ông tổng tư lệnh tối cao từng trốn lính, từng mạt sát những anh hùng gặp nạn trong lửa đạn như John McCain, lại đang nhẫn tâm cắt giảm quyền lợi của các cựu chiến binh và bôi xóa lịch sử của nó khi chối bỏ các anh hùng và tử sĩ da màu?
Và nói đến quân đội, nói đến chiến đấu, ắt phải bàn đến những trường hợp diễn ra ngoài ý muốn, tình trạng tội phạm chiến tranh mà, trong cái nhìn của Napoleon: “In war, as in politics, no evil – even if it is permissible under the rules – is excusable unless it is absolutely necessary. Everything beyond that is a crime”. Trong chiến tranh hay chính trị, không có sự độc ác nào — cả khi được phép theo luật lệ — được tha thứ, trừ khi nó tuyệt đối cần thiết. Bất cứ hành vi nào xâm phạm giới hạn này đều là tội phạm.
Còn Trump thì đã làm gì? Trump không chỉ “tha thứ” cho những tội ác man rợ của Vladimir Putin và Benjamin Netanyahu mà chúng ta chứng kiến ngày ngày trên ti vi. Trump thậm chí còn đóng vai đồng lõa và đồng minh đắc lực của hai tên tội phạm chiến tranh này.
Nhưng ít ra cũng có một sự tương đồng nào đó, trong thói quen ăn uống. Trump thì khét tiếng với thức ăn nhanh, McDonald’s, Burger King, KFC hay pizza và, thậm chí, có khi mời khách đến Tòa Bạch ốc, Trump chỉ đãi toàn… McDonald, đến mấy đống [3]. Còn Napoleon thì với thói quen của giới võ biền, ăn uống rất nhanh, không bữa nào kéo dài mười phút và đây là cái dở của ông ta về chính trị.
Trong những tháng ngày lưu đày trên đảo Elba, có cơ hội suy gẫm về những vấp ngã của đời mình, Napoleon mới lấy làm hối tiếc đã không học theo Louise XIV (1638 – 1715), vị minh quân không chỉ làm nở rộ nghệ thuật ẩm thực Pháp mà còn có thể khai thác bàn tiệc như một cuộc duyệt binh. Âu châu thời ấy phát sốt với những gia vị và hương liệu phương Đông, tưởng không bao giờ thoả mãn nổi và, với bàn tiệc ăm ắp những miếng ngon hiếm có và đắt tiền ấy, Louis XIV đã chứng tỏ được quyền lực của người đang làm chủ những tuyến đường hàng hải chiến lược và do đó càng củng cố và thu hút các quan hệ đồng minh [4].
Nhận ra điều này nên Napoleon mới tự trách mình. Nếu ông ta dứt bỏ được cái thói quen ăn uống chóng vánh? Nếu ông ta biết tổ chức những yến tiệc linh đình để, qua những bữa ăn khề khà kéo rê mà xây dựng đồng minh chính trị? Làm được như thế thì biết đâu, sự nghiệp của ông ta đã không đứt ngang với một kết thúc buồn.
Nếu Napoleon hối hận vì đã không ăn chậm hơn thì, cơ hồ, cho đến nay, Trump vẫn chưa đoạn tuyệt với thức ăn nhanh và, liệu, mai này, Trump có hối hận như thế hay không?
Không ai biết trước cái gì sẽ xảy ra cả mà, hiện tại, bao nhiêu là nhà lãnh đạo dân túy với quyền lực nghiêng trời đang chờ ra tòa? Cựu Tổng thống Rodrigo Duterte của Philippines đã bị chính Cảnh sát Philippines tóm cổ để đưa ra Tòa án quốc tế với những cáo buộc chống lại con người. Cựu Tổng thống Brazil Jair Bolsonaro, từng được mệnh danh là Trump của Brazil, đang bị truy tố ra tòa với cáo buộc âm mưu đảo chính sau cuộc bầu cử năm 2022. Và Yoon Suk Yeol, Tổng thống Nam Hàn, đã bị bắt và tống giam giữa lúc đang nhậm chức vì hành vi lạm dụng quyền lực, xâm phạm hiến pháp và, hiện tại, dù được phóng thích, vẫn phải mất chức và chờ ra tòa.
Trong cái đà này thì, mai này, khi phải trả lời trước pháp luật về những hành vi tư lợi, xung đột lợi ích và, thậm chí, thông đồng với kẻ thù, Trump sẽ phải hối tiếc vì cái tật chỉ khoái khẩu với fast food?
Nếu thật sự có một ngày mai như thế thì, lúc đó, dẫu ngoái cổ nhìn trước nhìn sau rồi nhìn trái nhìn phải, Trump cũng chẳng thể nào tìm ra một đồng minh trung thành, là những cộng sự viên đã từng chia sẻ với mình không khí ấm áp của một bữa ăn gia đình chứ không phải là một đống fast food vô hồn…
__________________
The Following 2 Users Say Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Ai cũng cho rằng “Trump đang mơ chức Giáo Hoàng” nhưng tôi có đủ sở cứ để nghi là ông ta chỉ mơ được “băng hà” như là Đức Giáo Hoàng.
Mục tiêu cụ thể không thực sự là mặc “áo Giáo Hoàng” mà là, đến cuối đời, được liệm vào một cái… áo quan như Ngài.
Trump đăng ảnh chế ông ta mặc đồ Giáo hoàng gây phản cảm. Nguồn ảnh từ trí tuệ nhân tạo (AI).
Trả lời phỏng vấn trước khi lên đường đến Vatican dự tang lễ Giáo Hoàng, Trump cho biết tang lễ sẽ “rất là thú vị” (very interesting)! [1]
Dự tang lễ xong, về Mỹ, Trump nói với các phóng viên rằng, đó là một “tang lễ đẹp”, lặp đi lặp lại những ba lần [2].
Đi và về Trump đều ám ảnh với tang lễ ấy, “rất là thú vị”, “đẹp, đẹp, đẹp”, rồi sau đó bỏ công ra chế chân dung mình với lễ phục Giáo hoàng.
Thật sự, lần đầu tiên thấy ảnh “Giáo hoàng Trump” tôi không tin ngay rằng đó là của Trump, mà là sản phẩm của những người thù ghét.
Bằng ấy tuổi đầu thì ai lại chơi cái trò trẻ con này? Nhưng kiểm tra lại với những nguồn tin, tờ báo uy tín, mới tin chắc rằng Trump là một ông già trí còn con trẻ.
Điều này càng khiến tôi tin vào nghi ngờ của mình. Phải chăng, sau khi dự tang lễ của người được mệnh danh là “Giáo hoàng của nhân dân” (“People’s Pope,”), thấy tình cảm và sự trọng vọng mà hàng trăm ngàn người bày tỏ, Trump càng bị ám ảnh về ngày phán xét cuối cùng của mình?
Sau này có ra đi, Trump nhất định phải có một tang lễ y như thế, không hơn thì cũng phải bằng và, do đó, Trump phải diễn tả mình như là một Giáo Hoàng, bằng kỹ thuật AI.
Văn vẻ một chút, chúng ta có thể “diễn ca” tâm tư của Trump:
Tôi mơ tang lễ Giáo hoàng
Đẹp và thú vị, rất là, quá ư…
Nhưng để được thương tiếc như Giáo Hoàng thì phải nhìn lại mình, đã có cống hiến nào như ngài?
Chín năm trước, khi Trump chủ trương xây tường dọc theo biên giới Mỹ – Mễ Tây Cơ, Giáo Hoàng Francis đã nhấn mạnh rằng, “Trump không phải là người Thiên Chúa Giáo”, vì nếu thế thì Trump phải là người xây cầu để kết nối hòa giải, không phải là hạng xây tường để cách ngăn, chia rẽ [4].
Bây giờ, khi qua đời, một trong những ước nguyện mà Giáo Hoàng Francis bày tỏ với Hồng y Giovan-ni Battista Re trước phút lâm chung là một thế giới hòa hợp, ở đó “các nhà lãnh đạo thế giới xây cầu, không xây tường” [5].
Nghĩa là thế giới mơ ước đó không có mặt hạng Tổng thống như Trump!
Giáo Hoàng Francis xuất thân từ một tu sĩ Dòng Tên, tiếng Anh là Jesuits hay chính thức là Society of Jesus. Dòng tu này, khi truyền sang Việt Nam, có lẽ vì do truyền thống kỵ húy, người Việt không dám gọi thẳng, mà dùng chữ Dòng Tên.
Dòng tu này do Inigo de Loyola, người Basque (Tây Ban Nha), cùng một số bạn hữu sáng lập năm 1540, xem mình là “Chiến sĩ” của Chúa, dấn thân để phục vụ xã hội. Dòng Tên có quan điểm khác biệt với niềm tin chính thức của Vatican khi cho rằng con chiên có thể thông công trực tiếp với Chúa qua việc cầu nguyện, không nhất thiết phải qua trung gian của linh mục.
Thời này Vatican đối mặt với một cuộc khủng hoảng lớn do phong trào Kháng Cách (Protestant), dẫn đến sự hình thành của Giáo hội Tin Lành, cũng có quan điểm tương tự về thông công. Để đối phó, Giáo Hoàng Phaolo III đã công nhận dòng tu này, dùng cải cách mềm đối phó cải cách cứng.
Năm 2013, khi đối mặt với khủng hoảng vì tai tiếng liên quan đến việc một số giáo phận chủ trương việc bao che hành trạng tình dục của một số linh mục, Vatican đã chọn Hồng y Francis, một tu sĩ Dòng Tên, vào vị trí Giáo Hoàng.
Có khuynh hướng khai phóng và dấn thân, hướng đến mục tiêu công bằng xã hội, do đó về mặt xã hội nghiêng về cánh tả; Dòng Tên nổi tiếng với những cống hiến giáo dục, qua việc thành lập trường học các cấp, kể cả bậc đại học trên khắp thế giới. Giáo hoàng Francis được mệnh danh “Giáo Hoàng của nhân dân” cũng vì lẽ này và, do đó, đã ra đi như một người của nhân dân, của cả quả địa cầu.
Một Donald Trump kỳ thị, cực hữu với chủ trương chia rẽ thế giới và đả phá giáo dục thì khác. Trump là Tổng thống của giới tài phiệt. Trump hãnh diện khoe khoang mối quan hệ thân thiết với những nhà độc tài như Kim, như Putin. Trump hoàn toàn không có chỗ đứng nào trong trái tim của nhân dân.
Có tiền thì bất cứ nhà tài phiệt ưa chơi nổi nào cũng có thể mua một tang lễ “đẹp” và “rất thú vị” nhưng vấn đề là cái “mùi” của nó.
Tôi nghĩ đến cái “tang lễ” của Adolf Hitler, cái hố cạn cợt vì đào vội bằng tay dưới những loạt pháo và mấy can xăng, một mùi khét lẹt.
Tôi nghĩ đến tang lễ của Pol Pot, giữa rừng mà thậm chí chẳng có được những bó củi tử tế, chỉ tấp lên bao nhiêu thứ xà bần, những đồ gia dụng bị vứt bỏ, thậm chí cả tấm nệm, mấy cái lốp xe cũ, để thân xác thêm đau khi phải quằn quại trong đám khói đen sì, khét lẹt, gây ô nhiễm nặng cho môi trường [6].
Mùi khét của thân xác đó rồi cũng nhạt phai, tan biến nhưng mùi khét của phần hồn thì sẽ còn lại mãi mãi bởi bọn này, chính bọn chúng, với những ý đồ chống lại con người, là một sự ô nhiễm trầm trọng với nhân quần.
__________________
The Following 2 Users Say Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Thật trùng hợp, đúng ngày 30 tháng 4 thì Donald Trump cũng nói “giọng 30”.
Đây là thành ngữ xuất hiện sau ngày 30/4/1975 từ bên thua cuộc với hàm ý khinh miệt. Nó ám chỉ giọng điệu ton hót của đám xu thời, “tham gia cách mạng ngay từ khi miền Nam hoàn toàn giải phóng”.
Nếu người trong trại cải tạo khổ sở và khinh bỉ đám ăng ten thì ngoài đời dân thường cũng thế với lũ “cách mạng 30” này.
Để tâng công thì phải đạp lên đầu người khác.
Để chứng tỏ lòng trung thành thì phải gồng người ra mà “khẳng định lập trường” với ông chủ mới.
Đi làm công tác, dọn vệ sinh, đắp đường hay khai mương, những thư sinh chưa quen với việc chân tay tỏ ra chậm chạp sẽ bị bọn này lên gân, mắng xối xả là “chưa gột bỏ ảnh hưởng của chế độ cũ”.
Còn nếu xã hội vẫn còn những tệ nạn nào đó, đĩ điếm, trộm cướp thì, đó là “tàn dư của chế độ cũ”.
Bây giờ Donald Trump cũng giở cái giọng này.
Mới đây, sau khi số liệu thống kê cho thấy trong quý một của năm 2025, GDP của Mỹ đã giảm sút và, lần đầu tiên trong ba năm, nền kinh tế đã đi xuống, Trump liền đổ lỗi đó là do “ảnh hưởng của chế độ Biden”.
Kinh tế mà tăng là do Trump giỏi, kinh tế mà giảm là do Biden dở.
Còn nhớ năm ngoái, trong thời gian vận động tranh cử, khi kinh tế Mỹ tăng trưởng, thể hiện trong sự trỗi dậy của thị trường chứng khoán, Trump lại giành công, nói rằng kinh tế phát triển là do người Mỹ lạc quan về tương lai, bởi Trump sẽ thắng cử [1].
Thì đó, cũng như giọng điệu của đám 30 và các quan thầy, tương tự “niềm lạc quan cách mạng” hay “niềm tin tất thắng”.
Giọng của Trump cũng chẳng khác gì cái điều mà dân gian chế nhạo:
Mất mùa là tại thiên tai
Được mùa là tại thiên tài đảng ta
Đã có người Mỹ nào nghĩ ra một câu tương tự?
Trước mắt chỉ thấy Trump tuyên bố một cách tự tin và, cho đến nay, vẫn có người tin.
Họ làm tôi nghĩ đến mấy lời của Bertrand Russel, nhà toán học và triết gia người Anh, Giáo sư của Đại học Cambridge: “The whole problem with the world is that fools and fanatics are always so certain of themselves, and wiser people so full of doubts.”
Tạm dịch: “Toàn bộ rắc rối của thế giới là do mấy thằng đần và thằng cuồng, thằng nào cũng tự tin cả, trong khi người khôn luôn ngờ vực”.
Và: “A stupid man’s report of what a clever man says can never be accurate, because he un-consciously translates what he hears into something he can understand.”
Tạm dịch: “Khi thuật lại những điều mà một người thông minh trình bày, không thằng ngu nào có thể tường thuật chính xác cả, lý do là hắn đã vô tình biến những gì hắn nghe thành những gì hắn có thể hiểu”.
__________________
The Following 2 Users Say Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Tóm tắt: Những tuyên bố sai trái về “nạn diệt chủng” của Trump đã đưa vấn đề chủng tộc lên hàng đầu trong các cuộc trò chuyện cấp quốc gia ở Nam Phi theo cách hiếm thấy kể từ khi chế độ phân biệt chủng tộc kết thúc.
CAPE TOWN, Nam Phi — Những tuyên bố sai sự thật do Tổng thống Mỹ Donald Trump đưa ra tại Phòng Bầu dục hôm thứ Tư, rằng cộng đồng người da đen chiếm đa số ở Nam Phi đang cố gắng tiêu diệt người da trắng gốc Afrikaner, đã làm rung chuyển đất nước này — và đưa vấn đề chủng tộc lên hàng đầu trong các cuộc trò chuyện trên toàn quốc theo một cách hiếm thấy kể từ khi chế độ phân biệt chủng tộc kết thúc.
Những người “sinh ra là người tự do”, những người trẻ tuổi trưởng thành sau cuộc bầu cử tự do đầu tiên của nước này vào năm 1994 và được hứa hẹn một tương lai tươi sáng ở một Nam Phi mới, đã kể về những cuộc trò chuyện khó khăn với bạn bè và đồng nghiệp về những căng thẳng chủng tộc mà phần lớn thế hệ của họ không hề biết tới.
Người Nam Phi da trắng — dù là người Afrikaner hay không — đã lên tiếng bày tỏ sự tức giận bị kìm nén từ lâu về sự thất bại của Đại hội Dân tộc Phi, đảng cầm quyền của nước này, trong việc thực hiện lời hứa về một xã hội bình đẳng, phi chủng tộc.
Nam Phi đã có những người đoạt giải Nobel Hòa bình như Nelson Mandela và Desmond Tutu. Họ đã ca ngợi nước này là “quốc gia cầu vồng” cách đây ba thập niên, là xã hội bất bình đẳng nhất thế giới, theo Ngân hàng Thế giới. Nơi đây xã hội bị ảnh hưởng bởi sự chênh lệch kinh tế lớn và sự tiếp cận không bình đẳng đối với việc làm và giáo dục cho công dân da đen. Nhiều khu phố vẫn tồn tại việc phân biệt chủng tộc. Tội phạm bạo lực vẫn là một hiểm họa.
Một ngày sau cuộc gặp tại Nhà Trắng giữa Trump và Tổng thống Nam Phi Cyril Ramaphosa, những tuyên bố gây sốc và vô căn cứ của Trump về “nạn diệt chủng” đối với nông dân da trắng đã thống trị các bài báo, các phương tiện truyền thông xã hội và các cuộc thảo luận khắp Nam Phi.
Một số hãng tin khen ngợi Ramaphosa vì giữ được bình tĩnh khi Trump lên tiếng tấn công: “Ông ấy đã không bị Zelensky làm ảnh hưởng“, báo Daily Maverick viết, ám chỉ đến cuộc gặp gỡ đầy căng thẳng giữa Trump với Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky hồi tháng 2.
“Trump đã buộc Nam Phi phải đối mặt với tệ nạn tội phạm”, một bài xã luận trên News24, ấn phẩm trực tuyến lớn nhất nước này, viết.
Relebogile Thekiso, 27 tuổi, một thực tập sinh thiết kế đồ họa người da đen tại Johannesburg, nói: “Cuộc tranh luận về nạn diệt chủng này thật khó xử, bạn ạ, tôi không biết nữa. Hôm nay ở công ty, mọi người đều nói về nó, thậm chí còn nói đùa về nó. Nhưng một số đồng nghiệp da trắng lại không tham gia tranh luận”.
Cô nói tiếp: “Điều đó khiến tôi tự hỏi liệu họ có im lặng vì họ đồng ý với Trump không. Tuần này, tôi sẽ giữ khoảng cách xã hội với người bạn [da trắng] của tôi cho đến khi tình hình lắng xuống”.
Tổng thống Ramaphosa hy vọng chuyến thăm Washington của ông sẽ thiết lập lại mối quan hệ vào thời điểm Nam Phi cắt giảm chi tiêu và đang bị đè nặng bởi nợ nần. Bộ trưởng Tài chính Enoch Godongwana cho biết hôm thứ Tư, rằng nền kinh tế dự kiến sẽ tăng trưởng ở mức 1,4% trong năm nay, giảm nửa điểm so với dự báo hồi tháng 3.
Một thỏa thuận thương mại với Mỹ sẽ giúp ích cho Nam Phi. Nhưng đó không phải là ưu tiên chính của Trump hôm thứ Tư, khi ông chuyển hướng cuộc trò chuyện sang vấn đề của người Afrikaner da trắng, hậu duệ của những người từng là thực dân Hà Lan ở Nam Phi. Tổng thống cho biết, có “hàng ngàn” người đã nộp đơn xin quy chế tị nạn ở Mỹ, một tuyên bố khó có thể xác minh.
Nhóm đầu tiên gồm khoảng 50 người Nam Phi da trắng đã đến Mỹ trong tháng này theo chương trình nhân đạo mà chính quyền Nam Phi đã đình chỉ đối với các nhóm khác chạy trốn chiến tranh và đàn áp.
Việc Trump tập trung vào việc giết hại những người nông dân da trắng đã khơi dậy những căng thẳng đã bị chôn vùi từ lâu về vấn đề chủng tộc, một vấn đề đã ám ảnh Nam Phi kể từ những ngày đầu tiên của chế độ thực dân. Trước thềm cuộc bầu cử năm 1994, cuộc bầu cử cuối cùng đánh dấu sự kết thúc của chế độ cai trị của thiểu số da trắng, nỗi lo sợ về một cuộc chiến tranh chủng tộc toàn diện đã lan rộng ở một số cộng đồng nước này.
John Endres, giám đốc điều hành của Viện Quan hệ Chủng tộc Nam Phi (IRR) nói: “Những vụ giết người ở các trang trại tại Nam Phi là một hành vi tàn bạo đặc biệt. Những tội ác này là đặc trưng với bạo lực vô nghĩa, nhắm vào những người dễ bị tổn thương như những người nông dân lớn tuổi và gia đình của họ”, với động cơ thường là cướp bóc.
Tuy nhiên, ông cho biết, “việc xác định nông dân da trắng là nạn nhân duy nhất của những tội ác này là không chính xác”.
Theo dữ liệu của IRR, năm 2023, có 49 người bị giết hại tại các trang trại, với đa số là những người da đen. Trên toàn quốc, có 27.621 vụ giết người trong năm đó; khoảng 80% nạn nhân là “những thanh niên da đen nghèo, thiếu việc làm hoặc thất nghiệp“, Endres cho biết.
Ernst van Zyl, giám đốc quan hệ công chúng của AfriForum, một nhóm bảo vệ quyền của người Afrikaner, cho biết, nhiều người đã trở nên vỡ mộng với nền chính trị đảng phái ở Nam Phi, nhưng phủ nhận rằng có nhiều người muốn rời khỏi nước này.
“Không đến mức họ ngừng bỏ phiếu, nhưng đó không phải là con đường duy nhất để họ mang lại sự thay đổi”, van Zyl nói, đồng thời cho biết rằng các nhà hoạt động người Afrikaner ngày càng tham gia nhiều hơn vào các tổ chức xã hội dân sự để giải quyết các vấn đề ở cấp địa phương.
“Mọi người cảm thấy thoải mái hơn khi nói về vấn đề giết người ở trang trại khi tổng thống Mỹ đang nói về nó. Những người bên ngoài nhìn vào đang thấy một điều gì đó vô cùng đáng lo ngại và không thể chấp nhận được“, van Zyl nói thêm.
Trong tổng số hơn 60 triệu người tại Nam Phi, có khoảng 4,6 triệu người là người da trắng, theo cuộc điều tra dân số mới nhất của Nam Phi được thực hiện vào năm 2022. Khoảng 2,7 triệu người nói tiếng Afrikaans như ngôn ngữ đầu tiên của họ.
Tshepo Madlingozi, một viên chức của Ủy ban Nhân quyền Nam Phi cho biết, nước này vẫn bị chia rẽ theo chủng tộc và vẫn chưa hoàn toàn đối mặt với lịch sử đau thương của mình. “Điều này thực sự cho thấy chúng ta còn một chặng đường dài để xây dựng một quốc gia“, Madlingozi nói.
Ủy ban Sự thật và Hòa giải của Nam Phi được thành lập cách đây 30 năm để vạch trần những tội ác thời kỳ phân biệt chủng tộc, đã được ca ngợi rộng rãi. Nhưng những người chỉ trích cho rằng, Ủy ban này ưu tiên hòa giải dân tộc hơn là công lý cho các nạn nhân.
Madlingozi nói: “Chúng tôi đã không trung thực với nhau về những gì xảy ra và ai đã làm gì với ai, và chúng tôi sẽ giải quyết nó thế nào. Đó là một sai lầm lớn”.
Ông cho biết, những tuyên bố sai trái của Trump về nạn diệt chủng là “rất đau đớn và có phần phản bội” đối với người Nam Phi da đen, nhiều người trong số họ vẫn đang phải đối mặt với nạn phân biệt chủng tộc có hệ thống đã ăn sâu bén rễ. “Tôi đang nói đến các trường đại học và trường học vẫn duy trì [chỉ có người] da trắng, nơi da trắng vẫn là chuẩn mực, nơi đặc quyền của người da trắng vẫn được ủng hộ“, Madlingozi nói.
Thekiso, một nhà thiết kế đồ họa, cho biết, cô từng cười vui với cả đồng nghiệp da trắng và da đen về “các video trên mạng xã hội về người da trắng nhảy múa hoặc nói tiếng bản địa”, nhưng giờ mọi thứ đã trở nên khó xử. Với người bạn da trắng của mình, cô sẽ ăn trưa tại chỗ những người bán hàng rong gần các bến taxi, chủ yếu được người da đen phục vụ.
Thekiso nói: “Cô ấy không phải là kiểu người [phân biệt chủng tộc] như vậy — cô ấy rất tuyệt. Tôi có lẽ sẽ hỏi cô ấy xem cô ấy có muốn rời khỏi Nam Phi không, hoặc cô ấy nghĩ gì về những điều Trump nói vào một lúc nào đó”. Nhưng cô ấy nói rằng, cô ấy vẫn chưa cảm thấy sẵn sàng để trò chuyện về chuyện đó.
Palesa Nxumalo, 21 tuổi, đang ôn thi tại thời điểm diễn ra cuộc họp Trump -Ramaphosa nhưng cô đã xem video trao đổi của họ trên TikTok. Cô tự hỏi: “Liệu những người da trắng, khi họ nhìn tôi, có nghĩ rằng tôi sẽ giết họ không? Tôi sẽ thận trọng khi ở gần họ. Tôi không muốn có bất kỳ sự việc kịch tính nào xảy ra xung quanh mình“.
__________________
The Following 2 Users Say Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Càng ngày tôi càng nhận ra rằng, thấp thoáng sau lưng Trump, lởn vởn bóng dáng của một Tố Hữu nhỏ mọn, thù vặt và sân hận với những thành phần “quý tộc” trong lĩnh vực mà mình muốn tạo danh. Nói cho gọn thì cả hai cùng chia sẻ cái ẩn ức tạm gọi là “hận tinh hoa”.
Từ “tinh hoa” (elite) được dùng để chỉ những thành phần giàu có với học vấn thuộc hàng cao nhất và, do đó, tạo được nhiều ảnh hưởng hay quyền lực nhất. Nhưng Trump thì hết kiếp vẫn chưa xứng với cái danh này mà, bất quá, chỉ là một thành phần “đặc quyền” (privileged).
Thì Trump cũng giàu, cũng đầy quyền lực mà một chữ ký là mấy chục triệu người hay mấy tỷ người điêu đứng nhưng về học vấn thì chưa chắc, và quan trọng hơn, những gì ông ta có được chỉ là nhờ vào một sự… thụ thai ngẫu nhiên. Không ai xa lạ, chính Marco Rubio, người đang giữ chức Ngoại trưởng trong chính quyền Trump, đã xếp hạng Trump như thế: Tất cả những gì Trump có được chẳng qua là nhờ sinh ra trong một gia đình giàu có!
Rubio sỉ vả Trump như thế trong cuộc tranh luận vào tối 25/2/2016 do đài CNN tổ chức ở Houston giữa năm ứng cử viên tranh giành suất đại diện đảng Cộng Hòa: Trump, Rubio, Ted Cruz, John Kasich và Ben Carson [1].
Kinh khủng nhất trong cuộc tranh luận của “ngũ nhân bang” này là cuộc đấu võ mồm giữa Rubio và Trump mà báo chí Mỹ gọi là xấu xa, độc ác, “vicious debate battle”. Lối ăn nói của Trump thì ai cũng biết, còn Rubio cũng không thua, xem như “Đi với ma mặc áo giấy”: Trump tấn công cá nhân thì Rubio cũng tấn công cá nhân, Trump không kể phép lịch sự thì Rubio cũng… đếch cần.
Rubio đả kích: “Nếu không được thừa hưởng gia sản 200 triệu Mỹ kim thì có lẽ giờ này Donald Trump chỉ là một anh bán đồng hồ tại Manhattan”.
Không ai miệt thị nghề bán đồng hồ nhưng nếu tiếng Việt chúng ta có thành ngữ “Thật thà như thể lái trâu” thì người Mỹ có câu “As honest as watch dealer”: Thật thà như dân bán đồng hồ.
Trump chê Rubio không có kinh nghiệm gì về thương trường thì Rubio xóc óc: “Tôi chả biết gì về các công ty phá sản. Và tôi chả biết gì về việc xây dựng một đại học giả”.
Chẳng là trong cuộc đời kinh doanh Trump đã khai phá sản tới bốn lần và lúc đó, khi ra tranh cử, lại bị kiện với cáo buộc lập nên đại học giả “Trump University” để lừa đảo, theo đó người ta nộp học phí $36,000 nhưng chả học được cái gì cả. (Sau đó Trump chấp nhận bồi thường để yên tâm tranh cử).
Nói chuyện “đại học giả” của Trump thì cũng nói luôn chuyện Trump học đại học tại Phân khoa Kinh doanh Wharton của Viện Đại học Pennsylvania (PU) nổi tiếng.
PU cũng thuộc Ivy League, là nhóm tám viện đại học hàng đầu của Mỹ, nhưng không bằng Harvard và việc Trump “đậu” vào trường này cũng như thành tích học tập tại đây là cả một nghi án.
Thứ nhất, Mary Lea Trump, cháu gọi Trump là chú ruột, đã vạch trần rằng thời trẻ Trump đã thuê người khác dự cuộc thi tuyển đại học (SAT: Scholastic Aptitude Test) mới lọt vào được trường này [2].
Thứ hai, liên quan đến học lực thì từ trung học đến đại học, Trump áp dụng mọi thủ đoạn để che giấu. Trump đe dọa trường trung học cũ, cấm ngặt việc tiết lộ thông tin trong học bạ của mình [3]. Thành tích học tập tại PU, Trump cũng biến thành hồ sơ… tuyệt mật [4]. Hành vi này khiến thiên hạ đặt câu hỏi, phải chăng vì học quá kém, Trump mới che giấu?
Toàn bộ những điều này đã cho thấy rằng, Trump không phải là một nhân vật tinh hoa, chỉ là một thành phần đặc quyền. Đầy đặc quyền nhưng lại háo danh, mang mặc cảm thua sút trước giới tinh hoa, phải chăng Trump đang trút bỏ hờn căm vào Harvard, biểu tượng cao nhất về trí tuệ của giới tinh hoa Mỹ?
Không phải là một nhà chính trị tinh hoa, Trump đang thực hành thứ chính trị dân túy và phong cách này đã thể hiện rất rõ trong gần mười năm qua, nhưng còn Tố Hữu?
Chính trị dân túy là thứ chính trị nhắm vào sự cả tin và cuồng nhiệt của đám đông nên, do đó, sở trường về khoản đấu tố, hoàn toàn chính xác với Trump và với Tố Hữu.
Thí dụ như cảnh Tố Hữu “đấu tố” tù binh Mỹ mà Hoàng Tùng – từng là Tổng biên tập báo Nhân Dân, Bí thư Trung ương Đảng – kể lại trong hồi ký “Những Kỷ Niệm Về Bác Hồ”, như sau: “Năm 1968 Bác có vịệc phải ra nước ngoài, ở nhà Ban Bí thư mà cụ thể là đồng chí Tố Hữu có chủ trương dong bọn giặc lái Mỹ mà ta bắt được đi diễu qua các đường phố để cảnh cáo Mỹ. Khi về Bác hỏi: ‘Vì sao các chú lại làm một việc dại dột như thế?’ Tôi thành thật báo cáo Bác là mình không tham gia việc này. Bác nói luôn rằng tôi cũng ở trong Trung Ương mà lại không chịu trách nhiệm sao được, dư luận thế giới sẽ không đồng tình về việc làm của ta” [5].
Bây giờ chúng ta chứng kiến một Tổng thống Mỹ nhỏ nhen, luôn tìm cách trả thù những cựu đối thủ thì Tố Hữu cũng từng sống như vậy, như cách đối xử với Hoàng Cầm, qua lời kể của chính nhà thơ này:
“Vì sao lại có chuyện thay đổi như thế? Có phải anh công an tên N. đã nói lừa tôi cốt để tôi nhận tội cho được việc của anh ta? Tôi cũng không rõ sự thực thế nào, cho đến một hôm sau khi đã ra tù, tôi tình cờ gặp một anh công an thụ lý khác (xin phép không nêu tên) ở quán bia Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật (đường Trần Hưng Đạo, Hà Nội). Trông thấy tôi anh mừng lắm, anh mời tôi vào uống bia để tâm sự. Anh nói là anh đã ra khỏi ngành, và anh kể cho tôi một chuyện khá bất ngờ. Chuyện đại ý như sau: Sau khi tôi nhận tội, công an đã định cho tôi về thật. Nhưng trong thời gian chờ đợi giải quyết, thì một hôm ông Lê Đức Thọ gọi công an lên hỏi về vụ Hoàng Cầm ra sao rồi, và thông báo rằng có một số trí thức Pháp, những người quen biết nhiều với ông, đã giúp đỡ ông và đoàn đại biểu Việt Nam ở Hội nghị Paris, vừa gửi thư cho ông yêu cầu nếu xét Hoàng Cầm không có tội trạng gì cụ thể thì hãy thả ngay nhà thơ ra. Ông còn nhắc nhở: “Các cậu xem thế nào thì giải quyết đi, không có thì mang tiếng lắm”. Sự việc trên được công an báo cáo với Tố Hữu . Ông lập tức hạ lệnh: “Ngoại quốc can thiệp hả? Đã thế thì cho thêm một năm nữa!” Thái độ cứng rắn đến nghiệt ngã của Tố Hữu với riêng tôi cũng như với các anh em Nhân văn-Giai phẩm rất nhất quán” [6].
Tại sao Tố Hữu ác nghiệt thế?
Lý do là Hoàng Cầm đã chê tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu thậm tệ, sau khi tập này được giải nhất về thơ trong Giải thưởng văn học giai đoạn 1954-1955 của Hội Văn nghệ Việt Nam [7].
Quan trọng hơn, Hoàng Cầm đã chê Tố Hữu từ vị thế của một nhà thơ tinh hoa đối với một nhà thơ quần chúng, chuyên làm thơ cổ động, theo đó thì thơ Tố Hữu “giống như một vại nước to, đầy tràn pha loãng một màu sữa. Loãng quá, tôi thèm một cốc dù nhỏ thôi nhưng chan chứa những chất nuôi sống tâm hồn” [8].
Bất cứ một nền văn hóa – văn chương nào cũng cần đến hai hệ thống giá trị song song, giá trị tinh hoa và giá trị đại chúng. Như trong văn chương, nếu những tác phẩm bình dân là để phục vụ nhu cầu giải trí của công chúng thì những tác phẩm tinh hoa phục vụ nhu cầu thưởng lãm mang tính trí tuệ và đóng vai trò dẫn dắt, có sự cộng sinh như vậy thì xã hội mới phát triển bình thường.
Nhưng xã hội mà Tố Hữu muốn xây dựng thì không bình thường chút nào, cả trái tim con người mà cũng:
“Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ
Anh dành riêng cho đảng phần nhiều
Phần cho thơ, phần để em yêu”
Em xấu hổ: “Thế cũng nhiều anh nhỉ!”
Rồi hai đứa hôn nhau, hai người đồng chí
(Trích từ “Bài ca xuân 61”)
Bởi thơ của ông ta chủ yếu là thơ tuyên truyền, dễ lọt tai công chúng, nên nhất định phải là thơ có vần. Chính vì vậy nên Tố Hữu mới không ngớt “truy sát” những nhà thơ có đầu óc cách tân, đề xướng thơ tự do như Lê Đạt, Hoàng Cầm, Văn Cao, Đặng Đình Hưng v.v…
Tố Hữu nói theo Lê Đạt, là một nhà thơ “có ích” nhưng là có ích cho cái xã hội không bình thường của y [9].
Như một nhà thơ phản tinh hoa với quyền sinh sát trong tay, Tố Hữu đã làm nghèo, làm què quặt nền văn chương Việt Nam.
Như một nhà chính trị đầy đặc quyền trong vai trò Phó Thủ tướng, Tố Hữu đã làm nghèo, làm què quặt nền kinh tế và đẩy cả nước vào cảnh bần cùng, điêu đứng trong giai gioạn giữa thập niên 1980.
Phải chăng, giữa Tố Hữu và Trump còn có mẫu số chung kinh tế này?
Tố Hữu có chính sách “Giá Lương Tiền” thì Trump có chính sách Quan Thuế, hiện cũng đang làm công chúng và giới doanh nhân Mỹ kêu trời.
__________________
The Following 2 Users Say Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Xuân là Thiếu tướng – “Thạc sĩ An ninh nhân dân” Nguyễn Thị Xuân, Phó Giám Đốc Công An tỉnh Đak Lak, hiện đang bị nhiều người nổi giận réo tên sau “đề xuất” nâng mức phạt tội vi phạm luật lệ giao thông lên 200 triệu đồng.
Nhưng sao phải nổi giận với ả? Người như thế tất phải hành động như thế, đó là bản chất, là lẽ đương nhiên. Chúng ta có thể chỉ trích ả quá đáng, thậm chí là ác hay ngu nhưng hãy đừng để hạng người như ả làm mình hao tổn tuổi thọ bởi, mỗi lần lên cơn giận là một lần tim mạch rối loạn, là óc não hoạt động không bình thường, cơ thể bị chệch ra khỏi những hoạt động tâm lý và sinh lý bình thường.
Và đó cũng là cách chúng ta phải tập để sống chung với Trump, bởi nếu mỗi lần chứng kiến sự trơ trẽn và, có thể nói, ngu xuẩn của y, là mỗi lần lồng lộn tức giận thì có lẽ, sức sống của chúng ta sẽ trượt dốc, tiêu hao.
Dĩ nhiên là khi chứng kiến những điều như thế, chúng ta không thể bất ý, không buồn, không lo nhưng nếu giảm thiểu được những tác động không nên có được bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu. Hãy học để… sống chung.
Sống chung với Thị Xuân hay Trump thì cũng giống như sống chung với ô nhiễm như các đồng bào khốn khổ của chúng ta ở các khu vực “tập kết rác”, như sống chung với nạn tham nhũng vặt, [của bọn tìm cách móc túi] những bà con buôn gánh bán bưng v.v… Học để nghĩ rằng, âu cũng là vận nước, nước Việt hay nước Mỹ, thậm chí là là vận của… hoàn cầu. Học để nói câu, thôi thì ráng đợi và trong khi chờ đợi thì hãy vào các chương trình của Stephen Colbert hay Jimmy Kimmel, nghe những nghệ sĩ hài này mang Trump ra làm trò cười để có niềm vui mà sống, ít ra là non bốn năm nữa.
Hãy nghĩ rằng, nếu Trump mà… khá, tinh ranh và khéo léo hơn trong việc thực hành Trumpism, chúng ta càng lý do để lo âu nhiều hơn, thậm chí là sợ, là hãi hùng. Chỉ bằng cách thô bạo, ngỗ ngược, cực kỳ phi quy ước như đang chứng kiến, Trump mới thúc đẩy chủ nghĩa Trump đi vào con đường phá sản nhanh hơn.
Thị Xuân cũng vậy. Thị quê Thái Bình, tốt nghiệp Đại học An ninh Nhân dân năm 1990 và ngay sau đó được cử vào vùng nóng Đắk Lắk làm “cán bộ trinh sát” của Phòng Chống Phản động (PA16) thuộc Công an tỉnh.
Phải xuất sắc lắm nên Xuân mới được cử vào nơi làm đảng lo âu vì đồng bào thiểu số nổi dậy do bị tước đoạt môi trường sống, nghĩa là bị tước quyền sống. Hành trình “chống phản động” ở đây hoàn toàn đồng nghĩa với hành trình “tước quyền sống” của nhân dân và phải xuất sắc lắm nên tám năm sau, năm 1998, Xuân trở thành Bí thư kiêm “Trưởng phòng Phòng Chống Phản động”. Sau đó, năm 2016 Xuân trở thành Phó Giám đốc Công an tỉnh.
Tháng 5 năm 2017, trong vai trò “đại biểu quốc hội”, phó Xuân lên tiếng trước Quốc hội, đòi “ngăn chặn có hiệu quả” những kẻ bôi nhọ lãnh đạo đảng, nhà nước.
Trước Quốc hội, phó Xuân tỏ ý lo ngại rằng vào các thời điểm chính trị nhạy cảm như Đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội, vấn đề “ xuyên tạc, bịa đặt và lan truyền những nội dung sai sự thật nhằm bôi nhọ, gây mất uy tín, xúc phạm danh dự của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ngày càng gia tăng”.
Cho rằng “điều này tạo dư luận xấu, gây hoang mang, giảm sút niềm tin của người dân không chỉ đối với cá nhân các lãnh đạo, mà còn ảnh hưởng đến việc thực hiện chủ trương, chính sách”, phó Xuân dõng dạc:
“Tôi đề nghị bổ sung quy định để ngăn chặn có hiệu quả đối với loại hành vi này. Qua tham khảo kinh nghiệm quốc tế, nhiều nước trên thế giới cũng đã quy định liên quan vào bộ luật hình sự”.
Lúc đó Xuân hãy còn là đại tá. Đại tá công an, từng là “Trưởng phòng Phòng Chống Phản động”, mà hô hào “ngăn chặn có hiệu quả” thì phải biết cái sự “hiệu quả” này sắt máu đến nhường nào?
Một người như Xuân ắt phải suy nghĩ và hành động như thể ngồi xổm trên đầu nhân dân và đó là quy luật. Mà đã là quy luật thì tại sao phải nổi giận?
Mặt khác, nếu Xuân cứ tiếp tục như vậy, biết đâu sẽ là điều tốt cho dân tộc Việt Nam và cho cả nhân quần? Bởi vô hình trung, ả đang đóng vai kẻ đào huyệt cho cái thể chế của ả!
Hãy nhớ lại sự kiện Mùa Xuân Ả Rập, làn sóng cách mạng với các cuộc nổi dậy, diễn hành và biểu tình phản đối tại ở thế giới Ả Rập năm 2010, bùng nổ từ Tunisia rồi lan sang Algeria, Ai Cập, Yemen và Jordan, Mauritanie, Saudi Arabia, Oman, Sudan, Syria, Iraq, Libya và Morocco.
Làn sóng cách mạng ấy bắt đầu khi công an Tunisia tịch thu hết rau xanh của người bán dạo Mohamed Bouazizi 26 tuổi. Bị dồn vào đường cùng, không biết làm gì khác nên ngày 17/10/2010, Bouazizi tự thiêu để phản đối và hành động này đã khởi đầu cho Cách mạng Tunisia, sau đó lan ra khắp thế giới Ả Rập.
Xuân mà càng hung hăng, người Việt Nam càng bị dồn vào đường cùng, cái chế độ mà ả bảo vệ càng có nguy cơ sụp đổ. Và nếu bớt đi một chế độ cộng sản, thế giới này há chẳng trở thành một “better place” như lời trong ca khúc “Heal the world” nổi tiếng của Michael Jackson hay sao?
Cũng như Trump, y càng kỳ quặc, càng điên khùng, Trumpism của y mới càng có nguy cơ phá sản và đám MAGA quân kia mới nhận ra cái ngu của mình và nước Mỹ, cũng như toàn bộ thế giới này, sẽ là một “better place”.
Hãy nhớ lại rằng, trong Đệ nhị Thế chiến, tình báo Anh đã lên cả một kế hoạch chi ly để ám sát Adolf Hitler nhưng rồi Thủ tướng Winston Churchill đã ra lệnh hủy bỏ. Churchill hiểu ý rằng, Hitler chỉ có tài kích động chính trị, còn nhãn quan chiến lược và chiến thuật về mặt quân sự là zero, thậm chí là số âm, do đó trừ khử y thì lợi không bằng hại. Quân Đức có rất nhiều tướng tài, hãy để yên cho y chặt chân chặt tay các vị tướng này với những ý tưởng điên rồ của mình, quân Đồng Minh mới nâng cao thế thắng.
Quả nhiên, thực tế cho thấy việc Hitler bác bỏ ý tưởng tấn công hay phòng thủ của nhiều tướng lĩnh dưới quyền là một trong lý do chính khiến Đức thua trận. Thí dụ Thống chế Erwin Rommel, vị tướng tài nổi danh là “Cáo sa mạc” sau chiến dịch Bắc Phi. Năm 1943, Hitler giao cho Rommel trách nhiệm phòng thủ vùng Normandy tại Pháp, là nơi gần nước Anh nhất, có nguy cơ bị tấn công đổ bộ nhất. Tuy nhiên Hitler lại bác yêu cầu của Rommel, theo đó thì nên bố trí một Sư đoàn xe tăng Panzer gần bờ biển Pháp để sẵn sàng ứng phó. Nếu Hitler làm theo ý Rommel, có lẽ ngày đổ bộ D-Day của quân Đồng Minh sẽ là một thảm họa kinh hoàng.
Do đó, chúng ta cũng đừng nên lên cơn điên mỗi khi Trump nổi cơn… khùng, tỷ như hai cơn khùng mới nhất là “đấu tố” Nam Phi hay cấm Viện Đại học Havard thu nhận sinh viên nước ngoài.
Y càng điên khùng như thế, thì chủ nghĩa Trump của y càng phá sản nhanh hơn.
Những gì Trump đang thực hiện chính là một cuộc “đấu tranh giai cấp” mà Karl Marx đã phát triển thành học thuyết.
Theo Marx thì lịch sử nhân loại chính là lịch sử của các cuộc đấu tranh giai cấp: Việc giải quyết những xung đột kinh tế – xã hội giữa các giai tầng là động lực chính của những biến chuyển lịch sử.
Nhưng hai con người chào đời cách nhau 128 năm này giống và khác nhau ở những điểm nào?
Marx phất cờ vô sản, Trump phất cờ thượng lưu.
Marx kêu gọi “Vô sản quốc tế liên hiệp lại”, Trump kêu gào “nước Mỹ đóng cửa lại”.
Và nếu Marx nêu cao “chuyên chính vô sản” thì Trump thực hiện “chuyên chính đại tài phiệt”.
Nói theo ngôn ngữ toán học thì họ giống nhau ở giá trị tuyệt đối, chỉ khác ở cái dấu cựu hữu – cực tả, national chauvinism – thế giới đại đồng.
Khi Trump – với kim chỉ nam Project 2025 của tổ chức cực hữu The Heritage Foundation – ký sắc lệnh hành pháp bãi bỏ Bộ Giáo Dục, y cũng làm cái điều mà những nhà cách mạng vô sản Việt Nam từng ông ổng: “Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình”.
Nói đến “lợi quyền” là nói đến kinh tế học, khoa học xây dựng trên tiền đề về lòng tham và nỗi sợ của con người, theo đó hành vi nào của chúng ta cũng bị chi phối bởi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận và tối thiểu hóa thiệt hại.
Tối đa hóa lợi nhuận là tham, lo xa với thiệt hại là sợ. Chính sách của Trump cũng hình thành từ thôi thúc tham – sợ này.
Khi Trump đòi sáp nhập Canada, chiếm Greenland, sở hữu Panama hay cưỡng ép Ukraine chuyển nhượng tài nguyên, chúng ta nhận ra bản mặt một tên thực dân tham lam, hèn hạ.
Và khi y bãi bỏ Bộ Giáo dục, chúng ta nhận diện một nhà cai trị tầm nhìn hạn hẹp, đang lo sợ, bất an và việc này cũng có những căn cơ lịch sử của nó.
Bước qua thời mông muội thì con người ý thức được rằng quyền lực không nằm ở bắp thịt mà quyền năng thủ đắc tri thức. Do đó, bằng mọi giá, nhà cai trị nào cũng hướng đến việc kiểm soát, phân phối và công nhận tri thức.
Quốc Tử Giám được xem như là trường đại học đầu tiên của Việt Nam, đã ra đời với mục tiêu này: Phân phối và công nhận tri thức cho dòng dõi quý tộc hay quan lại, lớp người gắn bó với triều đình nhất.
Hay chính sách lý lịch hẹp hòi bần tiện trên đất nước chúng ta một thời, khi các thí sinh đại học được chia tới 15 loại, và đây cũng thể hiện nỗi sợ của giai tầng cai trị [1].
Cho đến nay, khi tiếp tục duy trì “Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước” để độc quyền việc công nhận tri thức chứ không chịu giao phó cho các đại học, giai tầng cai trị tại Việt Nam cũng thể hiện sự bất an tương tự.
Đó là tập thể, trên phương diện cá nhân chúng ta nhận ra không ít trường hợp tương tự, như Lưu Quý Kỳ (1919-1982). Kỳ vốn là đệ tử ruột của cả Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, chức vụ cuối cùng là Vụ trưởng Vụ Báo chí, kiêm Tổng Thư ký Hội Nhà báo, thời kháng Pháp hoạt động ở Nam bộ, giữ chức Giám đốc Sở Tuyên truyền văn nghệ Nam bộ.
Trong Đêm Giữa Ban Ngày, nhà văn Vũ Thư Hiên kể chuyện thời ấy, mỗi lần nhận tài liệu trung ương từ miền Bắc gởi vào là Kỳ cắm cúi đọc và ghi chép cho riêng mình, “xong là đốt ngay, không cho ai được đọc nữa”. Kỳ muốn làm người độc quyền về lý luận văn nghệ xã hội chủ nghĩa ở cõi miền Nam [2].
Bây giờ chúng ta thấy giai tầng thượng lưu Mỹ, qua chính sách của Trump.
Họ lo sợ cho trước hiện tượng các sinh viên Á – Phi hay bình dân ngày càng hiện diện nhiều hơn tại các đại học hàng đầu Mỹ, cả tám trường uy tín nhất thuộc Ivy Leagues như Havard, Princeton, Yale, Columbia v.v… Để bảo vệ quyền lực của mình thì phải ngăn chặn quyền tiếp nhận tri thức của giới mà họ khinh khi là hạ đẳng.
Và họ đánh đòn kinh tế.
Chi phí đại học tại Mỹ là một gánh nặng với giai tầng trung lưu, đừng nói là giai tầng lao động. Vai trò của Bộ Giáo dục Mỹ là giúp đỡ giới này qua những chính sách tín dụng phải chăng và chính phủ có làm thế thì, thứ nhất, xã hội mới tiến tới sự công bằng khi giai tầng bậc thấp có thể đổi đời bằng con đường tri thức và, thứ hai, sẽ làm cho nước thịnh vượng qua việc khai thác tối đa tiềm năng chất xám của toàn dân số Mỹ.
Khi bãi bỏ Bộ Giáo dục, Trump đã tước bỏ quyền tiến thân của giai tầng bậc dưới và, do đó, đã bảo vệ thế bề trên của giai tầng thượng lưu. “Thượng phẩm vô hàn môn, hạ phẩm vô thế tộc”. (Phẩm trật cao đâu vào tay kẻ bần cùng, phẩm trật thấp đâu đến tay con nhà hào môn). Nếu Trump thành công thì nước Mỹ của thế kỷ 21 sẽ quay về Trung Quốc trước thế kỷ thứ 6, khi hệ thống quan chế vận hành theo mô thức thế tập hay cử tuyển, trước khi nhà Tùy (581-621) cải cách bằng khoa cử.
Khẩu hiệu “American First”, ở đây, là “American Uper Class First”.
Quyết định trên, cùng hàng trăm sắc lệnh đang làm xáo trộn nước Mỹ đều có một mẫu số chung là “anti DEI”, tức chống lại một xã hội Mỹ đa dạng (Diversity), công bằng (Equity) và hòa nhập (Inclusion) [3].
DEI cũng là tiêu chí của xã hội Tây phương mà người Việt chúng ta thụ hưởng rất nhiều sau tháng 4 năm 1975: Những thuyền nhân có thể nào được định cư rồi hòa nhập và tiến thân bằng con đường học vấn ở Mỹ hay các nước Tây phương khác, nếu không có chính sách DEI?
Nhưng, như đã nói, chủ trương này lại khiến giới thượng lưu da trắng phát sợ bởi sự thành đạt không còn là độc quyền của họ. Và để đối phó, Trump đang thay mặt họ “thanh tẩy” nước Mỹ bằng một thứ “chuyên chính thượng lưu”.
Trump lên kế hoạch trục xuất hàng chục triệu di dân da màu “không giấy tờ” bất kể những đóng góp kinh tế xã hội của họ. Trump còn học Hitler hay Tần Thủy Hoàng làm trò đốt sách, xóa bỏ mấy trăm ngàn trang web và cơ sở dữ liệu của chính quyền liên bang vì liên quan đến chính sách DEI, sắc tộc hoặc giới tính, xóa tên những anh hùng, tử sĩ đã đóng góp xương máu cho nước Mỹ chỉ vì màu da của mình.
Bây giờ thì nhiều MAGA quân theo đạo Hồi hay gốc Mỹ La Tinh đã lên tiếng thừa nhận là mình sai, mình ngu [4]. Nhưng, thật lạ lùng, nhiều MAGA quân gốc Việt vẫn “kiên cường bám trụ”!
Trước đây thì họ, hay cha anh họ, cũng từng là nạn nhân của một “đấu tranh giai cấp” kỳ dị. Đó là cuộc “đấu tranh” với tầng lớp tiểu tư sản có học lãnh đạo bên trên, dụ dỗ một đám nông dân đui mù ở dưới để hy sinh cho giai tầng công nhân chẳng liên quan gì đến mình [5].
Cách Mạng Tháng Tám năm 1945 là dấu mốc lớn của cuộc đấu tranh này nhưng sự thành công của nó, theo chính Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể Tổng Bí Thư Lê Duẩn, trong bài nói chuyện tại trường viết văn Nguyễn Du vào năm 1979: “Các bạn có biết vì sao mà Cách mạng tháng 8 năm 45 thành công không? Ấy là vì dân ta bấy giờ còn ngu quá! Chứ như hôm nay ấy à, còn lâu!” [6].
Nghĩa là, theo Giáo sư Đại, sau 34 năm thì dân ta đã hết ngu. Nhưng chưa chắc. Không nhất thiết phải tính chuyện năm 2016, cho qua 2020, thậm chí cả năm 2024, chỉ tính thời điểm tháng Ba năm 2025 này thôi, những MAGA Việt vẫn chưa chịu nhận ra phải trái.
Họ vẫn tôn sùng cái tên thực dân đã liên tiếp giáng đòn vào người lao động và người da màu, đã đứng về phía một nước lớn để hiếp đáp một nước yếu, đã thừa cơ hoàn cảnh bị xâm lược mà liên tiếp gây sức ép lên một nước đang cần sự giúp đỡ của mình mà vòi vĩnh tài nguyên theo lối ăn trên đầu, trên cổ.
Họ đang theo đuổi một cuộc chiến kỳ quái nhất khi phất cao lá cờ của kẻ chỉ nhắm đến việc tước đoạt hết quyền lợi của mình, sổ toẹt vào nhân phẩm của mình, khinh khi màu da của mình!
Lặp lại lời Giáo sư Đại thì quá thừa, điều tôi muốn nhắc là lời của một nhân vật trong Green-book, cuốn phim nói về nghệ sĩ dương cầm da đen Mỹ, Donald Shirley (1927 –2013).
Đó là một nghệ sĩ tài năng với tầm vóc quốc tế nhưng bị kỳ thị đến độ, khi được mời đến trình diễn tại một nhà hàng ở miền Nam nước Mỹ, đã bị cấm, không được phép ăn tối ở đây, nếu cần ăn để có sức mà trình diễn thì nhà hàng có thể chiếu cố, bày một cái bàn trong xó của nhà kho, vì lẽ nhà hàng không tiếp khách da màu. Tên phim lấy từ sách The Negro Motorist Green Book, phát hành từ năm 1936 đến 1966, hướng dẫn người da đen di chuyển xuyên bang tìm chỗ ăn và chỗ trọ.
Trong cuộc trò chuyện về những bất công mà nghệ sĩ này chịu đựng, Tony Lip, một người Mỹ gốc Ý trong vai tài xế, kiêm cận vệ, trong chuyến lưu diễn của Shirley vào năm 1962, đã nhại lời của Tổng thống Kennedy: “Đừng thắc mắc đất nước đã làm gì cho bạn, hãy thắc mắc những gì mà bạn có thể tự làm cho chính mình”. (Don’t ask what your country can do for you, ask what you can do for yourself).
Rồi đây, nếu cuộc đấu tranh giai cấp và anti-DEI của Trump thành tựu, liệu những MAGA da vàng của chúng sẽ phải tự hỏi mình những câu hỏi của những người da đen vào thập nhiên 1960, những người không được quyền học tại những trường hay bước lên những xe bus chỉ dành cho người da trắng, thậm chí không được ngồi vào bàn ăn của những nhà hàng mà chính mình được mời đến để trình diễn âm nhạc?
__________________
The Following User Says Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Ông Trump đã gây tranh cãi ầm ĩ khi sử dụng hình ảnh giả để đấu tố Nam Phi về tình trạng “đàn áp người da trắng” khi hội kiến Tổng thống Nam Phi Cyril Ramaphosa vào ngày 21/5/2025 tại Tòa Bạch ốc.
Tổng thống đương nhiệm của nước Mỹ này — một tỷ phú, một “đại phú ông” — lại làm tôi nghĩ đến những bần cố nông hung hăng đấu tố trên đất nước chúng ta một thời.
Mà là những cảnh đấu tố ngớ ngẩn nhất, nếu không nói là ngu ngốc nhất, nói theo ông Trần Huy Liệu, người từng là Bí thư Tổng bộ Việt Minh, Bộ trưởng tuyên truyền rồi Viện trưởng Viện Sử học của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Như cảnh đấu tố “tên địa chủ Nguyễn Văn Bính” vào ngày 18/3/1953 tại Đồng Bẩm (huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên) mà ông Liệu đã cẩn thận ghi chép trong nhật ký.
Cuộc đấu tố diễn ra trên sân khấu, có căng khẩu hiệu “Đả đảo và trừng trị xứng đáng tên địa chủ cường hào gian ác Nguyễn Văn Bính”.
Xin mở ngoặc ở đây, tiếng Việt có lẽ bị bọn bần cố nông này làm hỏng ngay từ những khẩu hiệu chính trị sặc mùi “chuyên chính” này. Đã nói trừng trị thì nên là “trừng trị đích đáng”, còn chữ “xứng đáng” thì nên dành cho những việc như “tưởng thưởng, khen thưởng” v.v…
Trở lại với nạn nhân, thời Pháp thuộc ông Bính làm lý trưởng rồi phó chánh tổng nhưng sớm “giác ngộ cách mạng”, là người đầu tiên trong vùng được kết nạp vào đảng và ngay sau Cách mạng tháng Tám (1945) được bổ nhiệm làm Chủ tịch ủy ban hành chính kháng chiến xã, rồi sau đó lên làm ủy ban huyện.
Nhưng đến năm 1953 thì ông bị mang ra đấu tố làm thí điểm, cùng đợt với bà Nguyễn Thị Năm. Tổng chỉ huy của cuộc đấu tố tại đây là Hoàng Xuân Việt.
Trần Huy Liệu tả cảnh tố ngu:
‘Ngu ngốc đến nỗi khi nhắc đến những việc làm thời Pháp thuộc của Bính, rồi hỏi “mày đã dựa vào thế lực nào?” là có ý chỉ vào thế lực thực dân đế quốc, cái đó đã đành. Tới khi hỏi những việc làm của Bính bằng danh nghĩa chính quyền của ta, cũng cứ gạn hỏi “mày đã dựa vào thế lực nào”. Và nếu quên câu hỏi này thì lại có người nhắc hỏi. Đã thế, không cho “phạm nhân” được trả lời, vì trả lời tức là “ngoan cố” [1].
Nếu mức ngu này là một thì lời đấu tố sau đây mới là ngu mười, ngu một trăm, một ngàn:
“Ngoài ra không thiếu những điều vô lý đến phì cười. Có người tố Bính đã quyên tiền của mình để đóng cho Việt Minh trước cuộc Cách mạng tháng Tám… Có người tố Bính đã làm thịt lợn đãi du kích mà con lợn đó là lợn nhà của Bính” [2].
Họ “tố cáo tội ác của tên địa chủ Tổng Bính” nhưng không hề ý thức rằng nạn nhân này đã làm những gì.
Giống hệt như Trump. Trump trưng ra bằng chứng để đấu tố Nam Phi mà không biết bằng chứng đó từ đâu, và những gì đang thực sự diễn ra tại Nam Phi.
Trong tư cách chủ nhà, Trump đã “phục kích” vị khách ngoại giao của mình khi trưng ra bức ảnh, nói rằng đây là bằng chứng “không thể chối cãi” về việc người da trắng, đặc biệt là nông gia, đang bị “diệt chủng có hệ thống” ở Nam Phi.
Tuy nhiên chỉ mấy tiếng đồng hồ sau thì báo chí phanh phui rằng, tấm hình trên chẳng hề dính líu đến Nam Phi. Tấm hình Trump trưng ra, thực chất, được cắt ra thì đoạn phim quay tại Goma, thuộc Congo, quay cảnh chôn cất tập thể sau một vụ tấn công đẫm máu của phiến quân M23 (March 23 Movement).
Nhưng vấn đề không chỉ là tấm hình. Như đài CNN đã khẳng định: “Có nhiều tội phạm bạo lực ở Nam Phi. Tuy nhiên ở đó không hề có tình trạng diệt chủng với những nông gia da trắng” [3].
Dẫu bạo lực tràn lan thì tại xứ sở này, đó chủ yếu là bạo lực hình sự chứ không phải là bạo lực với lý do chủng tộc. Nạn nhân, đại đa số là người da đen. Theo số liệu thống kê chính thức của Nam Phi thì từ tháng 4 đến tháng 12/2024, đã xảy ra 19.696 vụ sát nhân, trong đó chỉ có 36 vụ liên quan đến các nông gia da trắng, tức chỉ chiếm 0.18%.
Trump cũng đưa ra một bằng chứng giả khác: Người da trắng Nam Phi đang tràn ngập nước Úc để xin tỵ nạn, do sợ bị tàn sát.
Dĩ nhiên một số nông gia và thương nhân Nam Phi đã sang Úc định cư để có cuộc sống ổn định hơn, rời xa đất nước đầy bất ổn vì bạo lực, tuy nhiên họ chỉ định cư như những di dân tự do, những nhà đầu tư, với số lượng nhỏ.
Họ chưa hề “tràn ngập” nước Úc như những người tỵ nạn.
Trên thực tế thì đó chỉ là ý kiến của nguyên Bộ trưởng Nội vụ Peter Dutton vào năm 2018, khi Úc bổ sung thêm 12.000 suất tỵ nạn cho nạn nhân của nội chiến tại Syria và nạn nhân của cuộc thánh chiến do giáo phái tử thân ISIL gieo rắc ở Iraq. Lúc này ông Dutton đề nghị Bộ Ngoại giao Úc nên phân bổ bớt các “suất tỵ nạn” này cho các nông gia Nam Phi.
Dutton là người cực hữu và phò Trump. Có thể hiểu rằng khi đưa ra ý kiến trên, ông ta không ưa người Trung Đông và chú ý đến người da trắng Nam Phi vì yếu tố “đồng chủng, đồng văn”. Tuy nhiên, đề nghị của ông Dutton lúc đó không được Bộ Ngoại giao Úc xem xét.
Cần nhắc thêm là, trước đó, năm 2008, nguyên Bộ trưởng Di trú Kevin Andrews – cùng đảng Tự Do với Dutto – bị tố cáo là đã thầm lặng ra lệnh cho nhân viên của mình hãy ưu tiên người Thiên Chúa Giáo khi cứu xét đơn xin tỵ nạn [5].
Đây là thời đại thông tin và những lời dối trá trắng trợn đều có thể bị phanh phui chỉ sau vài tiếng đồng hồ. Thế nhưng, tại sao Trump vẫn tự tin trưng ra những tin giả như thế ngay giữa Tòa Bạch ốc, ngay trước các ống kính truyền hình để đấu tố một vị quốc khách?
Phải chăng là Trump đang mắc bệnh tâm thần, lẫn lộn giữa giả và thật?
Cảnh Trump lẫn lộn trong đấu tố này làm tôi nghĩ đến cảnh đấu tố “tên địa chủ cường hào gian ác Nguyễn Văn Bính” ở Thái Nguyên khi những bần cố nông lẫn lộn giữa “ta” và “địch”. Từ nhật ký của Trần Huy Liệu, tôi mạn phép diễn nôm:
– “Tôi xin tố, tên địa chủ Nguyễn Văn Bính đã bắt con heo của nhà nó để làm thịt đãi du kích của ta!”
– “Tôi xin tố, tên Việt gian Nguyễn Văn Bính đã đứng ra quyên tiền của nhân dân để ủng hộ Việt Minh!”
Tiện thể, tôi nhắc lại sự lẫn lộn mà những thân nhân của tôi từng chứng kiến, trong các buổi đấu tố sau tháng 4 năm 1975, từng được tôi kể lại nhân dịp 30 tháng 4:
– “Tôi xin tố, cộng sản bắn chết chồng tôi!”
– “Tôi xin tố, cộng sản bắt con bò của tôi làm thịt!”
– “Chế độ ta có ưu điểm là yên bình, tối nào đồng bào cũng đều được ngủ ngon. Chế độ Mỹ ngụy có khuyết điểm là để Việt Cộng pháo kích và gài mìn, không đêm nào được ngủ yên mà ra đường thì phập phồng lo sợ!”
Đó là chuyện xưa. Cái quan trọng bây giờ là sự lẫn lộn của nhiều người Việt Nam chúng ta: Da vàng mà tưởng da mình trắng lắm, sẽ được chiếu cố như những người da trắng ở Nam Phi…
__________________
The Following User Says Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Đây là phong trào Leaving MAGA (LMAGA), một tổ chức phi lợi nhuận mà giám đốc điều hành là Rich Logis, có đầu óc cực hữu, ủng hộ đảng Cộng Hòa, từng bỏ phiếu cho Trump nhưng rồi thì sáng mắt khi thấy được nước Mỹ ra sao dưới quyền lãnh đạo của Trump.
Phong trào tập hợp những cử tri khuynh hữu, từng nuôi ảo tưởng về Trump và nay thì đã “tàn cơn ảo mộng”. Nó cũng giống như những người Việt yêu nước phải quay đầu “dinh tê” (rentrer): Sau khi xếp bút nghiên, rời thành thị lên rừng chống ngoại xâm nhưng rồi khám phá đây chỉ là một thứ nội xâm, thôi thì chỉ biết về thành.
Vỡ mộng với Trump thì họ “dinh tê” nhưng còn những kẻ vẫn say đắm cơn mê thì sao? Những cựu MAGA quân này đặt ra mục tiêu “giải Trump” cho họ, nhắm vào những thân nhân, bạn bè.
Lại nói theo ngôn ngữ của Bác sĩ Hồ Văn Châm hay ông Hoàng Đức Nhã trong chương trình Chiêu Hồi năm nào là phải vận động để thân nhân còn mê mãi trong đội MAGA quân kia “quay về với chính nghĩa Cộng Hòa”.
Mà để vận động họ quay về thì phải nắm rõ tại sao họ đi sai đường.
Rich Logis cho rằng, có ba nguyên nhân chính: “Tin sai (misinformation) và phản tin (disinformation); khuynh hướng tin rằng ‘phía bên kia” (Dân Chủ) là tệ hại nhất; hiểu sai về chủ nghĩa tư bản và thị trường tự do, dẫn đến sự bất mãn tràn lan trong vấn đề tài chính.
Theo Rich Logis thì những MAGA quân này cũng có sự tự ái nên cách tốt nhất để thuyết phục họ là đừng nên có thái độ lên lớp. Ông đưa ra 5 bước giải Trump:
1. Tìm những mẫu số chung để bắt đầu câu chuyện.
2. Không công kích.
3. Đưa ra cơ hội hòa giải với gia đình và bạn bè.
4. Thay vì tranh cãi nhau, nên biết tiến và thoái với thái độ tương kính.
5. Sau khi tạo ra vài tiến triển – thường chỉ đạt được sau một vài cuộc trao đổi – đặt vấn đề là họ có muốn nghe về sự hối hận của những cựu ủng hộ viên của Trump hay không.
Phổ biến những câu chuyện hối tiếc này là một trong những công việc của LMAGA [1].
Rich Logis cho rằng, tiến trình “giải Trump” sẽ diễn ra một cách từ từ từ, từng bước một, rồi đến một lúc đó, những ủng hộ viên của Trump sẽ đột ngột nhận thức được rằng những xáo trộn và hỗn loạn mà Trump tạo ra là có hại cho giới thu nhập thấp và giới trung lưu Mỹ và, tệ hơn hết, là cho các tiểu doanh nghiệp.
Nhận xét này làm tôi nghĩ đến đoạn đối thoại khô khốc giữa hai nhân vật trong “The Sun Also Rises” của Ernest Hemingway:
‘How did you go bankrupt?’ Bill asked. (Bill hỏi: ‘Vì sao anh bị phá sản?’)
‘Two ways,’ Mike said. ‘Gradually and then suddenly.’ (Mike trả lời: ‘Hai cách, từ từ rồi đột ngột’).
Hy vọng là MAGA cũng đang tuột dốc trong sự phá sản như thế để, đến một lúc nào đó, nó sẽ lăn đùng ra chết, đột ngột, bất thình lình.
Trong dòng chảy chính trị đương đại, hiếm có hiện tượng nào gây tranh cãi, chia rẽ và để lại ảnh hưởng sâu rộng như Donald Trump và phong trào chính trị gắn liền với ông – Trumpism (có thể dịch là chủ nghĩa hay phong trào chính trị Trump). Không chỉ đơn thuần là một hệ tư tưởng hay một cá nhân, Trumpism đã và đang trở thành một cấu trúc quyền lực mang tính cảm xúc, bản sắc và phi truyền thống, thách thức toàn diện các chuẩn mực vốn được xem là nền tảng của nền dân chủ tự do Mỹ.
Không chỉ là một cuộc trở lại của chủ nghĩa dân túy, Trumpism biểu trưng cho một thời kỳ mới: Nơi cảm xúc thắng thế lý trí, bản sắc lấn át chính sách, và nơi người dân không còn tìm kiếm nhà nước quản trị hiệu quả mà mong muốn một nhà lãnh đạo “hiểu mình, giống mình, và chiến đấu vì mình”. Đây là một bước ngoặt trong lịch sử chính trị mà chúng ta không thể xem nhẹ.
1. Sự nổi lên của Trumpism: Bối cảnh và sự ra đời
Sự xuất hiện của Trumpism không thể hiểu một cách đầy đủ nếu chỉ nhìn vào bản thân cá nhân Donald Trump hay diễn biến của chiến dịch tranh cử năm 2016. Thay vào đó, hiện tượng này cần được đặt trong bối cảnh sâu xa của sự phân rã lâu dài về niềm tin thể chế, bất bình đẳng kinh tế ngày càng gia tăng, xung đột văn hóa, và sự chuyển dịch quyền lực truyền thông trong xã hội Mỹ hậu Chiến tranh Lạnh.
Từ thập niên 1980 trở đi, nền kinh tế Mỹ chứng kiến sự gia tăng bất bình đẳng thu nhập song song với quá trình toàn cầu hóa và tự do hóa tài chính. Trong khi tầng lớp giàu có tận dụng được toàn bộ thành quả từ thương mại toàn cầu và thị trường tài chính mở rộng, thì nhiều cộng đồng lao động, đặc biệt tại các bang công nghiệp như Ohio, Pennsylvania hay Michigan, dần rơi vào trạng thái trì trệ và tụt hậu. Những nhà máy đóng cửa, việc làm chuyển sang châu Á, và thu nhập thực tế của tầng lớp trung lưu không tăng đáng kể trong ba thập kỷ đã tạo nên một cảm giác mất phương hướng và bất công sâu sắc trong lòng xã hội Mỹ.
Bên cạnh yếu tố kinh tế, sự phân cực văn hóa cũng là động lực then chốt. Kể từ thập niên 1990, các vấn đề như nhập cư, quyền của người đồng tính, phá thai, chính sách sắc tộc và vai trò của chính phủ trong đời sống xã hội trở thành các điểm xung đột không chỉ giữa các đảng phái mà còn giữa các vùng địa lý và cộng đồng dân cư. Truyền thông đại chúng – từ truyền hình cáp đến mạng xã hội – góp phần khoét sâu những khác biệt ấy bằng cách tạo ra các “buồng vọng” (echo chambers), nơi người dùng chỉ tiếp xúc với thông tin củng cố định kiến sẵn có. Hậu quả là không gian công cộng dần mất đi vai trò trung gian, trở thành chiến trường của những cuộc chiến bản sắc.
Trong bối cảnh ấy, Donald Trump xuất hiện như một hiện tượng lạ thường nhưng phù hợp với thời điểm. Với kinh nghiệm truyền hình thực tế và phong cách giao tiếp trực tiếp, ông không đi theo lối mòn tranh cử truyền thống mà khai thác triệt để cảm xúc bất mãn, lo sợ và hoài nghi. Thông điệp “Make America Great Again” không chỉ đơn thuần là khẩu hiệu chính trị mà là một tuyên ngôn bản sắc – kêu gọi khôi phục một trật tự xã hội tưởng tượng nơi người Mỹ “thật sự” từng nắm giữ đặc quyền kinh tế và đạo đức. Những lời công kích của Trump vào giới tinh hoa chính trị, báo chí dòng chính, người nhập cư và các thể chế quốc tế không phải là sự trượt lưỡi nhất thời, mà là cách ông xác lập ranh giới giữa “chúng ta” và “họ” – nền tảng cho bất kỳ phong trào dân túy nào.
Chiến thắng của Trump trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2016 và sự trở lại ngoạn mục của ông ta vào năm 2024 không chỉ là sự kiện gây chấn động chính trị nước Mỹ, mà còn là bằng chứng cho thấy một cấu trúc đại diện cũ đang rạn nứt. Sự bất tín nhiệm các thiết chế trung gian – từ Quốc hội, Tòa án, báo chí, đến các đảng phái – khiến một bộ phận cử tri tìm kiếm sự cứu rỗi ở một cá nhân ngoài hệ thống. Họ không cần một chính trị gia truyền thống, mà một người có vẻ “chân thật”, dám nói những điều cấm kỵ, và hứa sẽ phá bỏ hệ thống “thối nát” (“drain the swamp”).
Do đó, Trumpism không phải là một sự ngẫu nhiên nhất thời. Nó là biểu hiện chính trị của một cơn chấn động địa tầng đang âm ỉ từ lâu trong lòng nước Mỹ: Khủng hoảng trong việc đại diện cho người dân, suy giảm niềm tin vào tự do thị trường, và sự phân cực văn hóa sâu sắc. Hiện tượng này báo hiệu rằng nếu không có sự tái cấu trúc nghiêm túc về cách vận hành dân chủ, những phong trào tương tự sẽ còn tiếp tục xuất hiện trong tương lai.
2. Trumpist (hay Trumper) – Họ là ai?
Một trong những câu hỏi quan trọng nhất mà giới nghiên cứu đặt ra khi quan sát sự trỗi dậy của Trumpism là: Ai là những người ủng hộ trung thành của phong trào này, và điều gì khiến họ gắn bó không lay chuyển với một nhân vật gây chia rẽ như Donald Trump, ngay cả khi ông phải đối mặt với hàng loạt bê bối, luận tội và thất bại pháp lý? Câu trả lời không thể đơn giản hóa thành các nhãn dán như “bảo thủ”, “phản động”, hay “kỳ thị”. Thay vào đó, một loạt nghiên cứu định lượng và định tính cho thấy Trumpism thu hút được một liên minh xã hội phức tạp, trong đó ba yếu tố nổi bật nhất là bản sắc văn hóa, vị trí giai cấp, và tâm lý bị loại trừ.
Trái với định kiến phổ biến, cử tri ủng hộ Trump không phải chủ yếu là tầng lớp nghèo khổ nhất của nước Mỹ. Trên thực tế, phần lớn họ đến từ tầng lớp trung lưu và trung-lưu-thấp, đặc biệt là trong các cộng đồng da trắng ở vùng nông thôn hoặc bán nông thôn, nơi chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi sự suy giảm công nghiệp và thay đổi nhân khẩu. Họ thường không sống trong cảnh đói nghèo tuyệt đối, nhưng cảm thấy bị đẩy ra bên lề bởi những biến động kinh tế, công nghệ và xã hội mà họ không kiểm soát được. Chính cảm giác tụt hậu – cả về vật chất lẫn biểu tượng – mới là động lực tâm lý mạnh mẽ thúc đẩy họ tìm đến một phong trào mang tính phục hận như Trumpism.
Yếu tố bản sắc đóng vai trò trung tâm trong cấu trúc cảm xúc của những người ủng hộ Trump. Đối với nhiều người, đặc biệt là nam giới da trắng không có bằng đại học, sự trỗi dậy của các phong trào như nữ quyền, quyền LGBTQ+, Black Lives Matter hay nhập cư đa sắc tộc không chỉ là sự thay đổi xã hội, mà là một mối đe dọa có tính bản thể – cảm giác rằng chính sự tồn tại và ý nghĩa công việc/cuộc sống của họ đang bị phủ định. Trong hoàn cảnh ấy, Trump trở thành biểu tượng của sự khôi phục trật tự cũ, một “người hùng” dám nói thay cho những người cảm thấy mình không còn tiếng nói trong xã hội. Ông không chỉ là ứng viên chính trị, mà là biểu tượng cảm xúc của những gì đã mất: sự tôn trọng, sự kiểm soát, và cảm giác thuộc về.
Cùng với đó là một đặc điểm tâm lý nổi bật: Niềm tin rằng hệ thống hiện hành đã bị thao túng bởi các thế lực “ẩn danh” – từ truyền thông dòng chính, các đại học “thiên tả”, đến các tập đoàn công nghệ toàn cầu. Trong cách nhìn ấy, Trump không phải là một người bình thường chiến thắng trong một cuộc chơi công bằng, mà là kẻ nổi loạn thách thức toàn bộ cấu trúc quyền lực ẩn sau bức màn dân chủ. Những người ủng hộ ông không cần ông “hoàn hảo”, mà chính vì ông “không giống ai”, “nói bậy”, “chửi thề”, “cãi nhau với báo chí”, mà ông được yêu mến – bởi những hành vi ấy được diễn giải như dấu hiệu của sự thật thà, thô mộc và không giả tạo.
Một phần quan trọng khác của liên minh Trumpist là các Kitô hữu phúc âm bảo thủ (Evangelicals), vốn chiếm tỷ trọng lớn trong cử tri Cộng hòa. Họ không chỉ đồng tình với lập trường của Trump về các vấn đề như phá thai, gia đình truyền thống hay chính sách Israel, mà còn tin rằng ông là công cụ của Thiên Chúa – một “Cyrus hiện đại” [1] được gửi đến để bảo vệ đức tin trong một thế giới sa đọa. Yếu tố tôn giáo, do đó, không chỉ bổ sung động lực đạo đức cho Trumpism, mà còn tạo nên một khung biểu nghĩa thần thánh, trong đó các cuộc tấn công vào Trump được xem là cuộc tấn công vào ý chí của Thượng Đế.
Đáng chú ý là trong suốt hai nhiệm kỳ, đặc biệt ở nhiệm kỳ hai, cơ sở ủng hộ của Trump ngày càng trở nên kết dính không phải nhờ vào chính sách cụ thể, mà bởi cảm thức tập thể – một thứ “ý thức hệ mềm” hình thành từ niềm tin, cảm xúc và ký ức chung. Người ủng hộ Trump không nhất thiết đồng tình với mọi điều ông nói, nhưng họ chia sẻ một thế giới quan, nơi sự phân cực là thực tại hiển nhiên, và trong đó Trump là người duy nhất “đứng về phía mình”.
Từ góc độ xã hội học chính trị, Trumpism tạo nên một hình thức “chủ nghĩa dân túy dựa trên bản sắc” (identity-based populism), nơi tính đại diện không được xây dựng từ chương trình chính sách, mà từ sự cộng hưởng tâm lý giữa lãnh đạo và người ủng hộ. Điều này giải thích tại sao các scandal cá nhân, luận tội hay sai phạm pháp lý không làm suy giảm niềm tin, mà đôi khi còn củng cố mối quan hệ giữa Trump và quần chúng như một sự “cùng chịu đàn áp” từ hệ thống.
3. Cấu trúc tư tưởng và đặc điểm của Trumpism
Mặc dù không được xây dựng như một hệ tư tưởng có hệ thống, Trumpism vẫn sở hữu một cấu trúc tư tưởng đặc thù, phản ánh những niềm tin nền tảng, thái độ chính trị, cũng như ngôn ngữ biểu tượng mà phong trào này duy trì nhất quán từ những ngày đầu xuất hiện. Nếu xét trong khung khái niệm chính trị học, có thể xem Trumpism là sự giao thoa giữa chủ nghĩa dân túy hữu khuynh, chủ nghĩa bản địa, phản tự do truyền thống và một kiểu chủ nghĩa cá nhân mang sắc thái cảm tính, trong đó nhân vật trung tâm – Donald Trump – vừa là người đại diện, vừa là hiện thân của phong trào.
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của Trumpism là dân túy kiểu bản sắc. Trong khi nhiều phong trào dân túy khác tập trung vào tái phân phối hoặc bất bình đẳng kinh tế, thì Trumpism nhấn mạnh đến cảm giác mất mát bản sắc và quyền lực tượng trưng của một nhóm xã hội cụ thể – thường là đàn ông da trắng, theo Kitô giáo, cư trú ở vùng nông thôn hoặc thị trấn nhỏ, những người mang trong mình niềm tự hào là hạt nhân, là xương sống, là linh hồn của nước Mỹ nhưng lại đang dần bị thay thế bởi nhập cư, toàn cầu hóa, và các nhóm thiểu số (Latino, châu Á, da đen, đồng tính…). Chính cảm giác mất địa vị ấy tạo thành “chất keo” gắn kết phong trào, khiến các thông điệp dù cực đoan, kỳ thị hay thiếu căn cứ vẫn được đón nhận như tiếng nói chân thật.
Cùng với dân túy, Trumpism cũng thể hiện những yếu tố của chủ nghĩa bài toàn cầu hóa và chủ nghĩa biệt lập mới. Phản đối các hiệp định thương mại, chỉ trích các liên minh quốc tế như NATO, và hạ thấp vai trò của các thể chế đa phương như Liên Hợp Quốc, Trumpism tái lập tư tưởng “Nước Mỹ trên hết” không theo nghĩa tự do cổ điển như thời Woodrow Wilson, mà như một phản ứng chống lại trật tự quốc tế được cho là lấy đi việc làm, chủ quyền và giá trị truyền thống của nước Mỹ. Trong khuôn khổ này, biên giới quốc gia không chỉ là vấn đề kiểm soát hành chính, mà trở thành biểu tượng đạo đức: ranh giới giữa cái đúng và cái sai, giữa người “Mỹ thực thụ” và những kẻ “xâm nhập”.
Tư tưởng chống giới tinh hoa cũng là trụ cột trong cấu trúc Trumpism. Khác với các phê phán truyền thống về quyền lực của các nhóm lợi ích hay sự bất công của chủ nghĩa tư bản, ở đây giới tinh hoa bị hình tượng hóa như những kẻ đạo đức giả, phản bội, thậm chí thù địch với người dân. Từ truyền thông dòng chính, giáo sư đại học, quan chức hành chính liên bang đến các tập đoàn công nghệ lớn – tất cả bị quy về một cấu trúc “Deep State” vô hình nhưng toàn năng, đang âm mưu phá hủy đất nước từ bên trong. Trong diễn ngôn Trumpist, điều này biện minh cho sự tấn công vào báo chí, tư pháp và các cơ quan chuyên môn như FBI hay CDC – những thực thể bị xem là xa rời thực tế và không đại diện cho người dân.
Một điểm đặc biệt trong hệ thống biểu tượng của Trumpism là sự tái định nghĩa “sự thật”. Không còn gắn với kiểm chứng khách quan hay tiêu chuẩn học thuật, “sự thật” trong Trumpism mang tính bản năng và cảm xúc – cái gì “giống như thật”, “có vẻ đúng”, “phù hợp với trải nghiệm của tôi” thì được xem là đúng. (Điều dường như nghịch lý là quan niệm về “sự thật” này lại khá gần với ý tưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại mà Trumpism khinh bỉ). Thời đại Trumpist, do đó cũng được gọi là thời đại “hậu sự thật” (post-truth). Chính điều này tạo nên sự phổ biến và tồn tại dai dẳng của các thuyết âm mưu như QAnon hay cáo buộc gian lận bầu cử, bất chấp thiếu chứng cứ. Điều cốt lõi không nằm ở việc điều đó có được chứng minh hay không, mà ở chỗ nó củng cố cảm giác bị phản bội – một cảm xúc trung tâm trong bản sắc Trumpist.
Trumpism cũng là một dạng chính trị hóa cảm xúc theo kiểu phi lý tính. Phẫn nộ, sợ hãi, nhục nhã, và niềm tin vào sự phục hưng là những cảm xúc thường trực trong các bài phát biểu, tranh luận và truyền thông xã hội xoay quanh phong trào. Thay vì kêu gọi lập luận, Trumpism kêu gọi đồng cảm – không phải với lý do, mà với sự giận dữ. Đây là lý do vì sao các bài diễn văn của Trump, vốn không có cấu trúc rõ ràng hay luận cứ chặt chẽ, vẫn tạo được sức lan tỏa mạnh mẽ: Chúng không cần chứng minh, chỉ cần chạm đúng tầng cảm xúc.
Cũng không thể bỏ qua vai trò của văn hóa đại chúng trong việc cấu trúc Trumpism. Là người xuất thân từ truyền hình thực tế, Trump hiểu rõ giá trị của hình ảnh, xung đột và khoảnh khắc gây sốc. Phong trào gắn với ông cũng kế thừa phong cách ấy: “Sự kiện hóa” chính trị, nơi mỗi hành động – từ dòng tweet đến một cuộc biểu tình – đều mang tính trình diễn cao. Người ủng hộ không chỉ là cử tri, mà là khán giả, người tham gia vào một vở kịch nơi lãnh đạo không còn là chính khách, mà là “chiến binh” của họ chống lại một thế giới đầy mưu mô và giả trá.
Như vậy xét một cách tổng thể, Trumpism là một hệ thống tư tưởng mang tính biểu tượng cao, không cần nhất quán về mặt lý luận, nhưng vô cùng hiệu quả trong việc huy động cảm xúc. Nó tái định nghĩa chính trị như một trận chiến bản sắc giữa “chúng ta” với “chúng nó”, và khôi phục cảm giác kiểm soát trong một thế giới ngày càng hỗn loạn. Chính vì vậy, nó không chỉ là hiện tượng của một thời điểm, mà là biểu hiện đậm đặc của một giai đoạn lịch sử nơi các trật tự xã hội, đạo đức và thông tin đang đứng trước các thử thách sâu sắc.
(Còn tiếp)
_______
[1] Cyrus Đại đế, người sáng lập đế quốc Ba Tư, là người giải cứu người Do Thái khỏi sự đày đọa của đế quốc Babylon trong Kinh Thánh.
4. Trumpism như một thách thức đối với thể chế dân chủ Mỹ
Trong truyền thống chính trị Mỹ, các phong trào dân túy từng nhiều lần xuất hiện, từ phong trào nông dân thời cuối thế kỷ 19 đến chủ nghĩa McCarthy thời Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, Trumpism đánh dấu một bước ngoặt nghiêm trọng hơn bởi quy mô quyền lực mà phong trào này kiểm soát được, cũng như mức độ triệt để trong việc phủ nhận các chuẩn mực nền tảng của dân chủ đại nghị. Không chỉ là một thái độ phản kháng nhất thời, Trumpism đang từng bước tạo ra một “nền văn hóa phản thể chế”, đẩy nền dân chủ Mỹ vào tình trạng bị ăn mòn từ bên trong.
Một trong những mối đe dọa rõ ràng nhất của Trumpism đối với dân chủ là sự phá vỡ các chuẩn mực hiến định bất thành văn – những quy ước phi chính thức nhưng có tính ràng buộc đạo lý vốn giữ cho thể chế hoạt động ổn định. Từ việc công khai tấn công Tòa án, phủ nhận tính chính danh của Quốc hội, đến việc kích động nghi ngờ vào tính toàn vẹn của các cuộc bầu cử, Trump và các đồng minh đã làm lung lay một cách có hệ thống nền tảng niềm tin vào quy trình dân chủ. Khi một bộ phận đáng kể dân chúng tin rằng cuộc bầu cử là gian lận, rằng báo chí là “kẻ thù của nhân dân”, rằng tòa án là công cụ của cánh tả, thì tính hợp pháp biểu tượng của nhà nước pháp quyền sẽ dần biến mất, kể cả khi các định chế vẫn tồn tại về mặt hình thức.
Không dừng lại ở lời nói, Trumpism đã có những hành động cụ thể làm suy giảm năng lực và sự độc lập của các cơ quan kiểm soát quyền lực. Trong cả hai nhiệm kỳ tổng thống, đặc biệt từ năm 2025, chính quyền Trump gia tăng các nỗ lực can thiệp vào hoạt động của Bộ Tư pháp, tấn công cá nhân các công tố viên, thay thế các quan chức chuyên môn bằng những người trung thành về ý thức hệ, và khuyến khích các bang Cộng hòa thông qua các đạo luật hạn chế quyền bầu cử. Việc loại bỏ rào chắn chuyên môn, đồng thời thay thế các vị trí trọng yếu bằng các nhân vật mang tính phe phái, tạo nên một tình trạng “phi chính trị hóa thể chế” – nơi các định chế không còn hoạt động như các công cụ cân bằng quyền lực, mà trở thành công cụ phục vụ một người hoặc một nhóm.
Trumpism cũng làm suy yếu nghiêm trọng không gian công cộng – nơi người dân có thể trao đổi thông tin, tranh luận lý trí và xây dựng sự đồng thuận xã hội. Khi thông tin bị thay thế bởi tuyên truyền, khi đối thoại bị thay thế bằng sỉ nhục và bôi nhọ, và khi sự thật bị tái định nghĩa theo nghĩa chủ quan, thì nền dân chủ tự do mất đi điều kiện tồn tại căn bản nhất: các cuộc thảo luận trong không gian công cộng dựa trên lý trí. Trong môi trường ấy, không có chỗ cho sự bất đồng mang tính xây dựng hay phê phán trên tinh thần đồng thuận – chỉ còn lại hai phe đối kháng tuyệt đối.
Điều nguy hiểm hơn nữa là Trumpism không chỉ tấn công từ bên ngoài mà còn chiếm giữ không gian bên trong của nền dân chủ. Khác với các mô hình độc tài cổ điển, Trumpism không cần đảo chính hay giải thể Quốc hội – dù đó đích thực là điều nó đã định làm, hay khuyến khích làm, vào tháng 1 năm 2020; nó chỉ cần làm xói mòn dần các quy trình, khiến người dân mất lòng tin, và cuối cùng chấp nhận một thực tế mới: dân chủ chỉ còn là hình thức bề ngoài, còn thực chất là sự kiểm soát thông qua cảm xúc và phân cực. Điều này khiến Trumpism trở thành ví dụ điển hình cho hiện tượng các thiết chế dân chủ bị vô hiệu hóa từ bên trong thông qua những người được bầu lên một cách hợp pháp.
Không thể không nhắc đến vai trò của đảng Cộng hòa trong quá trình này. Từ chỗ giữ khoảng cách với Trump, nhiều chính khách Cộng hòa dần chuyển sang ủng hộ hoặc im lặng vì lo sợ mất phiếu. Hệ quả là một đảng chính trị từng đại diện cho chủ nghĩa bảo thủ nguyên tắc và tôn trọng truyền thống hơn hết giờ đây trở thành phương tiện cho một phong trào mang đậm tính bản sắc và phản kháng thiết chế (anti-establishment). Và khi đảng Cộng hòa nắm được lưỡng viện và chiếm đa số trong Tòa án tối cao thì dường như hệ thống kiểm soát quyền lực đang bị tê liệt – một hiện tượng từng xảy ra trong các nền dân chủ suy yếu như Hungary, Venezuela hay Thổ Nhĩ Kỳ.
Tóm lại, thách thức mà Trumpism đặt ra cho dân chủ Mỹ không chỉ là những phát ngôn cực đoan hay các chính sách gây tranh cãi, mà là sự tái định hình nền tảng chính trị theo xu hướng bản năng hóa, cảm xúc hóa và phản định chế. Nếu không có nỗ lực tái cấu trúc lại niềm tin công chúng, phục hồi vai trò trung lập của các định chế, và củng cố không gian công cộng dựa trên nền tảng của lý trí và sự tôn trọng lẫn nhau, thì nền dân chủ Mỹ có thể vẫn tồn tại trên giấy tờ, nhưng không còn mang nội dung thực chất.
5. So sánh Trumpism với các phong trào dân túy – chuyên chế khác
Mặc dù mang màu sắc rất Mỹ, Trumpism không phải là hiện tượng hoàn toàn độc lập trong lịch sử chính trị thế giới. Ngược lại, các yếu tố cấu thành nên phong trào này – từ dân túy bản sắc, bài thể chế, chính trị cảm xúc đến chủ nghĩa cá nhân hóa quyền lực – đều từng xuất hiện trong các bối cảnh quốc gia khác, dưới nhiều tên gọi và hình thức khác nhau. Việc đặt Trumpism trong một hệ quy chiếu so sánh giúp hiểu rõ hơn không chỉ về bản chất của phong trào, mà còn về những nguy cơ mà nó chia sẻ với các mô hình chuyên chế (autocracy) đương đại.
Một trong những điểm tương đồng dễ nhận thấy nhất là giữa Trump và Vladimir Putin – tổng thống Nga đương nhiệm, người đã xây dựng một mô hình quyền lực tập trung quanh hình ảnh một nhà lãnh đạo mạnh tay, khôi phục bản sắc dân tộc và sẵn sàng thách thức trật tự quốc tế. Tuy nhiên, phương pháp của Putin dựa vào bộ máy nhà nước và an ninh đã được kiểm soát từ bên trong, trong khi Trump lại hành động từ một vị trí bên ngoài thể chế chính trị truyền thống. Dù vậy, cả hai đều khai thác triệt để cảm giác hoài cổ, nuối tiếc những vàng son quá khứ của dân chúng: Putin với hình ảnh một nước Nga vĩ đại thời Liên Xô còn Trump với lời hứa “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”.
Tương tự, Tập Cận Bình – nhà lãnh đạo tối cao của Trung Quốc – cũng đại diện cho một xu hướng chính trị cá nhân hóa quyền lực, nơi bản thân nhà lãnh đạo trở thành biểu tượng của sự phục hưng quốc gia. Dưới thời Tập, thuật ngữ “Giấc mộng Trung Hoa” được huy động như một tuyên ngôn dân tộc chủ nghĩa, tương tự như “Make America Great Again” trong khẩu hiệu của Trump. Cả hai cùng nhấn mạnh đến sự đe dọa từ bên ngoài, củng cố một cấu trúc “chúng ta và bọn họ”, đồng thời làm suy yếu các thiết chế trung gian (đảng cầm quyền, lãnh đạo tập thể…) để mở rộng khả năng thao túng chính trị. Khác biệt lớn nhất nằm ở cấu trúc thể chế: nếu Trumpism hoạt động trong môi trường dân chủ, thì Tập Cận Bình là lãnh đạo một nhà nước độc đảng, nơi không tồn tại sự đối trọng chính trị thực chất.
Bên ngoài hai cường quốc Nga – Trung, nhiều học giả cũng đặt Trumpism như hiện tượng tương đồng với Berlusconism ở Ý, Bolsonarism ở Brazil, hay Erdoğanism tại Thổ Nhĩ Kỳ. Điểm chung dễ nhận thấy là các nhà lãnh đạo này đều đến từ bên ngoài giới tinh hoa chính trị truyền thống, sử dụng phương tiện truyền thông để xây dựng hình ảnh cá nhân vượt lên trên đảng phái, đồng thời công kích mạnh mẽ các cơ quan kiểm soát quyền lực như tòa án, báo chí, và các tổ chức dân sự. Giống như Trump, họ xây dựng một kiểu “quyền lực biểu tượng” gắn liền với bản sắc quốc gia, nơi người dân không chỉ ủng hộ chính sách mà còn đồng nhất hóa mình với nhà lãnh đạo như đại diện của tinh thần yêu nước cao cả.
Một đặc điểm đáng lưu ý là các phong trào kiểu Trumpism thường hình thành và bùng phát trong thời kỳ khủng hoảng: khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng bản sắc, hoặc khủng hoảng niềm tin vào hệ thống dân chủ. Trong hoàn cảnh ấy, mong muốn phục hồi quyền lực từng có và các giá trị truyền thống trở thành động lực mạnh mẽ, cho phép các nhà lãnh đạo vận hành chính trị như một cuộc phục thù biểu tượng. Lịch sử cho thấy rằng các mô hình như vậy thường không chỉ làm xói mòn dân chủ, mà còn làm tổn hại sâu sắc đến khả năng tái thiết sau khủng hoảng, bởi chúng thay thế chính trị của lý trí bằng chính trị của cảm xúc, và thay thế quyền lực thể chế bằng quyền lực cá nhân. Mussolini ở Ý, Hitler ở Đức, Putin ở Nga đều lên nắm quyền lực tuyệt đối sau những khủng hoảng kinh tế và bản sắc sâu sắc và kéo dài, với những lời hứa hẹn đưa đất nước trở về thời huy hoàng trong quá khứ, rửa đi những nổi hổ thẹn của một quốc gia-dân tộc vĩ đại bị “các thế lực ngoại bang hay ngoại lai” đạp xuống hố bùn trong khi giới tinh hoa chính trị trong nước thì tham nhũng, hủ bại và yếu ớt. Sự đi lên của Trumpism không hoàn toàn theo kịch bản đó nhưng có rất nhiều thành tố như vậy. Và cũng có thể thấy sự tương tự với trường hợp Erdogan ở Thổ Nhĩ Kỳ hay Modi ở Ấn Độ.
So sánh Trumpism với các hiện tượng tương tự giúp nhận diện một xu hướng toàn cầu – nơi sự hoài nghi thể chế, bất an kinh tế, và phân cực văn hóa kết hợp để tạo nên các dạng chính trị phi lý tính, thường ẩn dưới lớp vỏ dân chủ nhưng mang nhiều đặc điểm của chế độ độc đoán. Tuy nhiên, trong trường hợp Mỹ, sự đối kháng thể chế vẫn còn tồn tại mạnh mẽ – từ hệ thống báo chí tự do, tòa án độc lập, đến các cơ chế liên bang – điều tạo ra khả năng kháng cự mà nhiều nước khác không có. Vấn đề là liệu các trụ cột này có đủ sức chống đỡ một phong trào ngày càng lan rộng và được hợp pháp hóa thông qua bầu cử hay không.
Trumpism, như vậy, không đơn độc. Nó là một phần trong làn sóng phản ứng toàn cầu chống lại hiện đại hóa nhanh chóng, quá trình toàn cầu hóa không kiểm soát, và cảm giác mất phương hướng trong thế giới hậu công nghiệp.
6. Trumpism 2.0 và sự cực đoan hóa sau khi nắm quyền
Khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng trong cuộc bầu cử năm 2024, không ít nhà phân tích kỳ vọng rằng nhiệm kỳ hai sẽ đánh dấu một sự điều chỉnh, thậm chí là “ôn hòa hóa” trong phong cách cầm quyền. Nhưng thực tế đã chứng minh điều ngược lại. Khác với nhiệm kỳ đầu vốn còn vướng mắc với các giới hạn thể chế, các nhóm phản đối trong nội bộ đảng Cộng hòa, và sự ngỡ ngàng ban đầu của chính ông trước guồng máy nhà nước, nhiệm kỳ thứ hai của Trump chứng kiến một Trumpism trưởng thành hơn, cứng rắn hơn và quyết đoán hơn – không còn là một phong trào phản kháng, mà là một mô hình cầm quyền đang định hình lại chính trị Mỹ từ gốc rễ.
Trong nhiệm kỳ mới, Trump đã hành động với một nhận thức rõ ràng rằng hệ thống có thể bị bẻ cong nếu đủ kiên trì và nếu kiểm soát được các điểm nút then chốt. Một trong những chiến lược trọng tâm là thanh lọc bộ máy hành pháp khỏi các quan chức “không trung thành”, thay thế bằng những nhân vật cam kết tuyệt đối với đường lối Trumpist. Trump có thể chọn những người hoàn toàn không có kinh nghiệm hành pháp, chính quyền hay chuyên môn, mà tiêu chí quan trọng nhất, đó là tuyệt đối trung thành với “ông trùm”. Thêm vào đó là cuộc cải tổ sâu rộng chính quyền liên bang mà tỷ phú “cánh hẩu” của Trump, Elon Musk là người cầm cương, khiến ông ta hoàn toàn kiểm soát nhánh hành pháp. Điều này dẫn đến sự xói mòn nghiêm trọng tính chuyên môn và tính độc lập của hệ thống hành chính liên bang.
Quan trọng hơn, nhiệm kỳ hai chứng kiến sự đồng thuận cao hơn giữa Trump và đảng Cộng hòa – một đảng giờ đây không chỉ chịu ảnh hưởng, mà đã phần nào trở thành công cụ truyền tải Trumpism. Sự tan rã của phe “cộng hòa truyền thống” với những cái tên như Liz Cheney hay Mitt Romney, sự rút lui của các chính khách ôn hòa như John Kasich hay kể cả Mitch McConnell, và làn sóng các ứng viên trung thành với Trump thắng cử vào các cơ quan lập pháp cấp bang và liên bang, đã giúp tạo ra một môi trường chính trị thuận lợi chưa từng có cho việc thể chế hóa các quan điểm từng được xem là cực đoan. Từ luật nhập cư khắt khe hơn, việc tăng quyền cho cảnh sát, đến việc kiểm soát mạnh tay đối với giáo dục, nghệ thuật và báo chí, chính sách Trumpism 2.0 không còn mang tính biểu tượng mà đi vào thực thi cụ thể, sâu rộng.
Một sự khác biệt then chốt giữa nhiệm kỳ đầu và nhiệm kỳ hai là thái độ đối với luật pháp. Nếu trước đây Trump còn tránh né đối đầu trực tiếp với hệ thống tư pháp liên bang, thì nay ông và các cộng sự không ngần ngại coi việc “cải cách tư pháp” như một phần của chương trình nghị sự cốt lõi. Nỗ lực mở rộng thẩm quyền hành pháp, tái định nghĩa vai trò của Tòa án Tối cao, và thúc đẩy các đạo luật bảo vệ tổng thống khỏi truy tố trong khi đương chức là minh chứng rõ ràng cho chiến lược lâu dài: Trumpism không chỉ muốn giành chiến thắng trong chính sách, mà còn trong quy tắc cuộc chơi.
Tương tự các nhà lãnh đạo như Putin hay Tập Cận Bình, Trump ở nhiệm kỳ hai ngày càng đặt trọng tâm vào tính chính danh biểu tượng có tính cá nhân. Các cuộc mít tinh quy mô lớn, các thông điệp mang tính thần thánh hóa sứ mệnh của tổng thống, việc sử dụng truyền thông xã hội như công cụ kiểm soát trực tiếp dư luận – tất cả tạo nên một kiểu chính trị dựa trên lòng trung thành hơn là lý lẽ. Không phải ngẫu nhiên khi những người phản đối Trump bị gán cho các nhãn như “kẻ thù quốc gia”, “phản bội”, “tay sai của toàn cầu hóa” hay “Cộng hòa trên danh nghĩa”. Trong logic Trumpism 2.0, sự khác biệt quan điểm không còn là một phần của dân chủ, mà là biểu hiện của sự đối kháng cần bị trấn áp từ trong trứng nước.
Điểm đặc biệt của nhiệm kỳ hai là sự chuyển đổi từ phong trào “phản thể chế” sang “tái cấu trúc thể chế”. Thay vì phá vỡ hay đối đầu với các định chế dân chủ, Trumpism tìm cách kiểm soát, định hình lại và sử dụng chúng như công cụ để duy trì quyền lực. Một ví dụ điển hình là việc trao quyền cho các tiểu bang Cộng hòa siết chặt quy định bầu cử, tái phân chia khu vực bầu cử (gerrymandering), và cài cắm các vị trí trọng yếu trong bộ máy kiểm phiếu các bang. Tất cả được thực hiện nhân danh “bảo vệ tính toàn vẹn của bầu cử”, nhưng thực chất nhằm định hình tương lai chính trị dài hạn có lợi cho phe Trumpist.
Tuy nhiên, Trumpism 2.0 không đơn thuần là một phiên bản mạnh tay hơn của nhiệm kỳ đầu. Nó cũng thể hiện sự tiến hóa về mặt chiến lược. Nhận thức được rằng không thể mãi dựa vào hình ảnh cá nhân của Trump, phong trào này bắt đầu tạo ra một hệ sinh thái chính trị riêng: các viện nghiên cứu, mạng lưới truyền thông, nền tảng công nghệ thay thế…Ví dụ: America First Policy Institute (AFPI) được thành lập sau khi Trump thất cử đóng vai trò như một “Heritage Foundation phiên bản Trump” hay Project 2025 không chỉ chuẩn bị chính sách mà cả nhân sự cho chính quyền Trump 2.0. Đây là bước đi nhằm đảm bảo tính bền vững, chuẩn bị cho một tương lai hậu-Trump, trong đó Trumpism có thể tiếp tục tồn tại như một hệ hình cầm quyền độc lập với cá nhân người sáng lập.
Dưới góc nhìn lý thuyết chính trị, Trumpism nhiệm kỳ hai mang nhiều dấu hiệu của một mô hình lai tạp: không hoàn toàn độc tài nhưng cũng không còn tuân thủ nguyên tắc dân chủ tự do cổ điển. Ở đây, các cuộc bầu cử vẫn diễn ra nhưng với luật chơi bị bóp méo; nơi truyền thông vẫn tồn tại nhưng bị thao túng thông qua mạng lưới ảnh hưởng; nơi pháp quyền vẫn được nhắc đến nhưng chỉ phục vụ mục tiêu củng cố quyền lực. Và những ai chống lại Trumpism, từ chính trị gia, thẩm phán, luật sư, nhà báo cho tới các trường đại học, đều sẽ bị truy bức theo nhiều cách thức khác nhau.
Trumpism 2.0, như vậy, không chỉ là một hiện tượng chính trị ngắn hạn, mà là nỗ lực định hình lại nước Mỹ theo hướng chủ nghĩa bản sắc, quyền lực tập trung và cảm xúc chính trị. Sự trỗi dậy lần thứ hai của Trump cho thấy phong trào này không chỉ sống nhờ vào sự chia rẽ, mà còn biết cách tái cấu trúc sự chia rẽ ấy thành công cụ cầm quyền hiệu quả. Điều đó đặt ra những câu hỏi căn bản về khả năng thích nghi của nền dân chủ Mỹ – không chỉ trong việc chống lại các mối đe dọa từ bên ngoài, mà còn từ những biến đổi bên trong chính cấu trúc của nó.
7. Tương lai của nền dân chủ Mỹ
Như vậy, tới thời điểm này, Trumpism không còn là một hiện tượng nhất thời hay sự kiện ngoại lệ. Nó đã và đang trở thành một cấu trúc quyền lực có tính bền vững, với hệ tư tưởng, hệ thống tổ chức, và hệ sinh thái truyền thông riêng biệt. Câu hỏi ở đây không phải là nó sẽ biến mất như thế nào mà là nó sẽ định hình nền dân chủ Mỹ như thế nào trong những thập niên tới, và liệu các nền dân chủ khác có phải đối mặt với những biến thể tương tự không?
Một trong những khả năng là Trumpism sẽ tiếp tục “chính đảng hóa” – tức được thể chế hóa sâu sắc hơn trong nội bộ đảng Cộng hòa. Khi đó, phong trào này sẽ không còn phụ thuộc vào cá nhân Trump, mà trở thành khuôn mẫu định hình cho các thế hệ chính khách mới: mang lập trường bản sắc cứng rắn, chống thể chế liên bang, chống toàn cầu hóa, và nhấn mạnh vào sự ưu việt của “nước Mỹ trên hết”. Việc này sẽ khiến Trumpism tiếp tục tồn tại ngay cả khi ông Trump không còn nắm quyền, hoặc thậm chí qua đời – tương tự như cách Peronism vẫn sống trong chính trị Argentina hàng thập kỷ sau cái chết của Juan Perón hay Gaullism vẫn còn ảnh hưởng ở Pháp cho tới tận đầu thế kỷ 21.
Một khả năng khác là sự phân mảnh và cực đoan hóa của Trumpism. Như nhiều phong trào dân túy khác, khi đạt được quyền lực, những mâu thuẫn nội tại giữa các nhóm lợi ích và ý thức hệ trong cùng một liên minh có thể bộc lộ. Sự căng thẳng giữa phe Evangelical, phe dân túy kinh tế, và phe dân túy văn hóa có thể dẫn đến các nhánh Trumpism đối kháng lẫn nhau – mỗi nhóm cố gắng chứng minh mình là “người thừa kế chính thống” của tinh thần Trump. Những xung đột gần đây trong nhóm cố vấn thân cận Trump là một ví dụ. Trong bối cảnh đó, nước Mỹ có thể phải đối mặt với không chỉ một Trumpism, mà nhiều Trumpism cạnh tranh nhau về mức độ cực đoan và tính chính danh.
Tuy nhiên, nguy cơ lớn nhất nằm ở sự bình thường hóa của Trumpism. Khi những hành vi và ngôn ngữ từng bị coi là không thể chấp nhận – xúc phạm báo chí, đe dọa thẩm phán, nghi ngờ kết quả bầu cử – trở thành chuyện thường ngày, thì nền dân chủ đã mất đi lớp da đạo đức mỏng manh vốn bảo vệ nó khỏi sa vào vũng lầy của chủ nghĩa chuyên chế. Trong một xã hội ngày càng phân cực, nơi sự thật bị thay thế bằng “sự thật theo tôi”, và lý trí nhường chỗ cho cảm xúc chính trị thuần túy, thì việc khôi phục lại các chuẩn mực dân chủ truyền thống sẽ trở nên khó khăn hơn bao giờ hết.
Trumpism cũng đặt ra câu hỏi sâu xa hơn về tương lai của mô hình dân chủ tự do trong thế kỷ 21. Phải chăng chúng ta đang chứng kiến sự thoái trào của một mô hình chính trị đã từng đem lại ổn định và thịnh vượng cho phương Tây trong hơn bảy thập kỷ? Và nếu đúng như vậy, mô hình nào sẽ thay thế: một nền dân chủ minh bạch hơn và có tính bao trùm hơn như Acemoglu và Robinson hằng cổ súy, hay một mô hình “hậu dân chủ” – nơi hình thức dân chủ vẫn được duy trì, nhưng nội dung đã bị xói mòn, bị thay thế bằng sự cai trị của những nhà lãnh đạo chuyên chế và dân túy.
Câu trả lời không thể đơn giản hóa. Một mặt, Trumpism là triệu chứng của các vết nứt sâu trong xã hội Mỹ: tình trạng bất bình đẳng gia tăng, bản sắc bị đánh mất, khủng hoảng niềm tin vào các thiết chế điều hành xã hội. Mặt khác, chính sự trỗi dậy của phong trào này cho thấy hệ thống dân chủ vẫn còn không gian cho sự phản kháng và tái định hình thể chế. Điều quan trọng là làm thế nào để cải tổ nền dân chủ theo hướng bao trùm và bền vững hơn, biết lắng nghe hơn thay vì để nó bị dẫn dắt bởi những trận cuồng phong từ phía này hay phía khác.
Cuối cùng, Trumpism buộc chúng ta phải tái suy nghĩ về mối quan hệ giữa người dân và nhà nước trong thời đại kỹ thuật số. Khi mạng xã hội trở thành đấu trường chính trị chính yếu, khi thông tin có thể bị thao túng trong khoảnh khắc, khi công nghệ (và những ai đằng sau đó) đang ngày càng kiểm soát và định hướng cho suy nghĩ và cảm xúc của cá nhân, và khi một vài cá nhân nào đấy có thể trở thành trung tâm của một phong trào chính trị ở tầm quốc gia mà không cần có đảng phái hậu thuẫn, thì những khái niệm truyền thống như “tính đại diện”, “cơ chế kiểm soát quyền lực” hay “sự công bằng chính trị” cũng cần được định nghĩa lại. Và các thể chế mới giúp kiểm soát và cân bằng trong chính trị một cách hiệu quả và thực chất hơn cần được tạo ra. Nếu không, nền dân chủ sẽ bị sớm bị bỏ lại phía sau trong một thế giới đã bước sang kỷ nguyên của chính trị bản sắc, nơi cảm xúc đám đông và quyền uy độc đoán của các “lãnh tụ” không còn là những ngoại lệ, mà trở thành các quy tắc.
Tham dự lễ khởi công dự án sân golf của Trump tại Việt Nam có Thủ tướng Phạm Minh Chính (thứ hai từ trái sang), doanh nhân Đặng Thành Tâm (thứ ba từ trái sang), cùng con cái của Donald Trump là Eric Trump và Lara Trump (ở giữa). Nguồn: Linh Phạm/ NYT
Tóm tắt: Khi Tổng thống Trump làm mờ đi ranh giới giữa chính trị và kinh doanh — và đe dọa áp thuế quan cao đối với các đối tác thương mại — chính phủ các nước cảm thấy buộc phải ủng hộ các dự án liên quan đến Trump.
***
Khi các quan chức tại quê nhà của nhà lãnh đạo cấp cao nhất Việt Nam đi đến từng nhà dân để gây sức ép buộc người dân ký các lá đơn đồng ý với kế hoạch của Trump Organization về một cộng đồng chơi golf mới, ông Lê Văn Trường đã muốn từ chối.
Các tài liệu quy hoạch đã hứa hẹn một “chuẩn mực mới về sự sang trọng, giải trí và kinh doanh”. Ông Trường, 54 tuổi, đã hình dung ra một điều khác: Một nghĩa trang có mồ mả của năm thế hệ tổ tiên của ông sẽ phải bị đập bỏ và dự án sẽ lấy đi vùng đất nông nghiệp màu mỡ đã nuôi sống các gia đình tại địa phương này trong nhiều thế kỷ.
Tuy nhiên, ông vẫn ký vì, như ông nói, “tôi không thể làm gì được”.
Ông Lê Văn Trường đứng cạnh những ngôi mộ sẽ bị dời đi để nhường chỗ cho dự án Trump. Ảnh: NYT
Ông Trường nói: “Trump nói rằng đó là chuyện riêng tư — chức Tổng thống và công việc kinh doanh của ông ấy là không liên quan. Nhưng ông ấy có quyền làm bất cứ điều gì ông ấy muốn”.
Khu phức hợp sân golf trị giá 1,5 tỷ đô la này nằm ngoài thủ đô Hà Nội, cũng như các kế hoạch xây dựng tòa nhà chọc trời của Trump tại Thành phố Hồ Chí Minh, là những dự án đầu tiên của gia đình Trump ở Việt Nam — một phần của doanh nghiệp kiếm tiền toàn cầu mà không gia đình nào của một Tổng thống Mỹ đương nhiệm từng thực hiện ở quy mô tầm cỡ này. Và khi chiến dịch chớp nhoáng đó khiến gia đình Trump giàu hơn, nó cũng làm méo mó cách các quốc gia tương tác với nước Mỹ.
Để đẩy nhanh quá trình phát triển của Trump, các chuyên gia pháp lý cho biết, Việt Nam đã phớt lờ luật pháp của nước này, với việc nhượng bộ một cách hào phóng hơn cả những gì mà ngay cả những người dân địa phương có mối quan hệ nhất đã từng nhận được. Trong một bức thư mà báo New York Times có được, các quan chức Việt Nam tuyên bố rõ ràng rằng, dự án này cần sự hỗ trợ đặc biệt từ các cấp cao nhất của chính phủ Việt Nam vì nó “đang nhận được sự quan tâm đặc biệt từ chính quyền Trump và cá nhân Tổng thống Donald Trump”.
Và các quan chức Việt Nam đã hào hứng đón chào dự án này trong một khoảnh khắc ngoại giao có rủi ro cao. Họ phải đối mặt với áp lực lớn để đạt được một thỏa thuận thương mại có thể ngăn chặn mối đe dọa của Tổng thống Trump về mức thuế quan cao, mà sẽ ảnh hưởng đến khoảng 30% hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Eric Trump, con trai thứ hai của Tổng thống Trump, là trung tâm của sự việc. Ông đã đến Việt Nam để khởi công dự án sân golf hôm thứ Tư, chưa đầy một năm sau khi gặp ông Đặng Thành Tâm, đối tác xây dựng địa phương. Bên trong một căn lều bạt tiếp tân màu vàng, ông Eric Trump nói với quan khách, bao gồm cả thủ tướng Việt Nam, rằng “gia đình Trump sẽ khiến các bạn rất, rất tự hào”.
Trong một tuyên bố qua email, Nhà Trắng cho biết: “Tất cả các cuộc thảo luận thương mại của Tổng thống Mỹ đều hoàn toàn không liên quan đến Trump Organization“. Họ lập luận rằng, không có vấn đề đạo đức nào vì gia đình Tổng thống đã phát triển khoảng 20 bất động sản mang thương hiệu Trump trên toàn thế giới, và vì các con trai của Tổng thống đang điều hành các doanh nghiệp. Tuy nhiên, báo cáo công khai tài chính của Tổng thống Trump cho thấy rằng ông vẫn hưởng lợi về mặt tài chính từ hầu hết các dự án này.
Eric Trump, người không trả lời yêu cầu phỏng vấn, đã khẳng định rằng ông chỉ đang làm công việc của mình, đó là phát triển bất động sản. Các quan chức Việt Nam cho biết, việc ưu tiên các dự án của Trump sẽ hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế của nước này.
Nhưng khi việc ký kết thỏa thuận diễn ra nhanh hơn và xung đột với các mối đe dọa của nước Mỹ đối với thương mại tự do, ranh giới giữa Trump với tư cách là Tổng thống và Trump với tư cách là ông trùm bất động sản hiện được các nhà ngoại giao, quan chức thương mại và các tập đoàn trên toàn thế giới coi là quá mờ nhạt, đến mức các chính phủ cảm thấy buộc phải ủng hộ bất cứ thứ gì liên quan đến Trump hơn bao giờ hết.
Trong khi các thỏa thuận khác của Trump đang diễn ra ở Serbia, Indonesia và Trung Đông, Việt Nam đã trở thành một trường hợp nghiên cứu về cách thương hiệu Trump gây ảnh hưởng và giành lợi thế, cách nó thách thức các chuẩn mực địa phương và khuyến khích các nhà lãnh đạo vội vàng phê duyệt các dự án để làm hài lòng gia đình Trump.
Trong bối cảnh các cuộc đàm phán thương mại ngày càng căng thẳng, các quan chức Việt Nam đã cho phép dự án của Trump khởi công mà không hoàn thành ít nhất nửa tá các bước theo yêu cầu của pháp luật, từ việc bảo đảm toàn bộ đất đai và tài chính, cho đến tiến hành đánh giá tác động môi trường.
Quá trình này thường mất từ hai đến bốn năm. Nhưng hồ sơ cho thấy, các tài liệu lập kế hoạch ban đầu chỉ được nộp ba tháng trước sự kiện được tổ chức ngày 21/5, trên khu đất mới san phẳng dưới một cổng vòm thông báo “LỄ ĐỘNG THỔ CỦA TRUMP INTERNATIONAL, HƯNG YÊN”.
Bộ Ngoại giao Việt Nam đã không trả lời câu hỏi về tính hợp pháp của dự án này.
Người dân tụ tập bên ngoài khu vực phát triển để xem lễ động thổ và đã bị cảnh sát giữ lại ở khoảng cách xa. Nhiều người lo lắng rằng, sinh kế và đất đai của họ sẽ sớm bị tước đoạt. Năm mươi năm sau khi kết thúc cuộc chiến tàn khốc với Mỹ, họ cho biết, họ sợ trở thành người phải chịu thiệt thòi ngoài dự kiến, khi cách tiếp cận mới của chủ nghĩa Trump, “hành động nhanh chóng và bất chấp các quy tắc”, tiếp tục tiến triển.
Lấy đất để xây biệt thự
Trong chế độ cộng sản Việt Nam, tất cả đất đai đều là sở hữu toàn dân và do nhà nước quản lý hoặc cho thuê. Hầu hết đất đai cho dự án sân golf trên vẫn do các gia đình có quyền sử dụng lâu dài kiểm soát. Tại huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên — nơi dự án Trump sẽ chiếm gần bốn dặm vuông dọc theo sông Hồng — một cảm giác bị phản bội đang âm ỉ cháy.
Tại các cuộc họp thị trấn hồi đầu tháng 4, các quan chức nói với hàng trăm cư dân rằng, mức giá tốt nhất mà họ có thể được đền bù chỉ bằng một nửa giá bán đất của họ ngay cả trước khi dự án sân golf được công bố hồi tháng 10.
Giữa tiếng la ó phẫn nộ tại một cuộc họp như vậy, gần như tất cả mọi người đều bỏ ra về. Tin tức về mức giá đền bù đã lan truyền khắp các đường phố và các cánh đồng. Sự phản đối càng trở nên gay gắt khi nông dân lo sợ mất khoản đầu tư vào lứa cây non, vốn mất nhiều năm để trưởng thành, và sự an toàn mà đất đai đã mang lại cho nhiều thế hệ.
“Họ không lắng nghe chúng tôi. Họ chỉ đến đây và áp đặt ý muốn của họ”, bà Lê Thị Thanh, 57 tuổi, nói vào một buổi chiều nóng nực gần đây, khi bà đang ngồi xổm ghép những cây mãng cầu xiêm non.
Quy trình phê duyệt xây dựng của Việt Nam được cho là bắt đầu bằng việc giám sát độc lập vì lợi ích công cộng ở cấp huyện và cấp tỉnh. Trên thực tế, như các cuộc phỏng vấn và tài liệu của chính phủ cho thấy, hầu như việc giám sát này không tồn tại, và luật quy hoạch đã bị gạt sang một bên.
Sau bức thư ngày 20 tháng 3 từ các viên chức cấp tỉnh cho biết, dự án cần được đối xử đặc biệt, chính quyền đã hạn chế bình luận của công chúng và không tuân thủ các quy tắc thông thường về việc sử dụng tiền của nhà nước cho việc nghiên cứu sơ bộ, theo các tài liệu cho thấy. Các chuyên gia pháp lý cho biết dự án này đã xung đột với quy hoạch tổng thể nhà ở cấp tỉnh. Toàn bộ khu phức hợp trên, với các biệt thự do Trump Organization thiết kế và 36 lỗ golf tại một trong bốn khu phát triển, sẽ làm tăng thêm 35.000 cư dân, các công viên giải trí và một khu thương mại đô thị tại đó.
Ngoài ra, dự án này được lên kế hoạch tại một khu vực ven sông đã bị ngập lụt trong cơn bão năm ngoái, và tỉnh này còn rải rác các loại bom mìn chưa nổ từ chiến tranh Việt Nam. Một quả bom nặng 100kg đã được phát hiện tại khu vực này cách đây sáu tháng.
Tuy nhiên, vào ngày 15 tháng 5, chỉ hơn ba tháng sau khi nộp hồ sơ chính thức đầu tiên, chính quyền trung ương Việt Nam đã kết thúc sớm quá trình lập kế hoạch để dành thời gian cho đầu tư và tổ chức một sự kiện mang tính đột phá – như yêu cầu trong bức thư hồi tháng 3 – phù hợp với thời gian rảnh rỗi của Eric Trump và tránh “bỏ lỡ cơ hội tận dụng sự ủng hộ của chính quyền Donald Trump”.
Cùng ngày hôm đó, người dân đã đổ xô đến địa điểm động thổ, chỉ để thấy rằng một số công trình bắt đầu được thực hiện. Một chiếc Rolls-Royce Phantom màu đen (trị giá khoảng 500.000 đô la, thuộc sở hữu của ông Tâm – đối tác của Trump) đậu gần máy xúc, cách nghĩa trang gia đình ông Trường và đất của các gia đình khác chỉ khoảng vài chục mét.
Tại lễ động thổ, Thủ tướng Phạm Minh Chính tỏ ra nhạy cảm trước khả năng phản ứng dữ dội của công chúng ở một đất nước mà bất chấp quyền lực của nhà nước độc đảng, người dân vẫn không ngại phản đối khi bị buộc phải rời bỏ nơi họ sống và làm việc.
Lên tiếng trước đám đông gồm các chủ ngân hàng, tướng lĩnh và những người được Trump mời đến, với những người đàn ông mặc đồ vest sang trọng, đàn bà đi giày cao gót bóng loáng, ông Phạm Minh Chính đã chỉ thị cho chính quyền tỉnh phải bảo đảm rằng, những người đã phải hy sinh tài sản sẽ “có cuộc sống mới và ngôi nhà mới tốt hơn ngôi nhà cũ của họ”.
Ông cũng cho biết dự án sẽ “nhận được sự hỗ trợ tối đa” để “tăng cường hơn nữa mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ”. Ông hứa rằng dự án sẽ hoàn thành vào năm 2027.
Một số luật sư và giám đốc các công ty bất động sản cho biết trong khi thủ tục hành chính của Việt Nam có thể chậm trễ, thì tốc độ của dự án Trump lại nhanh chưa từng có. Việc này là bất hợp pháp và không công bằng với các nhà đầu tư khác.
Người dân cho biết nhu cầu của họ đang bị bỏ qua để làm hài lòng những người vốn đã giàu có.
Ông Trường nói: “Họ sẽ có khách sạn, sân golf và hồ bơi. Chúng tôi sẽ không có gì cả”.
Những người Mỹ đóng vai trò kết nối
Dự án đầu tiên của Trump ở Việt Nam bắt đầu bằng những nỗ lực chưa từng được tiết lộ của hai cựu chỉ huy trung đội Thủy quân Lục chiến với chủ nghĩa lý tưởng sau chiến đấu.
Billy Birdzell, 45 tuổi, lớn lên ở Larchmont, New York. David Lewis, 47 tuổi, xuất thân từ một gia đình dầu khí ở Texas. Cuộc chiến tranh Iraq đã gắn kết họ mãi mãi sau ngày 5 tháng 8 năm 2004, khi một quả tên lửa trượt khỏi mũ bảo hiểm của ông Lewis và sau đó phát nổ trong một trận chiến tàn khốc ở Najaf.
Ông Birdzell nói: “Anh ấy bị thương rất nặng. Các anh của tôi, chúng tôi đã giúp sơ tán anh ấy”.
Họ vẫn giữ liên lạc, như những cựu chiến binh vẫn làm, và mỗi người đều phát triển mối liên hệ riêng với Việt Nam.
Ông Birdzell đã đến thăm Việt Nam vào năm 2007, đi bộ đến Khe Sanh và các địa danh khác của Thủy quân Lục chiến Mỹ trước khi thành lập một công ty ngân hàng đầu tư, Horatius Group, và chuyển đến California. Năm 2015, Lewis thành lập Energy Capital Vietnam, công ty phát triển các dự án điện khí đốt tự nhiên.
Vào tháng 1 năm 2024, họ đang ở khách sạn Melia tại Hà Nội trong chuyến công tác chung thì Birdzell xuống ăn sáng và giải thích rằng, ông đã nhắn tin cho “một người bạn” đang quan tâm đến bất động sản ở Việt Nam.
“Đó là Eric”, ông Birdzell nói.
Trong một cuộc phỏng vấn, ông không nói họ đã gặp nhau như thế nào. Họ chia sẻ niềm đam mê với súng và săn bắn. Ông Birdzell cũng đã kết hôn với một cháu gái của Robert F. Kennedy Jr., Bộ trưởng Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Mỹ.
Ông Lewis, với một thập kỷ làm việc và kết nối tại Việt Nam, cho biết, ông thấy ở Eric Trump một cơ hội để đưa Mỹ và Việt Nam lại gần nhau hơn. Vì vậy, ngay sau khi nghe về sự quan tâm của Eric, ông đã liên hệ với ông Đặng Thành Tâm, người sáng lập công ty xây dựng công nghiệp Kinh Bắc City, và ông Tâm đã nắm bắt ý tưởng này ngay lập tức.
Birdzell và Lewis cho biết, nếu dự án phát triển mới này thành công, nó có thể trở thành chất xúc tác thúc đẩy các thỏa thuận và cập nhật nhận thức của người Mỹ về Việt Nam sau chiến tranh.
“Mục đích là để nâng cao vị thế của người dân Việt Nam và nâng cao vị thế của Việt Nam”, Birdzell nói.
Birdzell nói thêm rằng, ông chủ yếu là người làm trung gian, mặc dù ông hy vọng có vai trò trong việc huy động vốn. Lewis cho biết, ông đã rút lui và không có cổ phần tài chính nào trong dự án.
Nhưng họ đều theo dõi sự tiến triển của dự án này. Họ đã tham dự cuộc họp đầu tiên tại Trump Tower giữa ông Tâm và Eric Trump hồi tháng 7 [2024]. Họ đã có mặt ở đó một lần nữa vào ngày 24 tháng 9 để chứng kiến lễ ký kết các tài liệu ban đầu của thỏa thuận.
Ngày hôm đó, sự pha trộn giữa cá nhân và chính trị của gia đình Trump đã được thể hiện rõ nét. Được các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và các quan chức Việt Nam vây quanh, Donald J. Trump đã tạm dừng chiến dịch tranh cử của mình — chỉ vài tuần trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ — để đóng vai trò chủ đạo [của thỏa thuận].
Trong một bức ảnh quảng cáo ngày hôm đó, Eric Trump ngồi một bên, ông Đặng Thành Tâm ngồi bên kia. Vị Tổng thống của quá khứ và tương lai chiếm vị trí trung tâm, mỉm cười trước hai lá cờ Mỹ.
Rủi ro đối với quan hệ Mỹ – Việt
Giống như hai cựu lính Thủy quân Lục chiến nói trên, những người coi sân golf Trump là sự mở rộng tiềm năng của nước Mỹ và Nhà Trắng, chính phủ Việt Nam coi chính quyền của ông Trump và Trump Organization là một.
“Khi ông ấy muốn xây dựng một dự án ở Việt Nam, dự án đó sẽ được thực hiện dưới thương hiệu cá nhân của ông ấy, và Việt Nam muốn thể hiện mối quan hệ đó”, ông Đặng Hùng Võ, cựu Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam, người đã giúp soạn thảo một số luật đất đai của nước này, nói.
Một phần của sự thu hút này là lòng tự hào dân tộc: Chỉ một số quốc gia được Trump Organization đầu tư phát triển bất động sản, và Việt Nam muốn gia nhập câu lạc bộ đó. Nhiều người Việt Nam cũng ngưỡng mộ ông Trump vì sự giàu có và khả năng đối kháng của ông đối với Trung Quốc.
Trung Quốc đóng vai trò trung tâm trong mối quan hệ Mỹ – Việt và những căng thẳng hiện tại.
Theo các quan chức Mỹ, hồi cuối tháng 4 và đầu tháng 5, Washington đã cảnh báo Việt Nam rằng, hy vọng về mức thuế thấp hơn của họ đang gặp rủi ro vì Mỹ cho rằng có quá nhiều công ty Trung Quốc đang thành lập ở Việt Nam và lợi dụng quốc gia này để tránh thuế đối với Trung Quốc.
Các quan chức Việt Nam phát biểu, cả công khai và riêng tư, rằng họ hy vọng dự án sân golf này của Trump sẽ là biểu tượng của sự thiện chí và giúp gắn kết chặt chẽ hơn nữa mối quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam.
Lễ động thổ diễn ra chỉ vài ngày sau khi nhà đàm phán thương mại của chính quyền Trump, Jamieson Greer, gặp ông Nguyễn Hồng Diên, Bộ trưởng Thương mại Việt Nam, ở Hàn Quốc. Đây là cuộc họp trực tiếp đầu tiên của họ kể từ khi ông Trump áp đặt (sau đó tạm dừng) mức thuế 46% đối với Việt Nam, quốc gia xuất khẩu nhiều hàng hóa sang Mỹ hơn bất kỳ nơi nào khác.
Nhưng như các nhà kinh tế học lưu ý, các dự án phát triển lớn được thúc đẩy bởi sự ưu ái hoặc hình ảnh chính trị, thay vì tính toán đầu tư truyền thống, thường không được quan tâm đủ lâu. Bằng cách nâng cao sự bảo trợ hơn là tính khả thi, chúng có thể làm xói mòn lòng tin của công chúng.
Dự án Trump, ban đầu được công bố là một cộng đồng chơi golf, hiện bao gồm nhiều hơn thế nữa, và những cư dân tụ tập gần nơi động thổ đã yêu cầu cần minh bạch hơn về những gì dự án đòi hỏi và tác động của dự án đến họ.
Nhiều nhà phân tích cho rằng, việc dành sự đối xử đặc biệt cho doanh nghiệp gia đình Trump sẽ làm suy yếu nỗ lực của ông Tô Lâm, nhà lãnh đạo cấp cao của Việt Nam, nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh hiện đại, công bằng và ít tham nhũng hơn.
Ja-Ian Chong, giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Quốc gia Singapore, là người nghiên cứu về Đông Nam Á, cho biết: “Điều này thúc đẩy Việt Nam theo hướng giao dịch kinh doanh mang tính cá nhân hơn, thay vì đầu tư nhiều hơn vào thị trường, tính minh bạch và tính đồng nhất”.
Ông nói thêm rằng, mọi thứ diễn ra càng nhanh thì nguy cơ xảy ra các vấn đề lớn càng lớn. Ở Indonesia, chính quyền đã dừng xây dựng một dự án sân golf khác của Trump trong năm nay vì quản lý nước kém. Ông Đỗ Thành Tâm, đối tác xây dựng địa phương của Trump ở Việt Nam, đã hứa tại lễ động thổ, sẽ tiếp tục làm việc nhanh chóng trước khi bàn giao dự án sân golf tư nhân cho Trump Organization để vận hành.
Đối với những người thắc mắc về đất đai của gia đình họ, tốc độ thay đổi khiến rắc rối có vẻ như không thể tránh khỏi và đang rất cận kề.
Bà Đỗ Thị Suất, 63 tuổi, vừa xem lễ động thổ bên một hàng cây bà mới trồng cạnh nhà, vừa nói: “Chỉ trong năm ngày, họ đã lấp đầy toàn bộ đất đai ở nông trại đó và dựng lều để làm lễ động thổ. Sao họ lại hành động nhanh thế nhỉ?”.
“Họ sẽ lấy đi đất đai của chúng tôi. Chúng tôi sẽ sống sao đây?” bà nói thêm.
__________________
The Following User Says Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.