Theo như Đạt ma dịch cân kinh giải quyết được vấn đề này nên đa số các bệnh đều có thể xử lư được như phương phát trị liệu bằng Phất Tay. Bài nầy đơn giản nhưng nhiều người đánh giá rất hiệu quả và chuẩn trong khi có nhiều bài tập “Dịch Cân Kinh“ hay c̣n gọi là “Phất Thủ Liệu Pháp” tạm dịch sau đây với bài Vẫy Tay Dịch Chân Kinh để tăng cường sức khỏe.
Tôi hướng dẫn lại chi tiết hơn về bài tập vẩy tay Đạt Ma dịch cân kinh. Đọc hơi dài, nhưng sẽ chi tiết và chính xác nhất trong việc tự tập tại nhà.
Đây là bài tập dưỡng sinh số 1 trong 100 bài dưỡng sinh hàng đầu của Đông Y.
-----
Đông y cho rằng vấn đề cơ bản của bệnh tật con người là do khí huyết mất cân bằng mà sinh ra, Đạt ma dịch cân kinh giải quyết được vấn đề này nên đa số các bệnh đều có thể xử lư được.
PHƯƠNG PHÁP LUYỆN TẬP ĐẠT MA DỊCH CÂN KINH
1. Về tư tưởng:
Phải có hào khí, tức là phải có quyết tâm luyện tập cho đến nơi đến chốn, đầy đủ, đều đặn, tư tưởng vững vàng kiên định, không nghe lời bàn ra tán vào mà chán nản bỏ dở.
Phải lạc quan: Không lo sợ v́ bệnh tật hiểm nghèo, phải b́nh tĩnh tin tưởng minh sẽ chiến thắng bệnh tật mà luyện tập.
2. Tư thế luyện tập:
Với khẩu quyết là 3-7, tức là Trước 3 Sau 7 và Trên 3 Dưới 7
- Trước 3 Sau 7, tức là tay ra phía trước 3 phần th́ ra phía sau 7 phần. Có thể gọi là trước không sau có, tay ra phía trước không có lực c̣n ra phía sau có lực.
- Trên 3 Dưới 7, tức là độ vững chắc của nửa trên cơ thẻ 3 phần th́ phía dưới là 7 phần. Hay c̣n gọi là thiên khinh địa trọng phù hợp với qui luật của triết học phương đông.
3. Với các nguyên tắc trên tư thế luyện tập như sau:
Hai chân mở bằng vai, 10 đầu ngón chân bám chặt xuống đất như đi trên đường trơn, trọng tâm dồn xuống mũi bàn chân, gót chân để hờ trên mặt đất. hai chân cứng lại, hậu môn đóng chặt.
Từ thắt lưng trở lên để lỏng, hai tay buông lỏng x̣e ra, úp về phía sau. Đầu cổ buông lỏng không nghĩ ngợi chỉ tâp trung nhẩm đếm xem tập được bao nhiêu lần. Mắt nh́n thẳng vào 1 điểm ở xa phía trước. miệng để hở để không khí lưu thông. Dùng lực hất tay ra phía sau thả lỏng để tay rơi xuống trở lai phía trước theo quán tính nhưng khoảng cách chỉ 3/7phần so với phía sau, rồi lại hất tiếp ra phía sau.
Ở đây hai tay được sử dụng như hai mái chèo bám sâu vào vai, khi chuyển động sẽ kéo theo cơ hoành chuyển động, nâng nên hạ xuống như lá pít tông khi bơm.
4. Các bước luyện tập:
Giai đoạn đầu là giai đoạn để cơ thể làm quen, không được gắng sức làm tổn thương các đầu ngón chân và khớp vai. không được nôn nóng v́ dục tốc bất đạt, sẽ không thu được kết quả mong muốn. quyết tâm và từ từ tiến nên sẽ thu dược kết quả mĩ măn. vội vàng làm cơ thể không thích nghi kịp sẽ không tốt.
Mới đầu tùy theo khả năng của từng người những người quen vận động có thể bắt đầu từ 300 lần trong 1 buổi tập. người ít vận động có thể từ 200 hoặc 100 lần cho buổi tập đầu tiên. sau khi đă quen th́ tăng dần lên mỗi lần tăng 100 lần/ buổi tập. Người yếu, ít vận động có thể tăng 50 lần/ buổi tập, dần tiến nên 1800 lần trở nên cho 1 buổi tập và giữ nguyên cho đến khi khỏi bệnh.
5. Thời gian luyện tập:
Trong suốt quá tŕnh luyện tập nhớ là phải thường xuyên, đều đặn với 3 buổi trong ngày.
Sáng thanh tâm tập mạnh, chiều trước khi ăn tập vừa, tối tập nhẹ (lưu ư tối tập mạnh sẽ dễ mất ngủ, v́ máu lưu thông mạnh, kích thích thần kinh hoạt động sẽ khó ngủ.
Khi quen lại tạo ra sảng khoái và giấc ngủ sâu hơn. Thời gian 1 buổi tập nhiều nhất là 30 phút có nghĩa là tấc độ phải đạt tối thiểu 1800 lần/ 30 phút mới đảm bảo quá tŕnh bơm máu.
Chú ư: Nếu quá tŕnh luyện tập không tập trung tư tưởng th́ khí huyết sẽ loạn xạ và không chú ư đến trên nhẹ dưới nặng là sai và hỏng.
Khi vẫy tay tới 600 lần trở lên thường có trung tiện và hắt hơi, toát mồ hôi, mặt nóng bừng, hai chân nhức mỏi th́ đó là b́nh thường, đừng ngại. Sớm có trung tiện là tốt.
Trung tiện và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn xuống cho phù hợp giữa sinh lư và vũ trụ (Thiên khinh, địa trọng).
Những điểm cần lưu ư:
Người bệnh nặng có thể ngồi vẫy tay cũng được, nhưng nhớ phải thót đít và bấm 10 đầu ngón chân xuống đất.
Số lần vẫy tay trong 1 buổi tập không giới hạn, nhưng các buổi tập phải đều, không nên lúc nhiều lúc ít. 1800 lần trong một buổi tập là có tác dụng chữa bệnh tốt, có thể tập nhiều hơn. Khi tập thấy ăn ngon, ngủ tốt , đại tiểu tiện b́nh thường, tinh thần tỉnh táo là số lần tập phù hợp với sức khỏe của ta.
Lúc mới tập người bệnh nhẹ có thể vẫy nhanh ṿng rộng , dùng sức nhiều, với người bệnh nặng vẫy chậm hơn, ṿng hẹp, dùng ít sức. Vẫy nhanh quá th́ tim đập quá nhanh, nhẹ quá th́ không có tác dụng làm cho máu lưu thông.
Vẫy tay là môn thể dục cần sự mềm dẻo, dùng ư là chính mà không dùng sức, nhưng phải làm sao cho cho bả vai, lưng, ngực chuyển động làm cho cơ hoành lên xuống mới có tác dụng.
Khi tập căn cứ vào cảm nhận của ḿnh để điều chỉnh nhiều ít, nhanh chậm, mạnh nhẹ sao cho phù hợp với bản thân. thấy nhanh nhẹn, tươi tỉnh hơn là tốt nếu kém trước th́ cần điều chỉnh.
Đông y cho rằng động tác nhẹ là bổ ích cho cơ thể, động tác mạnh là loại bỏ các chất căn bă có hại cho cơ thể tức là chữa bệnh.
Nhẩm đếm làm cho tỉnh táo, đầu óc được yên tĩnh nghỉ ngơi chân tâm được bồi dưỡng.
Khi tập có thể trong nhà học ngoài trời, đảm bảo yên tĩnh, không khí trong sạch không có gió lùa.
Sau khi tập thấy ngực lưng nhẹ nhàng hơi thở đều ḥa, mắt sáng,nước miệng ứa ra đại tiện nhuận, ăn ngon hơn, bệnh tật bớt dần thế là tập đúng và bệnh tật sẽ khỏi. Rất ít khi tập sai, mà chỉ có tác dụng nhiều ít khác nhau.
Cần vững tin khi luyện tập, không hoang mang, lạc quan với cuộc sống, quyết tâm luyện tập đến nơi đến chốn th́ dù bệnh nan y cũng khỏi. Càng để chậm, ngần ngại càng khó khăn và càng lâu khỏi bệnh.
Chống chỉ định: Những người đang ngoại thương không được phép tập, v́ máu lưu thông mạnh làm vết thương há miêng, khó lành.