Cha tôi, một người nghèo khổ vùng ngoại ô Queens, New York, ông phải làm cu li, chở rau quả, thợ mộc, trông coi ngựa. Ông không được đi học cao nhưng ngược lại ông rất chăm chỉ và có ý chí phấn đấu. Do ông nội tôi di cư từ Thụy Điển sang Mỹ, mắc bệnh nghiện rượu nặng, bị xơ gan và mất khi cha tôi mới có 11 tuổi. Bà nội tôi, Elizabeth, đi làm thợ may để nuôi ba đứa con nhỏ. Cha tôi vì thế trở thành người chủ gia đình, làm bất kể việc gì để kiếm tiền, từ đánh giày tới khuân gỗ ở công trường xây dựng. Sau nhiều năm dành dụm, ông đã nhảy vào kinh doanh nhà giá rẻ cho thuê. Sau khi học xong, tôi trở về làm việc với ba tôi. Tôi khám phá ra lĩnh vực hoạt động ba tôi có phần không hợp với sở thích của tôi cho lắm. Tôi nhớ có lần đi với những người chuyên thu tiền thuê nhà. Để làm công việc này phải có một thân hình lực lưỡng, vì khi gặp phải những người không muốn trả tiền thuê nhà thì sự vạm vỡ của cơ bắp có ý nghĩa quan trọng hơn cách ăn nói nhiều.
Một trong những bí quyết tôi học được là đừng bao giờ đứng trước cửa nhà gõ cửa. Nên đứng tránh sang một bên. Một người thu tiền giải thích với tôi. Nếu anh đứng tránh sang một bên thì chỉ có bàn tay anh là có thể bị nguy hiểm. Tôi vẫn chưa hiểu được ý của người đó muốn nói gì. Trong công việc này ông ta nói, nếu gõ nhầm cửa không đúng lúc, anh có thể bị bắn. Tôi mới tốt nghiệp nên thật sự rất bất ngờ và khó chịu, ví dụ có những người thuê nhà thường ném rác qua cửa sổ vì nó dễ dàng hơn là đưa vào lò đốt rác.
Mẹ tôi, gốc Scotland, ngồi xem lễ đăng quang của hoàng hậu Elizabeth suốt cả ngày, không đi đâu cả. Bà như mê hoặc bởi sự phô bày và nghi thức long trọng. Tôi có nhớ lúc đó cha tôi đi tới đi lui một cách suốt ruột. Ông nói:" Lạy chúa, Mary, đủ rồi tắt nó đi. Tất cả họ là những kẻ lừa dối". Mẹ tôi không buồn ngước đầu lên. Về điểm này, cả hai hoàn toàn trái ngược nhau. Mẹ tôi thích sự lộng lẫy, hoành tráng. Trong khi đó cha tôi, một người có óc xét đoán và thực tế, chỉ chú trọng đến năng lực và hiệu quả.
Tôi còn nhớ sau này khi đến thăm tôi, mặt tiền của tòa tháp do tôi xây toàn làm bằng kính loại đắt nhất màu trà phản quang. Cha tôi ngắn nhìn hồi lâu rồi nói với tôi:"Sao con không bỏ loại kính đắt tiền này? Dùng nó cho bốn năm tầng thôi, phần còn lại dùng gạch thường được rồi. Không ai ngó lên cao để xem đâu". Đó là kiểu xưa rồi. Cha tôi đang cố tiết kiệm vài đồng giữa khu phố sang trọng và sầm uất này. Tôi cảm động và dĩ nhiên tôi hiểu ông xuất thân từ đâu, và đó chính là lý do tại sao tôi quyết định rời khỏi nơi đó.
Năm 1975, trong thời kỳ Sài Gòn thất thủ, nước Mỹ chìm vào trong khủng hoảng tinh thần. Tôi lái xe về nhà thì một bản tin tức từ radio trên xe cho tôi biết nhân viên khách sạn Las Vegas, bang Nevada, vừa mới quyết định đình công. Một trong những việc này là sự sụt giá thê thảm cổ phiếu của tập đoàn Hilton. Tập đoàn này có hai sòng bạc ở Las Vegas. Vào thời điểm đó tôi đã có chút kiến thức về kinh doanh khách sạn nhưng vẫn sững sờ trước sự kiện này. Làm sao một cổ phiếu của một tập đoàn làm chủ cả trăm khách sạn trên khắp thế giới lại có thể bị ảnh hưởng nặng nề bởi một cuộc đình công chỉ xảy ra với hai khách sạn sòng bài của họ? Khi trở về văn phòng, tôi đã tìm thấy câu trả lời sau khi nghiên cứu một vài tài liệu. Hilton làm chủ hơn 150 khách sạn trên thế giới, nhưng lợi nhuận từ hai khách sạn sòng bài của họ tại Las Vegas đã chiếm tổng 40% lợi nhuận của tập đoàn. Trong khi đó New York Hilton một trong những khách sạn lớn nhất và đắt nhất thế giới mang lại chưa đến 1% tổng lợi nhuận.
Vì vậy, tôi bắt tay vào xây dựng khách sạn sòng bạc trên phố đi bộ Boardwalk, Atlantic. Hilton cũng bắt đầu xây dựng khách sạn sòng bạc tại Atlantic, sau nhiều năm do dự, Hilton quyết định dốc toàn lực đầu tư cho cơ sở này. Tôi khó lòng ăn ngon ngủ yên trước sự xuất hiện của một đối thủ cạnh tranh mạnh như thế trong thành phố, nhất là tình hình khách sạn sòng bạc trên phố Boardwalk của tôi đang tiến triển rất tệ. Conrad Hilton thành lập công ty Hilton vào năm 1921, ông ty đã xây dựng thành một tập đoàn khách sạn lớn nhất thế giới. Con trai ông ta, Barron gia nhập công ty từ năm 1959. Và từ khi ông Conrad về hưu 1966, Barron trở thành tổng giám đốc điều hành CEO.
Barron làm gì cũng dở, từ khi vào công ty điều hành bộ phận thẻ tín dụng Carte Blanche tới năm 1966 phá sản và bán cho Citibank. Năm 1967, Barron bán bộ phận kinh doanh khách sạn quốc tế cho Trans World Airlines TWA để đổi lấy cổ phần với giá 90 USD. Giá dầu leo thang, cổ phiếu của TWA rớt mạnh quá nửa. Trong khi đó những khách sạn của Barron bán để mua cổ phiếu TWA lại ăn nên làm ra. Tuy vậy, Barron lại có một quyết định rất thành công khi xâm nhập kinh doanh sòng bạc khách sạn, chỉ hai chiếc sòng bạc khách sạn tại LasVegas đã cung cấp cho tập đoàn Hilton tới 40% lợi nhuận. Hilton có một khu đất rộng trên 32.000 m2 ở quận Marina từ lúc việc kinh doanh hợp pháp sòng bạc tại thành phố Atlantic vào năm 1976. Nhưng mãi đến năm 1984 họ mới quyết định xây một khách sạn sòng bài ở đó. Hilton quyết định xây một cơ sở vĩ đại với lối vào thật hoành tráng, trần nhà cao 10 mét và một bãi đậu xe có sức chứa 3000 chiếc. Trong báo cáo thường niên của mình, Hilton mô tả dự án này như là một kế hoạch lớn nhất trong lịch sử. Sòng bài rộng hơn 5500m2 với 615 phòng khách sạn ban đầu và mở rộng thêm 9.000m2 với 2.000 ngàn phòng khách sạn giai đoạn tiếp theo.
Mặc dù vậy Hilton lại mắc sai lầm lớn, một là đã quá tự mãn, Hilton chưa có giấy phép kinh doanh sòng bạc nhưng đã xây dựng cơ sở, đây là một việc rủi ro nếu như đơn bị bác. Sai lầm thứ hai của Hilton là họ đã không tham khảo kinh nghiệm của những người đi trước. Ví dụ như công ty Playboy bị bác đơn xin xây sòng bạc vì có liên hệ tới Sidney Korshak, một luật sư có liên hệ tới băng đảng tội phạm. Hilton đã thuê luật sư này với giá 50.000 USD/năm để dàn xếp những tranh chấp về lao động công ty. Chính vì thế Uỷ ban kiểm soát sòng bài đã bác đơn xin kinh doanh sòng bạc của Hilton. Ngay sau đó Hilton đã phải sa thải Korshak. Vài tuần sau đó Koshak đã gửi cho truyền thông những bức thư mà Barron gửi cho ông và những bí mật vùng tối của Hilton. Điều này đã làm uy tín của Hilton giảm xuống rõ rệt.
Hilton dự định mở cửa khách sạn trong vòng ba tháng tới. Họ đã mướn hơn 1.000 nhân viên và đang tuyển thêm 100 người mỗi ngày. Đến ngày khánh thành sẽ có 4.000 nhân viên ở đây. Không có doanh thu mà phải trả lương cho một đội ngũ như thế thì công ty lỡn cỡ nào, đó cũng là một thảm họa. Sòng bài Hilton gặp rắc rối khiến ban giám đốc Hilton muốn bán nó, nếu để lâu phải trả lương cho hàng ngàn nhân viên thì sẽ thiệt hại nặng. Lúc đó, Steve Wynn, chủ nhân sòng bạc Golden Nugget quyết định thực hiện một cuộc tấn công tổng lực vào Hilton nhằm chiếm quyền kiểm soát công ty. Có lẽ điều đó rất tốt cho tôi. Tôi ngờ rằng nếu đó không phải Wynn thì có lẽ Barron không chắc chắn muốn bán sòng bạc Hilton. Ngày 14 tháng 4 năm 1985, Wynn gửi thư cho Barron một lá thư đề nghị mua 27% cổ phần Hilton với giá 72 USD so với thị trường là 67 USD.
Động thái của Wynn đã giúp tôi. Bằng cách theo đuổi việc mua lại đa số cổ phần công ty Hilton, Wynn đã đặt Barron vào thế phòng thủ và giảm tập trung vào việc kháng nghị giấy phép kinh doanh sòng bài. Đồng thời, Wynn càng tấn công Barron thì tôi càng có khả năng trờ thành người ứng cứu cho Barron. Wynn lớn lên trong một cửa hiệu lotto của bố ông ta, một người có máu cờ bạc. Sau đó Wynn thâm nhập vào giới kinh doanh sòng bài Las Vegas, mua được ít cổ phần của khách sạn Golden Nugget, và thành công nắm quyền kiềm soát khách sạn này. Thế giới của Wynn là thế giới cờ bạc ở Las Vegas và Atlantic. Ông ta là người dẻo mồm dẻo miệng, móng tay trau chuốt cẩn thận và mặc toàn đồ đắt tiền. Vấn đề là Wynn quá cố để tỏ ra hoàn hảo khiến nhiều người không thích ông ta, và Barron là một trong số đó. Hai người có phong thái khác hẳn nhau, Barron xuất thân từ gia đình quý tộc giàu có và là người rất kín đáo.
Tôi tin Wynn nghĩ rằng ông ta sẽ dễ dàng mua được đủ số cổ phần để kiểm soát Hilton với giá đề nghị. Cái khách sạn sòng bài khổng lồ tại Atlantic là thứ Wynn thực sự muốn. Dưới áp lực từ mọi phía, Barron có thể thực hiện một công đôi chuyện, bán khách sạn và chấm dứt việc cố gắng chiếm quyền kiểm soát công ty của Wynn. Nhưng Wynn đã đánh giá thấp việc Barron ghét cay ghét đắng ông ta. Một ngày sau khi Wynn tuyên bố muốn mua đa số cổ phần của Hilton, Barron bắt đầu thương lượng với tôi một cách nghiêm túc. Thoạt tiên tôi đề nghị mua khách sạn sòng bài Hilton Atlantic với giá 250 triệu USD. Tôi biết Barron không đồng ý bán với giá đó vì ông ta một lần tiết lộ đã đổ vào 320 triệu USD. Nếu bán với giá thấp hơn, Barron phải báo cáo với cổ đông rằng mình đã thua lỗ dự án lớn nhất trong lịch sử Hilton là điều không thể chấp nhận được. Ngay sau khi tôi quyết định đưa ra mức giá 320 triệu USD, tôi đã gọi cho quỹ đầu tư Manufacturers Hanover, tôi muốn mượn quỹ này 320 triệu USD trong vòng 7 ngày. Tôi đã đích thân đứng ra đảm bảo khoản vay. Tôi đã tiến hành việc mua bán này mà chưa bước chân đến khách sạn sòng bài đó bao giờ. Tôi cảm thấy sự xuất hiện của mình giữa lúc Hilton đang gặp rối ren như thế thì không thích hợp cho lắm. Nếu tôi kể cho cha tôi nghe câu chuyện này, ông ắt hẳn cho tôi là bị điên. Tôi nhớ hồi còn bé, tôi thường tháp tùng cha tôi đi kiểm tra tòa nhà ở Brooklyn mà ông dự định mua. Giá của chúng chỉ khoảng 100 ngàn USD, nhưng chúng tôi kiểm tra mọi thứ rất chi li, từ máy lạnh, bồn rửa cho đến máy nước nóng và hành lang.
Không chỉ có cha tôi mà hầu như mọi người đều ngăn cản tôi thực hiện phi vụ này. Tôi chỉ cam kết miệng với quỹ đầu tư Manufacturers Hanover, và những điều kiện mà họ có thể đưa vào trong hợp đồng vẫn chưa rõ ràng, họ có thể suy nghĩ lại. Lúc đó, Barron ghét cay ghét đắng bang New Jersey, đặc biệt là thành phố Atlantic. Càng giũ bỏ sớm cơn ác mộng này, ông ta càng hạnh phúc. Ngày 18 tháng 4 năm 1985 luật sư hai bên tiến hành đàm phán, sau nhiều rắc rối, ngày 27 tháng 4 năm 1985, hợp đồng được ký kết, tôi đặt cọc 20 triệu USD, chúng tôi ấn định việc kết thúc hợp đồng trong vòng 60 ngày sau đó, tôi giữ lại 5 triệu USD cho đến khi khách sạn được chuyển giao một cách đầy đủ và trong tình trạng của một khách sạn hạng nhất.
Ngày mùng 1 tháng 5, tôi đến thăm khách sạn sòng bài lần đầu tiên, ngay khi bước chân vào, tôi đã cảm thấy mình đã có một quyết định đúng khi mua lại nó. Vẫn có nhiều việc phải hoàn tất nhưng nhìn chung tòa nhà thật là đẹp. Tôi bắt đầu hối thúc những người của mình làm việc cật lực để hoàn thành phần việc của chúng tôi, xin giấy phép kinh doanh, mướn thêm 1500 người và thu nhận số nhân viên mà Hilton tuyển dụng trước đó. Ngay trước khi sòng bài mở cửa, tôi đã bắt đầu thảo luận với nhiều ngân hàng đầu tư về việc phát hành trái phiếu để huy động vốn trả nợ cho quỹ Manufacturers Hanover. Bear Stearn đã đồng ý huy động 300 triệu USD, tương đương 95% tiền tôi cần. Bear Stearn đã hoàn tất mọi việc một cách tuyệt vời, trái phiếu của tôi được bán với giá cao.
Nhờ kết thúc thương vụ với Hilton vào ngày 15 tháng 6 năm 1985, chúng tôi đã có thể hoạt động ngay trong mùa hè. Ngày hôm sau, chúng tôi khai trương mà không gặp rắc rối gì cả. Mọi người kéo đến rất đông, vượt ngoài sự mong đợi của chúng tôi. Doanh thu của sòng bài ngày đầu tiên đã lên tới 728.000 USD. Hết năm 1985, chúng tôi kiếm được cả thảy 131 triệu USD, năm 1986 là 226 triệu USD, một kỷ lục cho một sòng bài khách sạn hoạt động trong năm đầu tiên. Tên tuổi tôi nổi như cồn, mọi người mệnh danh tôi là Vua Bài Atlantic.
Tác giả: Donald Trump
Tổng thống Liên Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ