Khi thi thể Yasuko Watanabe được phát hiện trong căn hộ bỏ không, cuộc sống "sáng làm văn pḥng, tối đi bán dâm" của cô bại lộ.
Yasuko Watanabe sinh năm 1957 trong gia đ́nh khá giả ở Tokyo, theo học chuyên ngành kinh tế tại Đại học Keio danh tiếng.
Năm 1980, Yasuko trở thành một trong 9 phụ nữ được Công ty Điện lực Tokyo (TEPCO) tuyển dụng. Cô không thích công việc này v́ tất cả nhân viên nữ phải mặc đồng phục, c̣n nam giới th́ không. Cô cũng ghét phải pha trà cho các đồng nghiệp và sếp nam - điều mà nhân viên nữ ở Nhật Bản, dù thành công đến đâu, thường được yêu cầu. Tuy nhiên, Yasuko cố gắng chịu đựng v́ thu nhập đủ lo cho người mẹ góa bụa.
Lối sống kỳ lạ của người phụ nữ thành đạt
Sự suy sụp của Yasuko dường như bắt nguồn từ nỗi ghen tị khi một đối thủ nữ được chọn tham gia chương tŕnh tại Đại học Harvard, theo Shinichi Sano - nhà báo kiêm tác giả được kính trọng. Cuốn sách của Sano về vụ án mạng, Tokyo Electric Power Co. Office Lady Murder Case, từng nằm trong danh sách bán chạy năm 2000.
Vài năm sau, khi công ty tạm thời chuyển Yasuko sang làm việc cho một viện nghiên cứu chính sách được chính phủ tài trợ, cô coi đó là bị giáng chức. Yasuko muốn một chức vụ danh giá hơn ở Bộ Ngoại giao hoặc Bộ Thương mại và Công nghiệp Quốc tế, Sano viết. Dẫu vậy, một bài báo về những thay đổi trong cơ cấu kinh tế hộ gia đ́nh đă giúp cô được hoan nghênh trong viện.
Là nhà nghiên cứu kinh tế cấp cao đầy triển vọng, kiếm được gần 100.000 USD một năm nhưng Yasuko vẫn làm thêm vào ban đêm ở một quán bar có tiếp viên, nơi đàn ông trả giá cao để phụ nữ tán tỉnh và rót đồ uống cho họ.
Năm 1989, Yasuko trở thành gái mại dâm. Cứ 17h mỗi ngày, cô lại đi tàu điện ngầm từ nơi làm việc đến khu Shibuya ở Tokyo, kiếm khoảng 250 USD tại một công ty môi giới cao cấp, sau khi trừ chi phí th́ nhận được 150 USD.
Khi đó Yasuko đă 32 tuổi, không thể đ̣i giá cao hơn. Theo lời kể của một người đàn ông thường xuyên lui tới nhà cô trong hai năm, Yasuko thường diễn thuyết về nền kinh tế và nhu cầu năng lượng của Nhật Bản, rồi uống 3 lon bia trước khi hoàn tất giao dịch. Yasuko kể với anh ta rằng tự hào được làm việc tại Công ty Điện lực Tokyo, nhưng cũng tâm sự rằng đă bị đẩy vào con đường mại dâm sau khi bị một đồng nghiệp có gia đ́nh bỏ rơi.
Yasuko dấn thân vào con đường mại dâm thấp kém nhất. Ngay cả trong cơn mưa tầm tă và cái lạnh thấu xương, cô vẫn đều đặn lái xe đi để hoàn thành chỉ tiêu "bốn khách mỗi đêm" do chính ḿnh đặt ra. Cô sẵn sàng đứng trên phố chào mời bất kỳ ai với giá chỉ 20 USD - ngay cả lao động nước ngoài, những người bị coi là công dân hạng hai ở Nhật Bản.
Thi thể trong căn pḥng bỏ không
Ngày 19/3/1997, thi thể Yasuko được t́m thấy trong một căn hộ bỏ trống. Cô bị siết cổ đến chết. Mẹ Yasuko tŕnh báo con gái mất tích vào 10 ngày trước đó.
Tại hiện trường, cảnh sát phát hiện 28 bao cao su, bốn chiếc cho mỗi ngày trong tuần, được nhét gọn trong ví tiền của cô.
Cảnh sát c̣n t́m thấy ghi chép chi tiết của Yasuko về những người đàn ông từng quan hệ t́nh dục, ít nhất 88 người, bao gồm ngày tháng, thời gian và chi phí.

Khu nhà nơi có căn hộ phát hiện thi thể của Yasuko Watanabe tại Shibuya, Tokyo. Ảnh: Nantonaku
Một trong những người đàn ông có tên trong danh sách là một người nhập cư bất hợp pháp từ Nepal tên Govinda Prasad Mainali, sống ngay gần hiện trường. Mainali đă tự nguyện ra tŕnh diện để xóa bỏ nghi ngờ, dù biết điều đó có thể đồng nghĩa với việc bị trục xuất.
Mainali đă có vợ và hai con gái, đến Nhật Bản vào năm 1994 bằng thị thực du lịch ba tháng. Mục tiêu là học tiếng Nhật để có thể làm hướng dẫn viên du lịch với mức lương tương đối cao khi trở về nước.
Giống như hàng ngh́n người nước ngoài khác đến Nhật Bản để t́m kiếm mức lương cao hơn, Mainali ở lại quá hạn thị thực. Công việc bồi bàn tại một nhà hàng Ấn Độ ở Tokyo giúp anh ta có thể gửi tiền về cho vợ và xây nhà ở Katmandu, thủ đô Nepal.
Mainali sống cùng 4 người đàn ông Nepal khác trong một căn hộ gần góc phố quen thuộc của Yasuko.
Bằng chứng mong manh
Cảnh sát xác định một chiếc bao cao su được t́m thấy trong nhà vệ sinh có chứa tinh trùng của Mainali. Vấn đề gây tranh căi là cảnh sát ước tính cô bị giết vào ngày 8/3, nhưng Mainali khẳng định lần cuối quan hệ t́nh dục với cô là vào cuối tháng 2.
Cảnh sát bắt giữ Mainali, buộc tội làm việc bất hợp pháp nhưng tập trung thẩm vấn về vụ giết người. Động cơ bị cáo buộc là cướp.
Ban đầu Mainali phủ nhận quen biết Yasuko, khiến cảnh sát càng thêm nghi ngờ. Cuối cùng, anh ta thừa nhận đă quan hệ t́nh dục với cô ba lần.
Luật sư của Mainali khẳng định hai cảnh sát đă tra hỏi Mainali từ sáng đến tối trong nhiều tuần và thường xuyên đá, đấm và giật tóc để ép anh ta nhận tội. Mainali từ chối nhận tội, và gần hai tháng sau, vào ngày ṭa án tuyên anh ta có tội về vấn đề thị thực, cảnh sát chính thức bắt Mainali v́ tội giết người thay v́ trục xuất anh ta.
Nhưng bằng chứng của họ quá mong manh. Một khách hàng khác, người đă quan hệ t́nh dục với Yasuko vào buổi tối mà cảnh sát tin rằng cô bị giết, cho biết anh ta đă trả cho cô khoảng 400 USD. Số tiền này được cho là đă biến mất khi cảnh sát t́m thấy thi thể Yasuko trong căn hộ có cửa mở toang.
Cảnh sát thẩm vấn một bạn cùng pḥng người Nepal của Mainali, cũng đang ở Nhật Bản bất hợp pháp. Người này khai rằng Mainali đă trả 1.500 USD tiền nợ vào thời điểm xảy ra vụ giết người, nhiều hơn khoảng 400 USD so với số tiền Mainali có thể có, theo các công tố viên. Luật sư của Mainali khẳng định rằng người bạn cùng pḥng đă khai gian dối dưới áp lực của cảnh sát. Sau đó, người này bị trục xuất về Nepal.
Ngày 14/4/2000, Ṭa án quận Tokyo ra phán quyết Mainali vô tội. Tuy nhiên, chính quyền từ chối thả anh ta ra khỏi tù trong khi các công tố viên kháng cáo, điều mà luật sư của Mainali cho rằng chưa từng xảy ra với người Nhật.
Ngồi tù oan 15 năm
Không có bằng chứng mới và không có lời giải thích nào ngoài lời khẳng định tội lỗi của Mainali, Ṭa án cấp cao Tokyo đă lật ngược phán quyết và tuyên Mainali tù chung thân trong phiên phúc thẩm vào ngày 22/12/2000.
Mainali nói "Tôi vô tội. Tôi không làm ǵ sai cả" khi bị biệt giam.
Các luật sư của Mainali cho biết ṭa phúc thẩm đă từ chối chấp nhận các xét nghiệm cho thấy dấu vết tinh trùng của Mainali đă cũ, điều mà các luật sư đưa ra để củng cố kết luận của ṭa sơ thẩm. Một sợi lông của Mainali được t́m thấy gần thi thể được chấp nhận làm bằng chứng, nhưng một sợi lông thuộc về người khác th́ không. Lời khai của các nhân chứng về việc nh́n thấy một số bao cao su đă qua sử dụng bên ngoài cửa sổ căn hộ cũng không được chấp nhận.
Người nước ngoài làm việc bất hợp pháp tại Nhật Bản có rất ít quyền lợi trước ṭa án. T́nh h́nh c̣n tệ hơn đối với những người đến từ các nước đang phát triển. "Cơ quan quản lư xuất nhập cảnh có 100% quyền quyết định số phận của họ", Katsuhiko Tsukuda, luật sư của Mainali, nói.
Cảnh sát không có phiên dịch viên cho nhiều ngôn ngữ. Mainali được cung cấp một phiên dịch viên người Ấn Độ - người này nói tiếng Hindi, không phải tiếng Nepal.
Các quan chức Nepal tham dự phiên ṭa xét xử và đến thăm Mainali trong tù, nhưng không lên tiếng về phán quyết.
Một số người Nhật Bản đă thành lập nhóm hỗ trợ Mainali, thường xuyên đến thăm và trợ giúp tiền vé máy bay khứ hồi cho người thân từ Nepal đến thăm.
Năm 2005, Mainali yêu cầu hệ thống tư pháp Nhật Bản xét xử lại vụ án, nhưng chỉ được chấp thuận vào năm 2012. Một xét nghiệm ADN vào tháng 7/2011 đă chứng minh rằng một số mẫu tinh dịch, máu và nước bọt được t́m thấy trên cơ thể Yasuko không thuộc về Mainali.
Bản án của Mainali được hủy bỏ vào tháng 6/2012. Ṭa án cấp cao Tokyo tuyên bố Mainali vô tội vào tháng 11/2012, thay v́ nhận được lời xin lỗi, Mainali bị trục xuất về Nepal v́ quá hạn thị thực.
"Tôi đă bị buộc phải trải qua 15 năm tù giam khủng khiếp và đau đớn dù vô tội. Nếu không tiến hành xét nghiệm ADN, tôi có lẽ phải chết trong tù", Mainali nói sau phiên ṭa.
Năm 2013, Mainali được trao 68 triệu yên tiền bồi thường cho việc bị giam giữ oan trong 15 năm.
Truyền thông địa phương cho biết bản án của Mainali đặt câu hỏi không chỉ về hệ thống tư pháp Nhật Bản mà c̣n về công việc của các công tố viên, những người đóng vai tṛ hàng đầu trong các cuộc điều tra tội phạm.
Vụ án thu hút sự chú ư của Nhật Bản v́ những t́nh tiết nhạy cảm. Câu chuyện đời tư của Yasuko gây tranh căi về lư do cô tham gia hoạt động mại dâm. Một số phụ nữ cho biết, cũng như Yasuko, tiền bạc không phải là lư do khiến họ bán thân. Họ khao khát một điều ǵ đó khác, khó diễn tả.
Một số nhà quan sát cho rằng phụ nữ độc thân có sự nghiệp gặp nhiều khó khăn ở Nhật Bản v́ họ không ḥa nhập với môi trường công việc vốn chủ yếu là nam giới, đồng thời cũng không phù hợp với xă hội truyền thống kỳ vọng phụ nữ phải kết hôn, sinh con và rời bỏ lực lượng lao động.