Ông Nguyễn Cao Kỳ từng giữ cương vị Thủ tướng giai đoạn 1965-1967 và Phó Tổng thống giai đoạn 1967-1971 của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Là người từng được coi là có tư tưởng chống cộng cực đoan, nhưng kể từ năm 2004, ông Kỳ được nhiều ý kiến đánh giá là một trong những biểu tượng của sự hòa hợp dân tộc.
Cả cuộc đời ông được ghi dấu bởi sự kiện, có thể là chính sử, cũng phần nhiều là giai thoại nhưng đậm tính cách ngang tàng, dữ dội.
Quá khứ
Theo một số tài liệu, ông Nguyễn Cao Kỳ sinh ngày 23 tháng 7 năm 1930 tại Sơn Tây (Hà Nội), tham gia Quân đội Quốc gia Việt Nam năm 1952 và được đưa vào huấn luyện tại Trường sỹ quan trừ bị khoá I ở Nam Định. Sau đó Nguyễn Cao Kỳ được chọn đi đào tạo tại trường không quân Marrakech tại Maroc.
 |
Ông Nguyễn Cao Kỳ thời kỳ trước năm 1975 |
Sau Hiệp định Genève, ông ở lại tham gia Quân lực Việt Nam Cộng hòa, trở thành một trong những phi công và sĩ quan chỉ huy đầu tiên củaKhông lực Việt Nam Cộng hoà. Khi đảo chính 1963 nổ ra, ông đứng về lực lượng đảo chính, nắm quyền chỉ huy không quân, tạo áp lực buộc lực lượng trung thành với tổng thống Ngô Đình Diệm phải đầu hàng.
Sau cuộc đảo chính, Nguyễn Cao Kỳ thăng chức nhanh chóng. Ông trở thành Tư lệnh không quân, mang hàm Thiếu tướng và là Ủy viên củaHội đồng Quân nhân Cách mạng. Tư cách Ủy viên Hội đồng tiếp tục là cơ hội để ông có bước tiến mới về chính trị,
Tướng Kỳ càng nổi lên tại chính trường Sài Gòn sau cuộc đàn áp đấu tranh của Phật giáo và mưu toan ly khai của tướng Nguyễn Chánh Thi ở miền Trung năm 1965.
Năm 1967, ông cùng với tướng Nguyễn Văn Thiệu ứng cử và đắc cử Phó tổng thống Việt Nam Cộng hòa nhiệm kỳ 1967-1971.
Tướng Nguyễn Cao Kỳ rút lui khỏi vòng bầu cử Tổng thống năm 1971 của chính quyền Sài Gòn vốn được các nhà chính trị đương thời nhìn nhận như “một trò hề chính trị”.
Cho tới nay, nhiều người sống ở miền Nam trước 1975 vẫn truyền tụng giai thoại tướng Kỳ “râu kẽm” tự lái máy bay riêng, bay sát sàn sạt khu vực trung tâm Sài Gòn nơi trụ sở Hãng Hàng không Air Vietnam (gần Trụ sở UBND TP bây giờ) để thả thư tỏ tình cầu hôn với cô tiếp viên hoa khôi Đặng Tuyết Mai.
Trong tự sự của mình, ông Kỳ viết: “Cuộc hôn nhân đầu tiên của tôi với một phụ nữ Pháp – và chúng tôi đã có 5 đứa con với nhau – đã kết thúc bằng sự ly thân và tiếp theo đó chúng tôi đã ly dị. Sau khi ly dị với vợ tôi, theo lời của một nhà báo, tôi đã hưởng được “hai năm hết sức sôi động của một người có số đào hoa”.
Có lẽ tôi không cần phải đính chính là sự nhận xét trên đã được phóng đại như thế nào và thực ra tôi cũng đã vui chơi nhiều và thoải mái trong lúc bấy giờ bởi vì tất cả chúng tôi đều không biết sống chết ngày nào và cần phải sống vội khi mình được sống”.
Năm 1962, ông Kỳ chia tay với bà vợ người Pháp sau khi đã có với nhau 5 người con. Hai năm sau, ông kết duyên của bà Đặng Tuyết Mai.
Ngày 29/4/1975, trước thắng lợi của Quân đội nhân dân Việt Nam, tướng Nguyễn Cao Kỳ tự lái máy bay trực thăng ra hàng không mẫu hạm Midway, bắt đầu chuỗi ngày phải sống lưu vong. Ở Mỹ một thời gian, ông Kỳ và bà Mai chia tay.
Theo lời tự thuật của ông với báo chí trong những lần trở về Việt Nam, ông kiếm sống bằng cách đi làm thuê trong hơn 10 năm đầu sống trên đất Mỹ.
Tìm về nguồn cội
Kể từ năm 2004, ông Nguyễn Cao Kỳ đã về Việt Nam bốn lần. Vợ cũ của ông, bà Đặng Tuyết Mai và con gái ông, Nguyễn Cao Kỳ Duyên cũng nhiều lần về thăm quê hương. Bà Đặng Tuyết Mai đã mở quán “Phở Ta” tại số 12-14 đường Lê Qúy Đôn - quận 3 – TP. Hồ Chí Minh. Bà Nguyễn Cao Kỳ Duyên mở một quán cà phê lớn ngay bên cạnh sông Hàn tại TP Đà Nẵng.
 |
Ông Nguyễn Cao Kỳ trong một lần gặp gỡ Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết |
Khi trở về Việt Nam, ông được nhiều cấp cao của Việt Nam đón tiếp, đó là những người có trọng trách bên Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội và cả Mặt trận Tổ quốc tiếp trọng thị.
Với nhiều phóng viên có mặt tại khách sạn Sheraton TP Hồ Chí Minh vào chiều 15/1/2004, là một ngày đặc biệt. Trong chuyến lần đầu trở về Việt Nam kể từ năm 1975, ông Nguyễn Cao Kỳ đã có buổi trò chuyện với giới báo chí trong và ngoài nước. “Đây là lần đầu tiên tôi trở về VN sau 30 năm, còn hai tuần nữa tôi bước sang tuổi 75” - ông Kỳ mở đầu câu chuyện.
“30 năm trước tôi khóc vì tôi đã phải rời bỏ quê hương. Có thể nói đó là lần đầu tiên trong cuộc đời tôi khóc. Và khi tôi nhìn thấy TP.HCM từ trên máy bay trong lần trở về này thì cũng là lần thứ hai trong đời tôi nước mắt lại tuôn ra. Lại một lần khóc nữa vì tôi tìm lại quê hương”, ông Nguyễn Cao Kỳ đã khóc khi nhắc lại câu chuyện này.
Trước câu hỏi của phóng viên về việc, ông Kỳ có kế hoạch gì ở Việt Nam để thể hiện mong muốn dùng chuyến đi của mình để biểu lộ tinh thần hòa hợp dân tộc, ông Kỳ trả lời: “Tôi nghĩ rằng riêng sự hiện diện của mình ở đây là một hành động rất rõ ràng”.
Ông Kỳ cũng thừa nhận, chuyến về của ông gây nhiều dư luận: đồng tình và không đồng tình đều có. “Những nhóm người hải ngoại ở Mỹ quen sống “kiểu Mỹ” cho nên vấn đề gì họ cũng có thể có ý kiến chống đối. Tôi sống gần họ nên tôi hiểu đa số người VN trầm lặng ở hải ngoại họ rất thông cảm và chấp nhận những gì mà tôi đã nói và đề cập về quê hương. Những nhóm chống đối đó chỉ là thiểu số và bản thân tôi cũng chẳng bao giờ thèm để ý. Tôi cũng muốn nói thêm rằng những người mà giờ phút này, sau 30 năm khi đất nước đã thống nhất và đây là lúc cần sự tập hợp của tất cả người VN trong cũng như ngoài nước để phục hưng đất nước, để VN trở thành một con rồng châu Á. Thế mà lại có những kẻ vẫn muốn quay về chuyện dĩ vãng. Chuyện không tưởng”.
Cuối tháng 6/2008, trong chuyến thăm chính thức nước Mỹ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có buổi gặp gỡ thân tình, ấm cúng với nhiều kiều bào tại Houston, Texas và California. Thủ tướng chia xẻ: "Đất nước là của mình, dân tộc là của mình, chúng ta phải làm sao chung sức, chung lòng vì một Việt Nam giàu mạnh, trên cơ sở điểm chung dân tộc".
Người đứng đầu Chính phủ mong bà con kiều bào giữ bản sắc văn hóa của dân tộc mình, mà trước hết là giữ gìn tiếng nói. "Gặp nhau, giữa những người tóc đen da vàng, mà dùng tiếng Anh cũng hay đấy, nhưng vẫn thấy hơi buồn. Mong bà con hãy luôn hướng về đất nước, bằng tấm lòng, tình cảm với quê hương. Bà con hãy hướng về quê hương, bằng mọi con đường, mọi nẻo. Quê hương là vĩnh hằng, trong khi quá khứ đã là lịch sử, cần gác lại”.
Có mặt tại cuộc gặp, ông Nguyễn Cao Kỳ đáp lời: "Tôi nghĩ Thủ tướng có thể yên tâm. Ngay cả một Việt kiều trẻ không biết gì về quá khứ, chỉ trong 1h đồng hồ nghe Thủ tướng nói, họ đã hiểu. Thực sự chúng ta nhìn thấy có bao nhiêu? Được trăm người không? (Ý nói những người Việt biểu tình phản đối chuyến thăm Mỹ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng – PV) Nó không thể so sánh với hàng trăm nghìn người, cả triệu người Việt Nam ở nước ngoài, chưa kể bao nhiêu người từ nhiều năm nay đã trở về quê hương, đóng góp cho quê hương".
Ông Kỳ nói: "Tôi ở đây không chỉ với tư cách người Mỹ gốc Việt ở hải ngoại, mà gần như là một người Việt Nam ở trong nước sang để gặp Thủ tướng, nghe ông Thủ tướng nói những ưu tư của dân tộc ở trong nước. Nghe xong, chính tôi cũng thấy an lòng".
Ông Nguyễn Cao Kỳ tin tưởng "Thủ tướng và các nhà lãnh đạo Việt Nam đủ trí tuệ để chèo chống và đưa đất nước tiến lên".
"Với chuyến đi của Thủ tướng, Việt Nam là một nước nhỏ mà lại có quan hệ giao hảo tốt đẹp với một cường quốc số 1 thế giới, tôi cho là đi đúng đường và rất tốt đẹp. Tôi tincác nhà lãnh đạo Việt Nam có đủ sức khỏe, trí tuệ, sự sáng suốt để lãnh đạo đất nước, dân tộc tới một chỗ đứng xứng đáng ở cộng đồng quốc tế".
***
Quote:
Ông Nguyễn Cao Kỳ nói về những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn
Những năm đầu sau khi di tản sống ở Mỹ, ông Nguyễn Cao Kỳ đã viết cuốn hồi ký : “Chúng ta đã thất bại ở miền Nam như thế nào?”. Sau đây là một phần nhỏ của quyển sách ông Kỳ nói về những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn – bắt đầu từ sau khi thất thủ Buôn Ma Thuột.
Tôi đã định làm đảo chính
Sau khi Buôn Ma Thuột thất thủ, tôi đề nghị tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham mưu trưởng – NV) tập trung pháo binh, không quân cùng hai trung đoàn dù, hoặc biệt động quân thiện chiến, và tôi tình nguyện chỉ huy chiến dịch tái chiếm này.
 | Ảnh chụp tại Dinh Độc lập trưa ngày 30/4/1975 |
Tướng Viên đồng tình với tôi, nhưng nó đã bị Tổng thống Thiệu bác bỏ. Nguyên nhân của sự thất bại này là sự bất đồng giữa Bộ Tổng Tham mưu và Tổng thống Thiệu.
Tướng Viên tỏ ra khổ tâm vì Thiệu đã không tham khảo, mà còn bác bỏ các ý kiến của cơ quan tham mưu. Vừa mất Buôn Ma Thuột, Thiệu liền triệu tập ngay cuộc họp kín với một số tướng lĩnh thân cận ở Cam Ranh và ra lệnh cho tướng Phạm Văn Phú (Tư lệnh Quân khu 2 – Quân đoàn 2) rút khỏi Pleiku và Kon Tum lui về trấn giữ phòng tuyến ở phía Đông Buôn Ma Thuột để phản kích chiếm lại thị xã sau này.
Nhưng sai lầm của Thiệu là biến một cuộc rút lui chiến thuật thành một cuộc tháo chạy tán loạn, kết cục là một sự tan rã của một đạo quân có hơn 1 triệu người được trang bị hiện đại. Không bao lâu sau khi Quân khu 2 – Quân đoàn 2 rút khỏi Tây Nguyên cùng với hàng chục vạn người tị nạn trong cảnh hoảng loạn, cuộc bại trận cuối cùng ở miền Nam đã bắt đầu.
Kể từ đó tình trạng hoang mang, dao động, mất tin tưởng lan tràn trong quân lực và lây lan nhanh như một cơn dịch. Mất Tây Nguyên đến lúc tướng Ngô Quang Trưởng (Tư lệnh Quân khu 1, Quân đoàn 1) tập trung lực lượng về co cụm giữa Đà Nẵng) và một số trọng điểm ven biển, nhưng binh lính không còn biết mình chiến đấu cho ai, để làm gì ?
Sĩ quan thì miệng kêu gọi lính tử chiến, nhưng lại thúc giục gia đình di tản. Rốt cuộc cả Quân khu 1 – Quân đoàn 1 nơi có lực lượng mạnh nhất gồm 3 sư đoàn lính dù, lính thủy đánh bộ và bộ binh, với xe tăng thiết giáp, không quân hùng hậu nhất đã vỡ trận và thất bại thảm hại. Tướng Trưởng đào thoát ra biển để tháo chạy trước khi Việt Cộng chiếm Đà Nẵng.
Tình hình ngày càng xấu đi, vì thế để cứu vãn tình thế, tôi đã nghĩ ngay đến việc đảo chính lật đổ Thiệu. Nhưng đại sứ Martin không ủng hộ tôi và tỏ thái độ chúng tôi sẽ gặp rắc rối nếu tiến hành đảo chính trong lúc này. Martin còn bắn tin qua tướng Nguyễn Văn Minh – Tư lệnh không quân do tôi bổ nhiệm trước đó (Minh nhỏ), rằng nếu tôi làm đảo chính CIA sẽ giết tôi. Martin đang theo dõi tôi đấy!
Sau đó người Mỹ đến mua chuộc, thuyết phục tôi. Họ bảo nếu tôi nghe họ thì dù miền Nam có thua trận, họ vẫn bảo đảm cho cả gia đình tôi ra nước ngoài và chu cấp suốt đời. Vào giữa tháng 4/1975 Martin và tướng CIA Timmes đã đến gặp tôi tiếp tục thuyết phục trong hai giờ liền. Nhưng tôi vẫn giấu Martin về ý định của mình – nếu có lực lượng, tôi sẽ dùng không quân và lính dù làm đảo chính lật đổ Thiệu.
Đến ngày 20/4, nhiều tin đưa về Bộ Tổng Tham mưu nói rằng có tới 15 sư đoàn Bắc Việt đã áp tới gần vành đai phòng thủ bên ngoài Sài Gòn, một số đơn vị đặc công đã tiến vào khống chế sân bay Biên Hòa – lớn thứ hai ở miền Nam, ngoài ra còn 3 sư đoàn Bắc Việt cũng đã tới gần phía Tây Nam Sài Gòn.
Lúc này Martin tiếp tục thuyết phục Quốc hội Mỹ cấp cứu cho miền Nam, đồng thời trấn an nội các Sài Gòn rằng cứ bình tĩnh, thủ đô (Sài Gòn) không hề lâm nguy. Rồi Timmes lại bất ngờ đến gặp tôi để thăm dò việc Mỹ đưa Dương Văn Minh (Minh lớn) ra thay Thiệu để làm bình phong thương lượng với Hà Nội. Tôi nghĩ nước cờ quái gở này là một phần trong chính sách của Nhà trắng đã được vạch sẵn – thể hiện đã tới hồi Mỹ bỏ rơi miền Nam. Martin đã buộc Thiệu phải từ chức hôm 21/4.
Nhớ lại, tôi không quên khi đó Thiệu – 52 tuổi, tuyên bố trong bài diễn văn thật thống thiết rằng Thiệu bị buộc phải từ chức, đồng thời cùng lúc ấy từ dinh Độc lập chúng tôi đã nghe thấy tiếng đại bác của Việt Cộng đã nổ ở ngoại ô Sài Gòn. Kế vị Thiệu là Phó Tổng thống Trần Văn Hương; một ông già chân tình nhưng không sáng suốt, thiếu bản lĩnh.
Sự cáo chung
Tiếp theo đó là một tuần lễ cuối cùng kinh hoàng và hỗn loạn. Đến ngày 26/4, quân đội Bắc Việt đã cắt đứt Sài Gòn với đồng bằng Sông Cửu Long – nơi cung cấp nguồn lương thực, thực phẩm chính và nằm trong kế hoạch quân đội Sài Gòn sẽ lui về giữ đồng bằng miền Tây một khi Sài Gòn thất thủ. Thế là Sài Gòn bị cô lập.
Tiếp theo, chiều 28/4 Việt Cộng đã dùng máy bay phản lực A37 của Mỹ dội bom vào căn cứ Tân Sơn Nhất, càng gây nên sự hỗn loạn không thể nào vãn hồi được trật tự. Tới lúc này tôi cảm thấy những tai họa khủng khiếp sẽ xảy ra nếu chúng tôi không đầu hàng.
Song dẫu tuyệt vọng, tôi vẫn nuôi hy vọng thuyết phục Trần Văn Hương – tân Tổng thống bổ nhiệm tôi nắm lấy và chỉ huy quân đội để cứu vãn tình thế. Nhưng ông ta không chấp nhận.
Điều này cũng có nghĩa là trong hàng ngũ tướng lĩnh chúng tôi không ai có thể làm gì được nữa. Và rồi sau một tuần làm Tổng thống, với áp lực của người Mỹ, Trần Văn Hương lại phải giao chức lại cho Dương Văn Minh, 59 tuổi, người được đại sứ Martin che chở và yêu cầu lưỡng viện Quốc hội ủng hộ.
Sài Gòn chính thức phê chuẩn Minh lớn làm tổng thống ngày 28/4. Cùng ngày, lúc gần 10 giờ đêm, quân đội Bắc Việt bắt đầu nã đại bác và tên lửa vào nhiều nơi trong thành phố Sài Gòn.
Tiếp theo sáng 29/4 quân đội Bắc Việt lại nã pháo dữ dội vào đường băng chính của sân bay Tân Sơn Nhất và trúng kho nhiên liệu bùng phát những đám lửa và cột khói lớn, nhiều máy bay trên đường băng nổ tung.
Không nghi ngờ gì nữa, đợt tấn công cuối cùng đánh chiếm Sài Gòn đã mở màn, giờ cáo chung của chế độ Cộng hòa Nam Việt Nam đã điểm, không cách gì ngăn cản nổi. Lúc này tôi chợt nghĩ và tự hỏi – phải chăng người Mỹ ngây thơ tin rằng Minh lớn “có giá” để Hà Nội chấp nhận thương lượng!
Trước tình thế quá quẫn bách không còn biết làm cách nào để đối phó hãm đà tấn công của Cộng sản lại, tôi vội vã đánh xe lao ngay tới Đại sứ quán Mỹ – thì bên ngoài một cảnh hỗn loạn, nhốn nháo, hốt hoảng chưa từng có trước một sứ quán của một quốc gia hùng mạnh nhất thế giới - mà đội quân bảo vệ sứ quán – những tay súng thủy quân lục chiến Mỹ hộ pháp với khẩu M16 lăm lăm trên tay vẫn đành bất lực.
Lúc này là cuối ngày 29/4, mặc dù hết sức cố trấn tĩnh để trấn an nội các mới của tướng Minh lớn, nhưng đại sứ Martin đã không giấu nổi cảnh tuyệt vọng đang diễn ra ngay trước sứ quán của ông – người đại diện cao nhất của Hoa Kỳ ở Sài Gòn lúc này.
Được biết Martin còn cố nán lại để chờ thông tin từ trại David xem có hy vọng gì về sự chấp nhận thương lượng của Bắc Việt không. Nhưng rồi tất cả đều đã muộn và đổ vỡ. Hà Nội tiếp tục lệnh cho các cánh quân thần tốc đánh vào nội đô, và mờ sáng hôm sau Martin đành phải lao lên trực thăng trên sân thượng của sứ quán Mỹ để ra tàu của hạm đội 7 đang neo đậu chờ ngoài khơi theo lệnh của tổng thống Ford từ Nhà trắng.
Tôi lại đánh xe đến Bộ Tổng tham mưu, nhưng lúc này, tướng ba sao Đồng Văn Khuyên, Tổng tham mưu trưởng chính thức vừa được Minh lớn bỏ nhiệm thay tướng bốn sao Cao Văn Viên – cũng đã bổ nhiệm Sở tháo chạy và rời Sài Gòn ít giờ trước đó. Lúc này cả ngày 29 và đêm sáng 30/4 trên bầu trời Sài Gòn đầy rẫy từng đàn trực thăng Mỹ lao vào, lao ra như con thoi để chở các quan chức Mỹ di tản, nhưng cao xạ của Việt Cộng không cần bắn vào những kẻ đã bỏ chạy.
Đến lúc này tôi thực sự cảm nhận một cách cay đắng rằng mọi hy vọng đều đã tiêu tan. Và, tôi tự lái chiếc trực thăng riêng của mình ra chiếc tàu của hạm đội 7 để cùng di tản với ông Martin sáng hôm 30/4, còn gia đình tôi thì đã rời Nam Việt Nam trước đó mấy ngày.
Theo Bùi Đình Nguyên/Tiền phong
|