Mercy dog, hay c̣n gọi là chó cứu thương, chúng lần đầu được sử dụng bởi quân đội Đức, với mục đích t́m kiếm những người lính bị thương và an ủi những người sắp chết trên chiến trường.
Đối với những người lính bị thương ở No man's land trong Thế chiến thứ nhất th́ sự xuất hiện của Mercy dog là một niềm vui không hề nhỏ, bởi những cú huưch nhẹ và những cái liếm mặt đồng nghĩa với việc sự giúp đỡ sẽ đến.
Những con chó này lùng sục khắp các cánh đồng sau trận chiến để t́m kiếm binh lính cần sự giúp đỡ. Hầu hết những con chó cứu thương đều mang theo đồ y tế trên lưng; một số bắt buộc phải đeo mặt nạ pḥng độc. Khi t́m thấy một người lính bị thương nặng, chúng sẽ cố gắng tha một mảnh đồng phục của anh ta rồi chạy về trại để t́m kiếm sự giúp đỡ.
Đôi khi chúng t́m thấy những người lính đang thoi thóp, chúng sẽ ở bên cạnh anh ta, mang đến cho anh ta những giây phút an ủi và đồng hành cho đến khi người lính đó chết.
Cách quân đội bắt đầu sử dụng Mercy dog
Con người đă sử dụng chó trong các cuộc chiến hàng ngàn năm trước. Các bức bích họa ở Ai Cập cổ đại đă mô tả những con chó trong trận chiến, và các tài liệu được viết bởi người Hy Lạp cổ đại cũng đề cập đến những con chó "được mặc áo giáp" trong chiến tranh.
Nhưng với người hiện đại, ư tưởng sử dụng chó cứu thương trong chiến tranh mới chỉ manh nha bắt đầu vào năm 1890. Sau đó, một người yêu chó và họa sĩ người Đức tên là Jean Bungartz đă thành lập Deutschen Verein für Santiätshunde hay c̣n gọi là Hiệp hội chó y tế của Đức. Anh đă h́nh dung ra những chú chó được huấn luyện bài bản, có thể giúp t́m kiếm những người lính bị thương.
Năm 1895, Thiếu tá Edwin Richardson bắt gặp một người đàn ông mua những con chó tại Anh để chuyển về Đức.
Richardson kể lại : "Tôi để ư đến một 'người nước ngoài' mua một con chó chăn cừu từ một người chăn cừu và biết được rằng người đàn ông đó là người Đức, được chính phủ cử đi mua số lượng lớn chó collie cho Quân đội Đức". "Tôi được biết đây là những con chó được cho là xuất sắc theo một số yêu cầu tuyển chọn, và không có bất kỳ con chó nào ở Đức có thể so sánh với chúng".
Theo đó, Richardson và Bungartz, một người yêu chó bắt đầu thử nghiệm xem liệu những con chó có hữu ích trong chiến tranh thời đó hay không. Tại trại quân đội Barry Buddon gần đó, họ cho những con chó đeo những chiếc túi dạng yên ngựa để mang một số vật dụng cho những người lính. Richardson nhận thấy rằng giống Terrier và Collie làm việc rất tốt, nhưng chó sục Airedale mới là giống chí "lư tưởng" để phục vụ trong chiến tranh.
Sau đó, những con chó đă được huấn luyện để làm nhiều hơn thế. Chúng được huấn luyện t́m người mất tích - Richardson trả tiền cho những người dân địa phương thất nghiệp để nằm trong rừng để cho những con chó t́m kiếm. Tiếp theo chúng được huấn luyện để bỏ qua những xác chết, đeo mặt nạ pḥng độc và thậm chí là phớt lờ những. người mặc đồng phục của quân đội Đức.
Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, những chú chó từ Anh, Pháp và Đức đă được đưa ra mặt trận. Ở đó, những con chó cứu thương đă phát huy tác dụng của ḿnh mà cứu sống hàng ngàn người.
Những con Mercy dog trong Thế chiến thứ nhất
Khi chiến tranh nổ ra, những người đàn ông đă ra trận mạc mà những con chó cũng vậy, Trong 4 năm xung đột đẫm máy, hai bên đă sử dụng tổng cộng hơn 50.000 con chó với mục đích hậu cần.
Một người lính đang lấy gạc từ một chú chó cứu thương của Anh.
Những giống chó được sử dụng chủ yếu là chó sục Airedale, German Shepherd, Doberman Pinschers, Boxers và các giống chó khác. Tên gọi của chúng thường là chó cứu thương, chó chữ thập đỏ, hay chó nhân hậu, và công việc của chúng thực sự bắt đầu ngay sau khi những người lính ngừng bắn và vấp ngă trên chiến trường.
Chúng mang vật dụng y tế trên lưng đủ để cho một thương binh tự điều trị. Khi phát hiện ai đó bị thương nặng, những con chó sẽ nhặt một mảnh đồng phục của anh ta và chạy về trại để báo động cho những người khác.
Oliver Hyde viết trong tác phẩm The Work of the Red Cross Dog on the Battlefield : "Đối với người thương binh đang tuyệt vọng, sự xuất hiện của chú chó Chữ thập đỏ luôn được coi là sứ giả của hy vọng".
"Đó là một đêm tối đen như mực với sương mù dày đặc," một bài tường thuật năm 1915 của German santiätshunde trên tờ New York Times. "Theo lệnh, 'Hăy săn những người bị thương!' những con chó lao vào rừng, chúng tôi theo sau chúng càng nhanh càng tốt… không lâu sau chúng tôi nghe thấy tiếng sủa… những con chó chạy lại đón chúng tôi và hướng dẫn chúng tôi cho đến khi chúng tôi bắt gặp một người lính tội nghiệp đang nằm rên rỉ trên mặt đất… Những con chó hoạt động suốt đêm dài, cho đến khi chúng tôi đă khám xét kỹ lưỡng chiến trường. Mười bốn người bị thương đă được t́m thấy trong khu rừng tối tăm bởi những con chó của chúng tôi".

Một bác sĩ phẫu thuật viết: "Đôi khi chúng dẫn chúng ta đến những cơ thể mà chúng ta nghĩ rằng không có sự sống, nhưng… chúng luôn t́m thấy một tia lửa cho những sinh linh đang khốn để đấu tranh để t́m sự sống", một bác sĩ phẫu thuật khác viết: "Đó là bản năng của chúng, chúng làm việc theo sức mạnh bản năng, hiệu quả hơn nhiều so với sức mạnh lư luận của con người".
Hay những lần khác, những con chó cứu thương đă quyết định nằm lại chiến trường để an úi cho những người sắp chết. Chúng nằm cạnh những người đàn ông bị tử thương để anh ta không phải ra đi trong sự cô đơn.
Trong chiến tranh, một số con chó đă trở nên khá nổi tiếng v́ những thành tích của ḿnh, tuy nhiên số đông chó cứu thương c̣n lại đều hoạt động ẩn danh và một lượng lớn trong số chúng đă phải chết v́ bom đạn. Vào thời điểm cuộc xung đột kết thúc, năm 1918, khoảng 7.000 con chó cứu thương đă phải bỏ mạng trên chiến trường.
Di sản lâu dài của những chú chó thời chiến
Khi thế kỷ 20 bắt đầu, con người thường xuyên sử dụng chó trong chiến tranh hơn. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, những con chó đă trở lại chiến trường với tư cách là chó chiến đấu, lính canh, người đưa tin và người do thám. Riêng Hoa Kỳ đă sử dụng khoảng 20.000 con chó trong Quân đội Hoa Kỳ, Cảnh sát biển và Thủy quân lục chiến.
Những chú chó cũng phục vụ trong các cuộc xung đột sau này. Trong các cuộc chiến tranh ở Iraq và Afghanistan, chó đă sử dụng khứu giác nhạy bén của ḿnh để xác định IED.
Kể từ Thế chiến thứ hai, chó cũng được sử dụng để mang lại sự thoải mái cho binh lính. Hội Chữ thập đỏ bắt đầu sử dụng chó trị liệu với những người lính dưỡng bệnh sau trận chiến vào những năm 1940. Ngày nay, chúng giúp những người lính điều trị hội chứng PTSD - Rối loạn stress sau sang chấn.
Theo cách đó, di sản của những chú chó cứu thương của Thế chiến I sẽ tiếp tục tồn tại.
Đối với một người đàn ông bị thương, sự hiện diện của chúng có nghĩa là sự giúp đỡ sẽ đến. Đối với một người sắp chết, bộ lông mềm mại, hơi thở nhẹ nhàng và trái tim đang đập của chúng có nghĩa là người đàn ông đó sẽ không phải chết một ḿnh.
Rốt cuộc, loài chó vẫn luôn là người bạn tốt nhất của con người.