Sự trớ trêu của sử Việt: Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ là anh em cọc chèo
Nguyễn Ánh và Nguyễn Huệ là anh em cọc chèo, đây đúng là sự trớ trêu của lịch sử. Sự sắp đặt trớ trêu của lịch sử, hai kẻ thù không đợi trời chung là Nguyễn Ánh - Gia Long và Nguyễn Huệ - Quang Trung cuối cùng lại trở thành anh em cọc chèo. Nguyễn Huệ - Quang Trung là chồng của công chúa Lê Ngọc Hân, Nguyễn Ánh - Gia Long là chồng công chúa Lê Ngọc Bình, em ruột Ngọc Hân.
Năm 1786, sau khi đánh thắng nhà Nguyễn ở Đàng Trong, Nguyễn Huệ (lúc ấy còn có tên là Nguyễn Quang Bình) kéo quân ra Bắc với danh nghĩa “phù Lê diệt Trịnh”. Mặc dù khi ấy đã có chính thất Phạm Thị Liên ở đất miền Nam song Nguyễn Huệ vẫn nhờ Nguyễn Hữu Chỉnh mai mối để lấy công chúa Ngọc Hân, nàng công chúa tài sắc vẹn toàn của vua Lê Hiển Tông.
Tượng đài Hoàng đế Quang Trung
Tình cảm sâu đậm mà Ngọc Hân dành cho chồng có lẽ là phải sau khi đã lấy nhau, trước đó, mối nhân duyên này vẫn là cuộc hôn nhân mang đầy tính chính trị. Khi quyết định lấy Ngọc Hân, Nguyễn Huệ đã nói câu nói để đời: “Vì dẹp loạn mà ra, để rồi lấy vợ mà về; bọn trẻ nó cười cho thì sao. Tuy nhiên, ta mới chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc Hà, nay cũng nên thử một chuyến xem có tốt không” (Hoàng Lê Nhất thống chí). “Trai anh hùng gái thuyền quyên/ Phỉ quyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng” (Truyện Kiều) thật đúng với cặp trai anh hùng Nguyễn Huệ và gái thuyền quyên Ngọc Hân. Là bậc anh hùng trăm trận trăm thắng, tuổi đời lại gấp đôi tuổi Ngọc Hân (khi ấy cô dâu 16 tuổi, còn chàng đã ở tuổi 33) nên Nguyễn Huệ vẫn mang tính cách cao ngạo của một vị tướng.
Cưới nhau sau mấy ngày, nhân lần đi cáo yết Thái miếu nhà Lê, Nguyễn Huệ cùng công chúa gióng kiệu đi cùng, Nguyễn Huệ đã tự hào hỏi Ngọc Hân: “Con trai con gái nhà vua, đã có mấy người được vẻ vang như nàng chăng?”. Nàng công chúa “cành vàng lá ngọc” đã trả lời đức phu quân: “…thiếp có duyên, lấy được lệnh công, ví như hạt mưa, bụi ngọc bay ở giữa trời, được sa vào chốn lâu đài như thế này, là sự may mắn của thiếp mà thôi”. Đó là công chúa lấy ý từ câu ca cổ: “Thân em như hạt mưa sa/ Hạt vào đài các, hạt ra cánh đồng”. Hoàng Lê Nhất thống chí cho biết Nguyễn Huệ nghe Ngọc Hân trả lời như vậy thì thích thú lắm. Mới hay, các bậc anh hùng chiến trận suốt ngày mải miết kiếm cung, quanh năm ngửi mùi khét lẹt của thuốc súng nên rất cần cái gì mềm mại, thơm tho, cần những lời êm dịu bên tai. Phải chăng vì vậy mà mối tình Ngọc Hân - Quang Trung ngày càng sâu đậm.
Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi vua và phong Ngọc Hân là Hữu cung Hoàng hậu. Năm sau, năm 1789, khi dẫn đại quân vào giải phóng Thăng Long, tương truyền, ngài đã vào làng hoa Ngọc Hồi chọn một cành đào đẹp nhất cho phi ngựa trạm mang về Phú Xuân báo tiệp để Ngọc Hân biết. Cành đào Nguyễn Huệ là thật hay chỉ là giai thoại thì đó vẫn là câu chuyện đẹp lung linh trong tâm khảm hậu thế về mối tình của bậc trai tài gái sắc. Cũng ngay năm thắng trận ấy, năm 1789, Ngọc Hân được phong là Bắc Cung Hoàng hậu. “Ngày vui ngắn chẳng tày gang” (Truyện Kiều), năm 1792, niên hiệu Quang Trung thứ 5, nhà vua băng hà ở tuổi 39. Tương truyền, Ngọc Hân chính là tác giả bài Tế vua Quang Trung và Ai Tư Vãn. Bà đã viết những lời da diết này để bày tỏ nỗi đau khổ cùng cực cũng như nỗi tiếc thương vô hạn cho người chồng anh hùng vắn số.
Sau khi Quang Trung qua đời, Thái tử Quang Toản 10 tuổi lên ngôi với niên hiệu Cảnh Thịnh. Năm 1795, Lê Ngọc Hân đã làm mai để công chúa Ngọc Bình, em cùng cha khác mẹ với Ngọc Hân lấy Quang Toản. Năm ấy, vua Cảnh Thịnh 13 tuổi còn công chúa Ngọc Bình 11 tuổi. Cuộc hôn nhân chính trị Ngọc Bình - Cảnh Thịnh đã tạo ra mối quan hệ phức tạp. Ngọc Hân là vợ của Quang Trung, Ngọc Bình em ruột bà lại lấy con trai Quang Trung, vậy là hai chị em ruột lại có mối quan hệ mẹ chồng (kế) - nàng dâu. Quang Trung là cha lấy chị, Quang Toản là con lấy em, họ vừa là cha con, vừa có mối quan hệ "cọc chèo" và có chung nhạc phụ là hoàng đế Lê Hiển Tông nhà Lê mạt. Thế nhưng, câu chuyện vẫn chưa dừng tại đó khi năm 1801, Nguyễn Ánh kéo quân ra Bắc, cả triều đình nhà Cảnh Thịnh Tây Sơn bỏ chạy khỏi kinh thành Phú Xuân, Ngọc Bình chạy theo không kịp và ở lại Phú Xuân. Thấy hoàng hậu nhà Tây Sơn trẻ đẹp, ăn nói dịu dàng, Nguyễn Ánh muốn lấy bà làm vợ. Mặc cho triều thần can ngăn đó là “vợ giặc ngụy”, Nguyễn Ánh vẫn bỏ ngoài tai tất cả khi trả lời bề tôi cả nước có cái gì không phải của nhà Tây Sơn, sá chi một người đàn bà.
Anh hùng khó qua ải mỹ nhân. Công chúa triều Lê, hoàng hậu nhà Tây Sơn đã trở thành phi tần của Gia Long nhà Nguyễn - một triều đại đối nghịch với nhà Tây Sơn - như vậy đó. Trong số 21 người vợ của vua Gia Long, Lê Ngọc Bình được xếp thứ 3 sau Thừa Thiên cao Hoàng hậu (Tống Thị Lan, mẹ đẻ Hoàng tử Cảnh) và Thuận Thiên cao Hoàng hậu (Trần Thị Đang, mẹ đẻ Thánh Tổ Nhân Hoàng đế Minh Mạng), như vậy đủ thấy Gia Long rất yêu quý bà. Sách Nguyễn Phúc tộc thế phả do Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc xuất bản (Nxb Thuận Hóa - Huế, 1995) cho biết: Năm Nhâm Tuất (1802) bà vào hầu Thế Tổ (tức Gia Long) và được phong là Tả Cung tần. Bà sinh với vua Gia Long hai hoàng tử là Quảng Uy công Nguyễn Phúc Quân, Thường Tín công Nguyễn Phúc Cự; 2 công chúa là Nguyễn Phúc Ngọc Khuê và Nguyễn Phúc Ngọc Ngôn. Bà mất năm Canh Ngọ, tức mới 26 tuổi (ta), được tặng Đức Phi và ban tên thụy là Cung Thận.
“Số đâu có số lạ lùng/ Con vua lại lấy hai chồng làm vua”, đó là những câu ca của dân gian truyền tụng về số phận kỳ lạ của một nàng công chúa nhà Lê nhưng cuối cùng lại trở thành hoàng hậu của nhà Tây Sơn và phi tần của nhà Nguyễn. Nhà Nguyễn (Tây Sơn) và nhà Nguyễn (Gia Miêu) là hai triều đại đối nghịch nhau kịch liệt trong lịch sử. Thế nhưng qua chuyện tình đầy éo le ấy, Gia Long và Nguyễn Huệ lại là anh em cọc chèo, quả là một sự sắp đặt trớ trêu của lịch sử.
VUA GIA LONG
(Mặc dù bị chửi từ nam tới bắc nhưng Nguyễn Ánh vẫn điều hành quốc gia ổn thỏa và hùng mạnh, ông ta hiểu cách làm vua.)
Nếu bạn cũng 15 tuổi như Nguyễn Phúc Ánh (cỡ mới vào lớp 10), gia đình chết hết, bơ vơ giữa một xứ sở xa lạ cách quê nhà gần 1200 cây số, lại có một kẻ thù sở hữu sức mạnh vô địch như Tây Sơn luôn săn đuổi ngày đêm, bạn sẽ làm gì tiếp theo?
Mình muốn nghe phương án hành động của bạn. Bạn sẽ tính toán ra sao để sống sót trong vòng 25 năm, báo thù, lấy lại nhà cửa và lên ngôi hoàng đế, hoàn thành cuộc chơi ở độ khó cao nhất. Let the game begin.
Riêng mình nghĩ đến là thấy nản mẹ rồi, chắc kiếm cái chùa nào đó dưới miệt vườn đi tu cho nhanh, game over. Hoặc treo cổ, hy vọng random ra được character khác với cốt truyện đỡ phức tạp hơn.
Nguyễn Ánh, năm 15 tuổi từ một vương tử trở thành một đứa nhỏ lang thang không nhà không cửa. Ông đã tan nát cõi lòng chứng kiến cảnh từng người thân của mình bị đóng cũi giải đi xử tử. Ký ức đau đớn đó luôn hằn sâu trong tâm trí cậu bé. Quân Tây Sơn đã truy sát tận cùng họ Nguyễn Phúc trong khi đôi bên không có oán hận gì, thù này không sâu sao được?
17 tuổi, Nguyễn Phúc Ánh trở thành Đại nguyên soái - lãnh tụ chống Tây Sơn ở Gia Định. Lúc ấy Tây Sơn đang độ mạnh nhất, mọi thứ của Nguyễn Ánh đều không thể so bì được, cả nhân lực lẫn thực lực. Ông thua rất nhiều trận, đếm cũng không hết. Nhiều hôm phải quây quần cùng với quân sĩ ngồi ăn bữa cơm chỉ có rau và cá muối.
Bao phen lênh đênh trên biển nhịn đói nhịn khát, Nguyễn Ánh cứ nghĩ số mình đến đây đã tận. Như lần ông vào cửa sông do thám thì quân Tây Sơn phát hiện, ra sức truy sát. Đến khi Tây Sơn không còn rượt nữa thì thuyền ông đã long đong trên đại dương được 7 ngày. Thức ăn hết, nước ngọt cũng hết, Nguyễn Ánh ngẩng mặt lên trời khóc thì bỗng đâu có nước ngọt tràn đến.
Người ta nói là trời cứu ông, nhưng có thể là do Cửu Long giang đổ ra biển sau mùa lũ, lượng nước quá dồi dào nên chưa bị mặn. Rồi có phen Nguyễn Ánh bị phò mã Trương Văn Đa tìm diệt đến tận Côn Đảo nhưng gặp bão. Cơn bão đó không giết ông mà lại cứu vớt ông. Nguyễn Ánh trôi dạt giữa biển cả dưới bão tố vần vũ điên cuồng mà không chết, thật kỳ tích.
Nguyễn Ánh tiêu diệt Tây Sơn là vì trách nhiệm phục hưng lại gia tộc đã bị thảm sát đặt nặng lên đôi vai, quyết tâm của ông là vậy và mục đích sống của ông cũng là thế. Như người thường thì Nguyễn Ánh cạo đầu đi tu cho nhanh, việc gì phải lì lợm đến mức đặt bản thân vào cửa tử biết bao nhiêu lần, từ hai bàn tay trắng đối đầu với đoàn quân hùng mạnh nhất thời đó.
Có thể Nguyễn Ánh không phải một minh quân vì các sai lầm trong đời của mình, nhưng ông cũng không phải là hôn quân.
Khu vực Đông Nam Á vào cuối thế kỷ 18 không phải là những quốc gia có lãnh thổ hành chính rõ rệt được quy định theo công pháp quốc tế ngày nay, mà là những khu vực ảnh hưởng theo từng dòng họ, khi mạnh thì bành trướng, khi yếu thì co cụm.
Hai trăm năm ly khai bên bờ sông Ranh đã biến Đàng Trong thành một xứ sở với văn hóa và sắc tộc hoàn toàn khác biệt với Đàng Ngoài.
Đàng Ngoài là nước An Nam, còn Đàng Trong là nước Quảng Nam.
Đó là lý do phải nghiêm chỉnh nhìn nhận hai Đàng là hai vương quốc khác nhau.
Nguyễn Nhạc không cho Nguyễn Huệ đánh ra bắc vì ông cũng thừa nhận Đàng Ngoài là một nước lớn có truyền thống lâu đời, và cho rằng dù đời ông có chiếm được thì đời con cháu ông cũng không giữ được.
Nguyễn Ánh là người thừa kế chính danh và hợp pháp của nước Đàng Trong, thủ đô Phú Xuân. Đất nước đó do ông tổ Nguyễn Hoàng lập ra và kết thúc khi Nguyễn Cư Trinh vẽ nét bút cuối cùng.
Tổ quốc của Nguyễn Ánh mất về tay người khác là Tây Sơn, thì nghĩa vụ của ông ta là phải lấy lại.
Vương tử Nguyễn Ánh đã cố gắng rất nhiều, thua liên tục nhưng không đòi lại được nên phải mời đồng minh.
Vấn đề nằm ở chỗ này nên nhiều người nói Ánh là kẻ bán nước Việt Nam.
Nhưng lúc đó làm quái gì có nước Việt Nam, ông ta chỉ đòi lại đất Đàng Trong của tổ tiên do người khác cưỡng đoạt.
Khái niệm "Việt Nam thống nhất" hay "non sông hình chữ S" chỉ có khi vua Gia Long ghép 2 đàng lại về sau. Đừng đem bản đồ Việt Nam thế kỷ 20 rồi đánh giá tình hình thế kỷ 18.
Chưa kể Ánh mời Xiêm để đòi lại đất và đuổi Tây Sơn, chứ không phải mời Xiêm vào để cướp hiếp giết dân ổng.
Nhà Đường sau loạn An Lộc Sơn đã rất yếu sinh lý, không còn đủ sức chống lại đế chế Thổ Phồn xâm lược. Quân Thổ Phồn chiếm được Trường An, buộc vua Đường phải cầu viện đến quân Hồi Hột, vốn cũng là một đế chế thảo nguyên hùng mạnh cùng thời. Việc này về sau không ai đánh giá là vua Đường bán nước.
Chủ quyền của mỗi quốc gia được khẳng định chính xác kể từ lúc thế giới hình thành trật tự cố định sau thế chiến thứ 2.
Nên từ mốc đó trở đi chuyện xâm lược mới bị quốc tế lên án dữ dội. Trong cái thời phong kiến và thực dân, hay thời đại của chinh phạt và khởi nghĩa, biên giới các quốc gia bị thay đổi liên tục.
Đại khái thằng nào mạnh thằng đó ăn, chẳng có luật pháp quốc tế can thiệp, cũng chẳng có ai quan ngại sâu sắc giùm. Cho nên khi bị đánh thì chỉ có hai cách:
Một là tự lực cánh sinh nếu cảm thấy tự tin rằng mình đủ sức khô máu được với đối phương.
Như Anh thắng Pháp trong đại thủy chiến Trafalgar, Tôn Quyền thắng Tào Tháo ở Xích Bích... Đây là thượng sách.
Hai là khi chịu không nổi nhiệt nữa, do kẻ thù quá bá đạo thì gọi đồng minh đến cứu.
Giống như cách vua Đường, vua Triều Tiên, chúa Nguyễn Phúc Ánh, hay các liên minh chống Napoleon, Cách mạng Mỹ... thực hiện. Đây là hạ sách.
Nói chung trước 1945, giỏi thì tìm cách đòi lại đất, dở thì mất đất về tay người, tệ hơn nữa là bị sáp nhập và biến mất khỏi bản đồ thế giới.
Nên mình mới nói, đừng đem quan điểm chủ quyền thế kỷ 20 áp đặt cho tiền nhân của những thế kỷ trước. Vì những thứ mình lên án gay gắt bây giờ, ngày đó người ta lại nghĩ khác.
Xét về trình độ học vấn thì Nguyễn Huệ học cao hơn Nguyễn Ánh.
Nguyễn Huệ xuất thân trong một gia đình trung lưu giàu có (chứ không phải nông dân như nhiều bạn tưởng), thành ra từ bé đã được học hành tử tế. Thầy của Nguyễn Huệ rất nghiêm, lò luyện của ông giáo bắt buộc đứa nào học võ thì phải học cả văn, lôi thôi tống cổ ra khỏi lớp, không nói nhiều. Nguyễn Nhạc vì gánh kinh tế cho gia đình nên bỏ học sớm. Trong lúc anh trai đang chèo thuyền dọc sông Côn kết giao cùng giới hắc đạo, thì Nguyễn Huệ vẫn phải mài đít trên ghế nhà trường. Ban ngày luyện võ, ban đêm đọc sách, viết chữ cực đẹp. 18 tuổi tốt nghiệp trung học phổ thông loại giỏi, sau đó lên núi theo anh hành tẩu giang hồ.
Nguyễn Ánh khốn khó từ lúc thơ ấu, phải lưu lạc khắp nơi, chẳng mấy khi được ở yên một chỗ nên không được cắp sách đến trường, gặp gỡ bạn thân và cô giáo hiền như bao đứa bé cùng trang lứa khác.
Bản thân Ánh không hiểu ngoại ngữ, nên khi mấy ông Tây xí xố tâu bày đều phải nhờ các quan phiên dịch giùm, bù lại cậu rất hay chữ Nho và có thể làm thơ. Tính Ánh vốn tò mò nên thấy cái gì lạ đều tìm cách học cho bằng được, nhất là các bản vẽ vũ khí và những cách đắp lũy xây thành, đóng tàu, cũng như nhiều thứ khác.
Nguyễn Ánh đặt mua được nhiều sách vở và địa đồ bên châu Âu, thì nhờ chăm học mà hiểu gần hết.
Tuy đường giáo dục còi cọc, nhưng bù lại kỹ năng mềm của Nguyễn Ánh rất khéo, đặc biệt là khả năng giao tiếp. Nguyễn Huệ khiến người ta rùng mình khi đối diện vì uy vũ của ông. Thì Nguyễn Ánh được người phương Tây đánh giá là cử chỉ rất dễ thương và hòa nhã, cấp dưới cũng kính trọng vì Nguyễn Ánh đối xử với họ rất tốt và thân mật.
Một điểm rất hay của Nguyễn Ánh là ông ta nắm được tâm lý con người và dùng nó để thực hiện kế hoạch của mình.
Cả Tây Sơn lẫn Nguyễn Ánh đều cưỡng bức đi lính, nhưng Tây Sơn thì bắt bừa bãi, già trẻ lớn bé bắt hết. Còn Nguyễn Ánh thì bắt mọi người làm nông nghiệp, ai lười biếng thì sung quân. Ba năm đầu từ ngày khẩn hoang sẽ miễn thuế. Nếu thu từ 70-100 thùng lúa sẽ được "khuyến mãi" như sau:
-Dân thường sẽ được miễn đào kênh, đắp thành một năm.
-Binh lính sẽ được miễn đi đánh nhau một năm.
Thành ra sau khi Tây Sơn hủy diệt Nam Bộ thì Nguyễn Ánh đã hồi sinh nó nhanh chóng nhờ kích thích mọi người hăng say lao động. Đó là việc thứ nhất.
Việc thứ hai, lúc Tây Sơn hạ xong thành Gia Định đã xảy ra vụ thảm sát Chợ Lớn vô cùng nghiêm trọng. Nhà văn Sơn Nam cho rằng có khoảng 10000 người chết, thây trôi tắc cả sông, cả tháng sau không ai dám ăn tôm cá ở đó. Nói chung ghê gấp 100 lần khủng bố nhà hát Bataclan ở Paris.
Về sau lúc Nguyễn Ánh hạ được thành Quy Nhơn, đổi tên thành Bình Định, dân chúng cũng sợ hãi vì không biết có bị thảm sát không. Nhưng trái lại, Nguyễn Ánh nghiêm cấm bất cứ hình thức cướp bóc nào và xử cực nghiêm những ai dám làm hại dân Quy Nhơn, trọng dụng những người chịu đầu hàng, đồng thời tha thuế 3 năm. Chính thế cho nên Quy Nhơn yên bình và Nguyễn Ánh về sau vẫn giữ được nơi này, dù nó là đất tổ nhà Tây Sơn.
Lúc thống nhất Việt Nam thì công việc càng khó hơn nữa, vì lúc này đất đai rộng gấp 3 lần ngày trước, lại thêm đủ nhóm dân tộc với tính cách và lịch sử khác nhau. Vua Gia Long cho lập các kho vận trữ lúa gạo (kho Bình Chuẩn Thương), cắt cử quan lại chăm lo việc cứu đói dân chúng.
Mặc dù bị chửi từ nam tới bắc nhưng Nguyễn Ánh vẫn điều hành quốc gia ổn thỏa và hùng mạnh, ông ta hiểu cách làm vua.
PHẠM VĨNH LỘC
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.