Theo
The Atlantic, các công ty vận động hành lang đã ngụy trang mức ảnh hưởng của họ tốt đẹp đến mức ngay cả những người trong cuộc ở Washington D.C. cũng khó có thể nhận ra được.
Thế giới từ lâu đã biết đến mức ảnh hưởng của giới vận động hành lang ở Mỹ, tuy nhiên, chưa một ai nắm rõ tầm mức ảnh hưởng thực sự của họ cao đến mức nào. Và dù cho ông Trump từng nói sẽ xóa bỏ quyền lực của các
"thế lực ngầm này", nhưng bên là một trong những trở ngại lớn nhất đối với việc hiện thực hóa chương trình nghị sự của ông Trump, thì liệu rằng ông có thể làm được điều đó hay không?
Và thế giới của các thế lực này, các tổ chức vận động hành lang, chính là điều mà hai phóng viên Luke và Brody Mullins đã tiết lộ ra trong cuốn sách mới hấp dẫn của họ
"The Wolves of K Street: The Secret History of How Big Money Took Over Big Government" (tạm dịch:
"Những con sói phố K").
Ngành kỹ nghệ đặc thù
Vận động hành lang, cũng giống như Hollywood và Thung lũng Silicon, là một ngành kỹ nghệ đặc trưng của Hoa Kỳ. Ngành này đã bén rễ dọc theo con phố K Street, với những tòa nhà bằng kính và thép sáng bóng ở trung tâm Washington D.C .từ những năm 1970.
Cuốn sách này đã được ra mắt công chúng hồi tháng 5 năm nay. (Ảnh: Simon&Schuster).
Mặc dù khó có thể nắm bắt chính xác quy mô về sự tăng trưởng của nó, một nghiên cứu của Viện Stephen S. Fuller thuộc Đại học George Mason ở tiểu bang Virginia có nêu ra rằng, vào năm 2016,
"các nhóm vận động hành lang" đã cho tuyển dụng hơn 117,000 người làm việc tại vùng đô thị ở Washington D.C.
Về mặt lý thuyết, vận động hành lang là một hình thức để giải quyết khiếu nại được bảo vệ theo Hiến Pháp Hoa Kỳ. Các công ty kinh doanh có mọi quyền để tranh luận về mọi hoạt động của mình với các giới chức chính phủ khi họ đề ra các chủ trương, chính sách có ảnh hưởng ít nhiều đến ngành nghề của họ. Tuy nhiên, trên thực tế, vận động hành lang đã trở thành một
"thế lực ngầm" có nhiều phần tiêu cực trong nền kinh tế quốc gia, khi các tập đoàn của Mỹ sẳn sàng bỏ tiền ra chi tiêu nhiều hơn các nhóm cử tri khác, như giới công đoàn, nhóm người tiêu dùng và bảo vệ môi trường, cho các công ty vận động để họ định hình dư luận nhằm phục vụ cho mục đích kinh doanh riêng của mình.
Những người đi đầu của giới vận động hành lang từ thế kỷ 20 là Tommy "The Cork" Corcoran, một thành viên trong nhóm cố vấn của Tổng thống Franklin D. Roosevelt, và Clark Clifford, người điều hành các trò chơi poker của Tổng thống Harry Truman. Cả hai người đều bỏ việc làm trong chính phủ để ra cộng tác đắc lực cho những tập đoàn khổng lồ (ví dụ United Fruit Company và General Electric).
Che giấu bí mật là điều thiết yếu đối với họ. Corcoran không bao giờ để tên mình trong danh bạ điện thoại và ở ngoài cửa văn phòng. Nhưng nếu một công ty bị một viên chức khó chịu đến làm phiền, hoặc muốn được giúp đỡ lật đổ một chính phủ thù địch, thì cả hai nhân vật này là những người sẵn sàng nhấc điện thoại lên và cho thực hiện. Tuy nhiên, vào cuối những năm 1960, chỉ có khoảng 60 nhân vật vận động hành lang chính thức đăng ký làm việc tại Washington D.C.. Hầu hết các công ty, trong những thập kỷ thịnh vượng sau Thế chiến thứ 2, không thấy lý do gì để nhờ cậy đến giới vận động hành lang này.
Nhưng người tiêu dùng ngày càng có nhận thức cao hơn và các cơ quan quản trị cũng chặt chẽ hơn, như Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ được thành lập vào năm 1970, tiếp theo là Cơ quan Kiễm soát An toàn và Sức khỏe Nghề nghiệp vào năm 1971 và Ủy ban An toàn Sản phẩm Tiêu dùng vào năm 1972.
Khi lợi ích của các công ty kinh doanh bị đe doạ cũng là lúc mà Tommy Boggs thấy xuất hiện tại Washington D.C. này. Là con trai của Hale Boggs, một nghị sĩ Dân chủ đến từ Louisiana, Boggs thấy cá nhân mình có thể trở thành người kế nhiệm cho Corcoran và Clifford. Sau khi thất bại trong cuộc đua vào Quốc hội năm 1970, ông này đã nỗ lực hết mình để mở rộng công ty vận động hành lang có tên
Patton Boggs.
Tommy Boggs từng có sức ảnh hưởng lớn trong chính giới ở Mỹ. (Ảnh: The Washington Post).
Boggs đã huy động một liên minh các công ty lớn (bao gồm các mạng lưới truyền hình, các công ty quảng cáo và các tập đoàn thực phẩm) để đẩy lùi các chính sách chủ trương đổi mới của chính phủ liên bang.
M&M và
Milky Way (nơi mà Boggs hỗ trợ) nằm trong số những bên được hưởng lợi lớn.
Ủy ban Thương mại Liên bang (FTC) của Tổng thống Jimmy Carter lúc đó đã đe dọa sẽ kiễm soát việc quảng cáo kẹo và ngũ cốc chứa nhiều đường nhắm vào giới trẻ em. Boggs đã gửi các thông tin cho một biên tập viên cao cấp của
The Washington Post, Meg Greenfield, về những điều bất cập của các quy định mới này. Sau đó, tờ báo đã cho xuất bản một bài xã luận nhằm lên tiếng chỉ trích quy định mới và sau đó cơ quan
FTC đã từ bỏ kế hoạch ban đầu của mình.
Sau thời của Boggs là sự nổi lên của Tony Podesta. Là một nhân vật hoạt động trưởng thành trong phong trào phản chiến thời những năm 1960, năm 1987, Podesta đã giúp tập hợp giới cánh tả để đánh bại Robert Bork, ứng cử viên Tối cao Pháp viện của Tổng thống Ronald Reagan.
Không lâu sau đó, Podesta rời bỏ giới vận động vì lợi ích công cộng và bắt đầu gia nhập vào đội ngũ vận động hành lang, tập trung khai thác những người nổi tiếng để tác động đến thái độ của công chúng và dựa vào tình cảm của công dân để tác động đến các chính trị gia. Podesta khéo léo đến mức thậm chí đã giúp Lockheed Martin giành được sự chấp thuận để bán máy bay F-16 cho Pakistan, mặc dù chính phủ Ấn Độ, một khách hàng khác của Podesta Group, phản đối sự thỏa thuận này. Ông cũng đại diện cho hãng sản xuất vỏ xe Michelin và cả đối thủ cạnh tranh Pirelli.
Sức mạnh của K Street
Khi K Street bùng nổ, các cư dân của nó đã làm thay đổi cuộc sống của người Mỹ. Ví dụ, công ty Black, Manafort, Stone and Kelly, một nhân vật trung tâm trong cuốn sách nói trên, đã hỗ trợ ông trùm người Úc là Rupert Murdoch vượt qua các rào cản về quy định để mở rộng hệ thống truyền thông tại Mỹ. Vào những năm 1980, công ty này đã trở thành bậc thầy trong việc bãi bỏ các quy định đối với các ngành kỹ nghệ này và tìm kiếm các khoản được giảm thuế cho những người có quyền lực, bao gồm giảm 130 triệu USD cho Bethlehem Steel, 58 triệu USD cho Chrysler, 38 triệu USD cho Johnson & Johnson.
Trong cuốn sách
"Wolves of K Street", những câu chuyện cảnh cáo về hoạt động "xoay sở", bỏ việc làm trong chính phủ và tận dụng các mối giao dịch nội bộ đã có được để tìm kiếm công việc vận động hành lang béo bở, đã trở thành chuyện bình thường, một phần khiến cho sự bất bình đẳng xã hội tại Mỹ ngày càng rộng lớn hơn.
Và mỗi khi có những quyết đình nhằm hạn chế quyền lực của K Street, những kẻ buôn bán quyền lực lại tìm cách khai thác các kẽ hở trong luật lệ để gia tăng dự ảnh hưởng và lợi nhuận lớn hơn. Mặc dù ông Trump đã nói sẽ
"làm sạch đầm vũng lầy này", nó vẫn cứ phát triển mạnh. Từ năm 2016 đến năm 2018, chi tiêu cho K Street đã tăng 9%, lên đến 3,5 tỷ USD. Câu hỏi làm như thế nào để xoá sổ ngành kỹ nghệ này vẫn còn bị bỏ ngỏ và chưa có câu trả lời nào khả dỉ ổn thỏa cả!