Sau ngày định mệnh 30 Tháng Tư 1975, người Việt tị nạn cộng sản đă tản mác khắp bốn phương trời. Trên sách vở, báo chí, hồi kư, bút kư, trong các buổi phát thanh, truyền h́nh, đại nhạc hội, hội họp của các đoàn thể chính trị hoặc các tổ chức xă hội khác, cũng như trong những cuộc chuyện tṛ giữa bạn bè đồng đội xưa, người ta vẫn thường nhắc đến cái chết bi hùng của những vị tướng lănh, sĩ quan và chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Những cái chết ấy – cái chết v́ danh dự, v́ đất nước – xứng đáng được ghi nhận một cách trang trọng, cần được đưa vào sử sách để các thế hệ mai sau biết rằng cha ông họ đă chọn cái chết oanh liệt thay v́ sống nhục dưới ách giặc xâm lăng từ phương Bắc.
Với tinh thần đó, tôi xin ghi lại sự tuẫn tiết bi tráng của Trung Sĩ I Nguyễn Thoảng cùng vợ con, đă chọn cái chết vào ngày 29 Tháng Ba năm 1975 tại Đà Nẵng – chỉ một tháng trước khi miền Nam hoàn toàn sụp đổ.
Hồi ức những ngày cuối cùng ở mặt trận Quảng Nam – Đà Nẵng

Vào lúc 8 giờ sáng ngày 28/03/1975, tiểu đoàn của tôi được lệnh rút về tuyến pḥng thủ phía Tây Nam Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I, có nhiệm vụ bảo vệ Pháo đội 105 ly thuộc Sư Đoàn 3 Bộ Binh. Trên bản đồ, vị trí đó nằm dọc trục lộ 14C, từ quận Điện Bàn đi Đại Lộc, Thượng Đức – thuộc tỉnh Quảng Nam. Tiểu đoàn nhận trách nhiệm khu vực từ Tháp Bằng An đến Phong Thử (khoảng 2 km).
Khi chúng tôi đến nơi vào khoảng 10 giờ sáng, đă thấy một số khẩu pháo 105 ly bố trí sẵn tại các thửa ruộng khô, cách tỉnh lộ khoảng 50 mét. Sau khi liên lạc với vị pháo đội trưởng để phối hợp phương án pḥng thủ, tôi phân công vị trí cho từng đại đội, và đặt bộ chỉ huy tiểu đoàn gần pháo đội.
Đến khoảng 12 giờ trưa, vị Đại úy chỉ huy pháo đội thông báo rằng họ vừa nhận được lệnh rút lui. Tôi không thắc mắc, v́ pháo binh thường là lực lượng yểm trợ phía sau. Tuy nhiên, tôi vẫn ra lệnh cho Đại úy Quư – Trưởng ban 3 – liên lạc với Tiểu Khu để xác nhận xem đơn vị chúng tôi có cùng rút lui để bảo vệ pháo binh hay không.

Đến 2 giờ 30 chiều, Đại úy Quư báo lại rằng Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu đă di chuyển về khu vực Non Nước. Tôi bắt đầu thấy t́nh h́nh đáng lo ngại, v́ qua các băng tần liên lạc với các đơn vị trong vùng I mà chúng tôi có quyền truy cập, t́nh h́nh ngày một hỗn loạn.
Vào lúc 4 giờ chiều, tôi hoàn toàn mất liên lạc với Liên Đoàn 911 do Trung Tá Lê Văn Thành chỉ huy – đơn vị mà tiểu đoàn tôi trực thuộc. Các liên lạc với Tiểu Khu cũng không c̣n phản hồi. Tôi cố gọi về Trung Tâm Hành Quân của Quân Đoàn I cũng như của Sư Đoàn 3 Bộ Binh, nhưng tất cả các đường dây đều bận – có lẽ v́ khối lượng thông tin dồn dập từ các đơn vị đang rút lui hoặc giao tranh.
Tôi liền triệu tập các đại đội trưởng và sĩ quan tham mưu để báo cáo t́nh h́nh và thảo luận kế hoạch hành động. Không c̣n mệnh lệnh từ cấp trên, tôi buộc phải tự đưa ra quyết định: cho tiểu đoàn rút về Hội An, vừa để kiểm tra t́nh h́nh tại Tiểu Khu, vừa nhằm t́m một đường lui khả thi và tương đối an toàn về Đà Nẵng.
Trên đường rút lui: Gặp Trung tá Nguyễn Tối Lạc và Đại tá Vũ Ngọc Hướng
Khi đơn vị tôi vừa ra đến Quốc lộ 1, cảnh tượng trước mắt khiến tôi chết lặng. Dân và lính hỗn loạn, đổ về Đà Nẵng đông nghẹt – không khác ǵ một ḍng thác người đang hoảng loạn tháo chạy khỏi cơn đại họa.
Họ đang chạy giặc.
Trước t́nh h́nh đó, tôi lập tức ra lệnh cho tiểu đoàn dừng lại, tạm ẩn trong một ngôi làng cách quốc lộ chừng 100 mét. Tôi lo sợ nếu để lính tận mắt chứng kiến cảnh hỗn loạn này, họ có thể buông súng, bỏ hàng ngũ mà t́m đường về lo cho gia đ́nh.
Tôi một ḿnh tiến sát quốc lộ để quan sát t́nh h́nh th́ t́nh cờ gặp Trung tá Nguyễn Tối Lạc, Quận trưởng Đức Dục. Ông cho biết tất cả các chi khu của Quảng Nam đă rút hoặc tan ră, c̣n Bộ Chỉ huy Tiểu khu th́ đă di chuyển về Đà Nẵng và hiện không c̣n liên lạc được. Ông cũng báo rằng Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh, vừa chỉ thị ông trực thuộc Đại tá Vũ Ngọc Hướng – Trung đoàn trưởng Trung đoàn 2, Sư đoàn 3 BB. Đại tá Hướng lúc này đảm trách luôn việc chỉ huy các tiểu đoàn c̣n lại của Tiểu khu Quảng Nam.
Trung tá Lạc lúc đó chỉ c̣n lại một người lính mang máy truyền tin và một lính bảo vệ bên cạnh.
Khi chúng tôi đang trao đổi th́ một chiến xa M-48 từ phía trong tiến ra. Ngồi trên pháo tháp chính là Đại tá Vũ Ngọc Hướng.
Ông nhận ra tôi, cho xe dừng lại và gọi lớn:
– Tiểu đoàn của mày đâu mà đứng đây?
Tôi nhanh chóng đáp:
– Tiểu đoàn tôi đang trong làng gần đây, thưa Đại tá.
Tôi chỉ tay về phía làng rồi tiếp:
– Quân số c̣n nguyên, chưa đụng trận lớn, chỉ giao tranh lẻ tẻ với du kích. Đại tá chắc cũng biết rơ tiểu đoàn này rồi mà.
Ông gật đầu:
– Tao biết. Mày đă nhận lệnh của Thiếu tướng Hinh chưa?
– Tôi chưa nhận trực tiếp nhưng đă nghe Trung tá Lạc truyền đạt.
– Tốt. Giờ Bộ Chỉ huy Tiểu khu không c̣n ai. Từ bây giờ, mày trực thuộc Trung đoàn tao. Có tần số truyền tin chưa?
– Có đầy đủ trong đặc lệnh rồi, thưa Đại tá.
– Vậy nghe đây. Theo lệnh Thiếu tướng Hinh, mày đưa tiểu đoàn về Hội An pḥng thủ cùng Trung đoàn. Đến nơi, mày vào gặp tao tại Bộ chỉ huy Tiểu khu để nhận thêm chỉ thị.
Tôi chào Đại tá Hướng, trở về tŕnh bày t́nh h́nh và lệnh mới cho toàn bộ sĩ quan trong tiểu đoàn. Sau khi thảo luận, tôi nói với anh em:
– Chúng ta sẽ về Hội An như dự tính ban đầu. Trên phương diện quân sự, tiểu đoàn nay trực thuộc quyền chỉ huy của Đại tá Hướng. Nếu có chiến sự, ta sẽ phối hợp cùng lực lượng của Trung đoàn. Tại Hội An, chúng ta có những lợi điểm sau:
1. Về địa thế, chúng ta đă nắm rơ như ḷng bàn tay.
2. Có kho vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men của Trung tâm Tiếp vận Quảng Nam – thuộc Tiểu khu – có thể sử dụng nếu chiến đấu kéo dài.
3. Nếu có thương vong, tại Hội An có bệnh viện, bác sĩ Trung đoàn 2 và y tá – đủ khả năng cứu chữa.
4. Đường liên tỉnh 13C từ Đà Nẵng đi Hội An vẫn c̣n thông suốt, có thể dùng làm đường rút lui nếu cần.

Tôi kết luận:
– Nếu t́nh huống trở nên tuyệt vọng như ở Huế hay Vùng II, tôi sẽ vào tŕnh diện Bộ Tư lệnh Quân đoàn. Với tiểu đoàn c̣n nguyên vẹn như hiện nay, tôi tin chắc Quân đoàn sẽ không bỏ rơi chúng ta – sẽ tạo điều kiện để đưa đơn vị vào Sài G̣n, tiếp tục chiến đấu. Nếu t́nh thế nguy cấp hơn nữa, ta có thể dùng quân số áp đảo để yêu cầu Hải quân hỗ trợ vận chuyển vào Nam. Chúng ta c̣n người, c̣n súng, c̣n tinh thần – th́ chưa thể đầu hàng!
Trên đường rút lui về Hội An – Một đêm đầy thử thách
Lúc này đă 6 giờ chiều. Mặc dù ánh nắng mặt trời vẫn c̣n, nhưng do dân chúng và binh sĩ từ các đơn vị khác đổ dồn về Đà Nẵng quá đông, việc di chuyển cả một đơn vị lớn như Tiểu đoàn trở nên vô cùng khó khăn và dễ gây thất lạc. Tôi ra lệnh cho các Đại đội trưởng và Trung đội trưởng phải bám sát binh sĩ của ḿnh, tuyệt đối không để thất lạc người. Nếu có ai bị lạc, họ phải đến điểm tập trung đă được ấn định: Ty Công chánh Hội An – không vào Tiểu khu. Tôi căn dặn thật kỹ các đại đội phải đếm quân kỹ lưỡng, từng người một, để nắm chắc quân số và điểm tập họp.
Đến 6 giờ 30, Tiểu đoàn bắt đầu di chuyển hướng về Hội An. Trên đường đi, chúng tôi gặp từng đoàn quân lính ră ngũ từ Sư đoàn 2 Bộ binh, các đơn vị thuộc Tiểu khu Quảng Ngăi và Quảng Tín – họ đổ về như kiến cỏ, mất hết chỉ huy, vô kỷ luật, vô trật tự. Chỉ cần một hành động vô ư, một lời nói không đúng lúc, họ có thể rút súng bắn ngay – v́ họ đang trong trạng thái tinh thần hoảng loạn.
Tôi và Tiểu đoàn đến được Hội An lúc 11 giờ đêm. Tại điểm tập trung Ty Công chánh, hai đại đội đầu tiên đă có mặt đầy đủ. Tôi lập tức ra lệnh tổ chức pḥng thủ và chờ các đơn vị c̣n lại đến sau. Sau đó, tôi vào gặp Đại tá Vũ Ngọc Hướng tại Bộ Chỉ huy Tiểu khu để nhận chỉ thị.

Đúng nửa đêm, toàn bộ Tiểu đoàn đă có mặt. Đại úy Quư – Trưởng Ban 3 – báo cáo: tổng quân số hiện diện là 470 người. Sĩ quan có đủ mặt. Ngoài ra, có 20 thường dân – là thân nhân của binh sĩ trong Tiểu đoàn – đi theo. Họ vốn sống ở Điện Bàn, khi biết Tiểu đoàn quay về khu vực này, đă t́m đến với hy vọng nếu có cơ hội vào Sài G̣n th́ sẽ được đi cùng đơn vị.
Ngoài ra c̣n có 50 quân nhân thuộc các đơn vị khác của Tiểu khu Quảng Nam bị thất lạc và xin gia nhập tạm thời để cùng rút lui. Tôi đồng ư với điều kiện: họ phải tuyệt đối tuân thủ mệnh lệnh của sĩ quan Tiểu đoàn. Nếu có hành vi bất tuân, đặc biệt trong lúc đụng trận, tôi sẽ cho phép bắn tại chỗ. Tất cả đều đồng ư và tôi phân phối họ về các đại đội tác chiến ngay trong đêm.
Riêng 20 thường dân – trong số này có nhiều người tôi từng quen biết – tôi giao trách nhiệm bảo vệ cho Trung sĩ I Nguyễn Thoảng, Hạ sĩ quan Ban 5 của Tiểu đoàn (Trung úy Trưởng Ban 5 lúc này vắng mặt). Tôi đích thân giới thiệu ông Thoảng với bà con và dặn ḍ:
– Bà con là thân nhân của binh sĩ trong Tiểu đoàn, th́ cũng như lính của tôi. Tôi có trách nhiệm bảo vệ bà con như bảo vệ lính tôi vậy. Nếu có đụng trận, phải tuyệt đối nghe lệnh Trung sĩ I Thoảng để được an toàn. Đừng chạy lộn xộn mà thiệt mạng oan uổng. Tiểu đoàn đến đâu, tôi mang bà con theo đến đó.
Nghe tôi nói vậy, mọi người tỏ ra yên tâm và rất cảm kích.
Thành phố Hội An lúc này hoang vắng đến rợn người – gần như toàn bộ dân cư đă di tản ra Đà Nẵng. Sau khi tổ chức xong điểm tập trung, Tiểu đoàn di chuyển đến vị trí pḥng thủ mới theo lệnh của Đại tá Hướng – đó là khu vực phía Bắc Hội An, hướng đi Đà Nẵng. Trước khi rời đi, tôi c̣n để lại một tiểu đội cùng một máy truyền tin, do một Trung sĩ Ban 2 chỉ huy, để đón tiếp và hướng dẫn những người đến trễ.
Tô cháo bồ câu – ly cà phê sữa trong đêm nguy biến
Tại vị trí pḥng thủ mới, sau những giờ căng thẳng cao độ, tôi gần như kiệt sức. Vừa ngồi xuống ghế nghỉ, chưa kịp nghĩ ǵ nhiều th́ Hạ sĩ I Minh – một lính cận vệ trẻ – bước đến, tay bưng một tô cháo nóng và ly cà phê sữa bốc khói:
– Mấy ngày nay Thiếu tá ít ăn, ít ngủ, chỉ uống nước, lo nghĩ nhiều, em thấy Thiếu tá gầy đi rơ rệt. Thiếu tá ăn tô cháo bồ câu này với ly cà phê cho lại sức mà c̣n đánh giặc nữa chứ.
Tôi định từ chối, bảo cậu dẹp đi – v́ đầu óc c̣n đang lo lắng với t́nh h́nh chiến sự. Nhưng thấy cậu lính trẻ thật t́nh lo cho tôi, giọng nói đầy chân thành và thương mến, tôi không nỡ từ chối. Tôi hỏi:
– Mấy ông kia có ăn chưa? Mà bồ câu ở đâu ra vậy?
– Dạ thưa Thiếu tá, hồi năy tụi em thấy chuồng bồ câu ở Ty Công chánh, chắc của ông Trưởng ty cũ bỏ lại. Em bắt bốn con, biết chắc Đại bàng sẽ rầy, nhưng giờ này có no mới đủ sức giết Việt cộng chứ, Đại bàng!
Tôi mỉm cười, khẽ gật đầu:
– Thôi được, để đó... mà nhớ đừng giăng vơng nghỉ trước tôi nữa nghe!
Rạng sáng ngày 29/3/1975 – Quyết định rút lui về Đà Nẵng
Từ sáng đến lúc này, tôi chỉ uống nước, ngoài một tô ḿ gói có đập hai quả trứng gà do Hạ sĩ I Minh nấu giúp. Bụng đói cồn cào, tôi vừa húp mấy muỗng cháo, uống vài ngụm cà phê th́ bất ngờ nghe tiếng trực thăng từ xa vọng đến. Ngẩng lên, tôi thấy hai chiếc bay vào từ hướng Quân đoàn I, độ cao khá lớn.
Tôi lập tức bảo Trung úy B́nh – sĩ quan truyền tin – mở máy ḍ tần số Quân đoàn để liên lạc. Nhưng hoàn toàn vô vọng. B́nh đă thử hết các tần số trong đặc lệnh truyền tin, liên lạc nhiều đầu mối có thể có mặt trên các chuyến bay, nhưng đều không có phản hồi. Tôi đoán chắc đây là máy bay của Quân đoàn, nhưng không rơ mang theo ai hay thuộc đơn vị nào.
Trong ḷng tôi tràn đầy thất vọng.
Tôi ra lệnh cho Đại úy Quư – Trưởng Ban 3 – gọi toàn bộ Đại đội trưởng về họp. Đồng thời, tôi cho lệnh thu hồi Tiểu đội đang giữ chốt tại Ty Công chánh trở về Tiểu đoàn. Tôi c̣n phái Đại úy Hà Thúc Thuyên cùng một máy truyền tin và vài binh sĩ hộ tống đến Bộ chỉ huy Tiểu khu để t́m hiểu xem t́nh h́nh Đại tá Hướng thế nào, v́ suốt đêm không thể liên lạc được.
Lúc đó là 2 giờ sáng ngày 29/3/1975.
Một lúc sau, Đại úy Thuyên trở về, báo cáo: Trung đoàn 2 đă âm thầm rút ra hướng biển để t́m đường về Đà Nẵng. Tiểu đội tại Ty Công chánh cũng đă trở về, mang theo 9 binh sĩ đi lạc. Tôi cho họ nhập lại đúng đơn vị gốc. Tổng quân số lúc này là 479 quân nhân Tiểu đoàn, chưa kể 50 binh sĩ các đơn vị khác đi theo.
Sau cuộc họp tham mưu ngắn cùng các Đại đội trưởng, toàn thể đều đồng ư rút lui về Đà Nẵng, vào tŕnh diện Quân đoàn I. Tôi đồng t́nh và tŕnh bày kế hoạch cụ thể:
– Giờ hăy c̣n sớm, chưa đến 3 giờ. Nếu đến Chùa Non Nước quá sớm, trời chưa sáng, đơn vị pḥng thủ Quân đoàn ở đó không nhận diện được ta, dễ xảy ra nhầm lẫn dẫn đến nổ súng oan. Tôi quyết định: 4 giờ sáng, Tiểu đoàn xuất phát theo đội h́nh sau:
– Đại đội 1 đi đầu;
– Đại đội 3 bên trái lộ;
– Đại đội 4 bên phải, có Đại úy Thuyên đi cùng để tiện liên lạc nếu gặp Trung đoàn 2;
– Đại đội 2 đi sau cùng;
– Bộ chỉ huy Tiểu đoàn ở giữa;
– Gia đ́nh thân nhân theo sát sau bộ chỉ huy.
– Trong trường hợp đụng địch, các đại đội phải yểm trợ cho nhau, phối hợp đưa toàn đơn vị về Đà Nẵng an toàn.
Không ai có ư kiến ǵ khác. Tôi cho lệnh các đơn vị lui về chuẩn bị hành quân.
Gặp trở ngại tại Non Nước – Những điều lệnh nghịch lư
Đúng 4 giờ sáng ngày 29/3/1975, Tiểu đoàn bắt đầu di chuyển theo đội h́nh đă định. Trên đường tiến quân, chúng tôi không gặp kháng cự đáng kể, chỉ vài loạt súng bắn tỉa lẻ tẻ từ các toán du kích. Các đại đội phản ứng nhanh, dứt điểm và vẫn tiếp tục tiến.
Đến gần 9 giờ sáng, Trung úy Thành – chỉ huy Đại đội 1 – báo đă đến được khu vực Non Nước, tiếp xúc được với đơn vị bạn. Ông cho biết đă gặp một Đại úy Thủy quân Lục chiến ngồi trên chiến xa, người này thông báo:
– Có lệnh: không một quân nhân nào được mang súng vào Đà Nẵng. Muốn vào, phải bỏ vũ khí tại đây.
Tôi nghe mà sửng sốt.
– Lính mà không có súng th́ đánh giặc bằng ǵ? Ôm địch mà cắn à?
Dù vậy, tôi vẫn b́nh tĩnh ra lệnh cho Trung úy Thành cho binh sĩ dừng lại, cấm mọi phản ứng. Tôi yêu cầu Đại úy Quư điều động các đại đội thu hẹp đội h́nh, bố trí sát Tiểu đoàn, chờ lệnh. Đồng thời, gọi Đại úy Thuyên đến để cùng tôi lên tiếp xúc đơn vị bạn.
Trên đường đến gặp Đại úy Thủy quân Lục chiến, tôi thầm nghĩ: t́nh h́nh an ninh Đà Nẵng lúc này hẳn đă cực kỳ hỗn loạn. Có lẽ đă có VC cải trang lính ta, xâm nhập nội thành, nên phía Thủy quân mới nhận được lệnh quái gở như vậy.

Tôi gặp vị Đại úy TQLC và tŕnh bày t́nh huống, yêu cầu được cho Tiểu đoàn vào Đà Nẵng với đầy đủ vũ khí. Ban đầu ông ta rất cứng rắn, nói đó là mệnh lệnh từ cấp trên, ông không thể trái lệnh.
Tôi không nổi giận. Tôi nói t́nh, nói lư, gần như van nài. Cuối cùng, ông ta cũng mủi ḷng, hứa sẽ báo cáo lại cấp chỉ huy.
Tôi t́m hiểu th́ biết Thiếu tá Định là cấp trên trực tiếp của ông ta. May mắn thay, tôi và Thiếu tá Định từng học chung một khóa Bộ binh cao cấp năm 1973, lại cùng quê Huế, từng ngủ chung pḥng. Chúng tôi khá thân thiết.
Tôi nói với vị Đại úy Thủy quân Lục chiến rằng tôi là bạn thân với Thiếu tá Định – Tiểu đoàn trưởng đơn vị ông. Người Đại úy xác nhận điều đó, rồi liên lạc và trao máy cho tôi. Trong cuộc tṛ chuyện ngắn, Thiếu tá Định thông báo cho tôi một sự thật cay đắng: Quân đoàn I đă rút lui hết, toàn bộ bỏ ngỏ. Ngay cả đơn vị Thủy quân Lục chiến cũng đang phải tự lo liệu t́m đường về Sài G̣n, không có chỉ thị, không phương tiện, không ai c̣n chỉ huy nữa. Hải quân ở Tiên Sa cũng đă nhổ neo.
Tôi lặng người. Đưa trả máy, tôi chỉ biết cảm ơn trong lặng lẽ.
Lúc này là 9 giờ 30 sáng ngày 29/3/1975, tại khu vực Chùa Non Nước. Tôi ra lệnh triệu tập toàn thể sĩ quan Tiểu đoàn. Vị Đại úy TQLC cho biết chúng tôi được phép vào Đà Nẵng. Tôi không c̣n ǵ để nói, chỉ nhẹ nhàng gật đầu thay lời cảm ơn. Chiếc chiến xa rồ máy, quay đầu rút lui về hướng Đà Nẵng, theo sau là những binh sĩ Thủy quân Lục chiến cuối cùng của mặt trận này.
Tôi tŕnh bày với các sĩ quan những điều vừa biết từ Thiếu tá Định – rằng không c̣n phương tiện nào để vào Nam, không c̣n hệ thống chỉ huy, không c̣n bất cứ nơi đâu có thể nương nhờ. Tôi nói, giọng chậm và nghẹn:
– Tôi đă cùng các anh em chiến đấu suốt bao tháng ngày, nhất là từ sau Tết đến nay. T́nh h́nh chiến sự khốc liệt, tôi đă đoán trước phần nào, nhưng vẫn cố đưa Tiểu đoàn về đây với hy vọng vào được Sài G̣n để tiếp tục chiến đấu. Giờ đây, mọi thứ vượt ngoài tầm tay chúng ta. Tôi đau đớn và bất lực.
Tôi chỉ đạo: không nên tập trung binh sĩ quá đông để tránh đụng độ bất ngờ. Các sĩ quan chia từng trung đội, giải thích rơ ràng, an ủi họ. Ai muốn về gia đ́nh th́ tùy ư, vũ khí nên tự phá hủy, đừng để lọt vào tay Việt cộng. Từ giây phút này, quyền chỉ huy không c̣n tập trung nữa – mỗi người, mỗi đơn vị, tự lo cho ḿnh.
Tôi ngồi xuống, lặng im như một cái xác không hồn, dựa vào trụ cổng một ngôi nhà bên đường, nh́n thuộc cấp rơi vào cơn rối loạn tinh thần. Các sĩ quan đến bên tôi, chia sẻ, bàn bạc, nhưng ḷng tôi như đă trôi dạt về một vùng tăm tối không lối ra.
Lời từ biệt cuối cùng của một người lính
10 giờ 30 sáng. Trung đội T́nh báo của Ban 2 vẫn đứng quanh tôi bảo vệ. Lúc ấy, Trung sĩ I Nguyễn Thoảng bước đến, đứng nghiêm, giơ tay chào trịnh trọng:
– Chắc em không vào Sài G̣n đâu, Thiếu tá. Cả Quân đoàn chưa nổ một trận nào mà đă bỏ đi cả, em thấy buồn chán lắm rồi. Em chúc Thiếu tá may mắn, cố gắng vào cho được Sài G̣n.
Tôi không đứng dậy, cũng không chào lại. Ḷng trống rỗng. Tôi đáp khẽ:
– Tao cũng không biết phải làm ǵ nữa. Tao cố gắng đưa đơn vị về tới đây, mong một cơ hội cho tất cả. Nhưng bây giờ... thế này đây, vượt ngoài khả năng của tao mất rồi.
Vợ của Trung sĩ Thoảng cũng bước đến, hai con nhỏ – một đứa 6 tuổi, một đứa 4 tuổi – lẽo đẽo theo sau. Chị nói:
– Em chúc Thiếu tá lên đường b́nh an, vào được Sài G̣n. Việt cộng mà gặp Thiếu tá chắc không tha đâu.
Tôi xoa đầu hai đứa nhỏ, gượng cười, nói với chị:
– Tôi cũng không chắc có đi nổi không. Thoảng th́ chắc không sao, nó cấp bậc nhỏ mà, chiến tranh chính trị ăn thua ǵ. Cố gắng lo cho hai đứa nhỏ.
– Cảm ơn Thiếu tá. Chúc Thiếu tá thượng lộ b́nh an.
Thoảng bước tới, chào tôi lần nữa. Lần này, tôi đứng dậy, bắt tay anh:
– Thôi... mày về đi. Tùy t́nh h́nh địa phương mà sống. Chắc cũng không sao đâu.
Anh rời đi, chào từng sĩ quan – Đại úy Thuyên (Tiểu đoàn phó), Đại úy Nhựt (Ban 2), Đại úy Quư (Ban 3) – rồi lặng lẽ biến mất.

Tiếng nổ sau cùng và lần khóc duy nhất
Tôi lại ngồi xuống. Đầu óc mụ mị. Bỗng một tiếng nổ lớn vang lên phía sau nhà.
– Minh! Mày ra coi coi chuyện ǵ?

Minh và hai lính khác lao đi. Năm phút sau, Minh quay lại, mặt tái xanh:
– Thiếu tá ơi... Ông Trung sĩ I Thoảng tự sát bằng lựu đạn cùng vợ con rồi!
Tôi đứng bật dậy. Lồng ngực như bị bóp nghẹt. Bao nhiêu năm chinh chiến, từng đứng trước cái chết, từng chứng kiến máu đổ, đầu rơi, tiếng rên la tuyệt vọng – tôi vẫn không khóc. Nhưng hôm nay, lần đầu tiên, tôi bật khóc. Tiếng khóc nghẹn ngào, vỡ ̣a giữa đám đổ nát niềm tin và lư tưởng.

Tôi đi đến căn nhà nơi xảy ra vụ nổ – một căn nhà tôn nhỏ. Cảnh tượng trước mắt khiến tim tôi như ngừng đập: bốn thi thể tan nát, máu, thịt, mền gối vương văi khắp nơi.
Tôi đứng nghiêm, giơ tay chào lần cuối. Một phút mặc niệm không lời, cho một thuộc cấp – mà giờ đây tôi gọi bằng “Ông”.
Một người lính th́ thầm:
– Thiếu tá... ông Thoảng và vợ ông là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng đó.
Đồng hồ lúc này điểm 11 giờ sáng. Ngày 29 tháng 3 năm 1975.

Một Trung sĩ I – cấp bậc quá nhỏ so với tôi. Một người mà tôi từng gọi là “thằng Thoảng”, v́ thân mật, v́ tuổi đời, v́ quân phong. Một người tôi từng rầy la, quở mắng. Thế mà hôm nay, trong tận cùng đau thương, tôi cúi đầu gọi anh là Ông Thoảng – một người lính, một con người dám chọn cái chết để giữ tṛn tiết tháo, không sống nhục dưới gót giày cộng sản.
Xin nghiêng ḿnh tôn vinh một Anh hùng vô danh – người lính Trung sĩ I Nguyễn Thoảng – Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Trích từ nguồn Trương Quang Chung - Khóa 11 Thủ Đức, sửa bởi Gibbs VIETBF