
Cha bỏ mẹ con tôi vào một chiều mưa. Tháng ba mưa dầm dai dẳng và bầu trời u ám suốt. Mẹ tôi đớn đau, bà vật vã và khóc ròng rã nhiều ngày sau đó. Về sau tôi không còn gặp mẹ ngồi lặng lẽ một mình, lấy dải khăn chấm nước mắt nữa. Mẹ tôi chỉ lầm lũi làm lụng với đôi mắt sũng nước rất buồn, khuôn mặt mẹ méo mó nhão nhoẹt ảm đạm.
Ngày trẻ cha tôi đã làm thơ, bản thảo của ông cả đống. Thỉnh thoảng cha tiện tay viết vài ba câu hoặc một bài thơ tình rất dài kiểu như dành tặng ai đó vào tờ giấy nháp của tôi. Vài lần vừa giải toán tôi chạm vào đọc được. Thơ của cha nhạt thèo thèo, mộng mơ và chẳng có gì gọi là điểm nhấn. Tôi cứ có cảm giác những bài thơ cha tôi viết, nó cũng sẽ nhàn nhạt tanh tanh giống như món cá đồng mẹ tôi nấu không rõ vị.
Cha tôi theo người đàn bà hàng xén bên kia sông. Bà ta có khuôn mặt bánh đúc đổ dồn, nhìn lâu thấy nó cứ dày lên, dày lên và nói khí không phải nếu chỉ cần cơi thêm mỗi góc ra tý chút thì người ta sẽ gọi là mâm bánh đúc.
Là con gái nhưng tôi đủ việc, chăn trâu, cắt cỏ. Tan học là theo đuôi trâu rong ruổi khắp cánh đồng, thương mẹ, mười lăm tuổi tôi vừa tập cày bừa vừa cấy rồi đến mùa gieo mạ lại làm ruộng mõ mạ thay cha.
Từ ngày cha đi, những đêm lạnh trời đầy sao và trăng trong leo lẻo, tôii vẫn nghe tiếng mẹ trở mình rồi thở dài, tiếng thở dài của mẹ buồn bã, dài vô tận và chạy dọc thời trẻ của bà trong những đêm thâu. Hình như những người đàn bà không chồng, đêm thường rất dài thì phải.
Cả bốn anh em tôi lớn lên đều lẳng lặng không đứa nào nhắc đến cha mình. Tôi thường gặp bóng dáng cha và ấm ức với ông trong những chiều mõ mạ hoặc bừa ruộng chân rạ. Thân cây lúa bị xén ngang nửa tươi nửa héo đâm vào bắp vế tôi ran rát đớn đau.
Tôi sợ những ngày mùa giáp hạt tháng ba ngày tám, mẹ tôi bạc mặt lo cho lũ chúng tôi bữa cơm bữa cháo. Mẹ tôi đẹp, bà người làng Lâm động, trước kia mẹ chỉ biết ruộng dâu và nong tằm. Mẹ lấy cha, bao nhiêu vất vả lo toan ập xuống đôi bờ vai gầy gò mảnh mai của mẹ. Nhà dột, cơm áo, đàn con lít nhít lau nhau khi cha tôi bỏ đi. Mọi lo âu và đau khổ đã cướp trọn thanh xuân của mẹ. Thời gian và lo toan gánh vác đã dập vùi mẹ khiến mẹ u buồn và gầy guộc thảm thương.
Tôi ghét đọc thơ, tôi không thích những câu thơ tình nhạt thèo như nước ốc. Tôi tưởng tưởng ra những người viết ra các vần thơ ấy, rồi họ cũng lại giống cha mình, rất dễ dàng rũ bỏ những đứa con, rũ bỏ tình phu thê để đi theo một người đàn bà dư tiền bạc và sinh lực khác. Cha nợ của chúng tôi tuổi thơ bình yên và vui vẻ. Nợ mẹ tôi gánh vác trụ cột một đời. Và chính cha tôi, ông nợ bản thân ông, mang tiếng cả đời cho một trang nam tử mà hèn, bỏ trách nhiệm làm cha, làm chồng cả một đời.
Với tôi, bài thơ mà người đàn ông làm hay và tuyệt vời nhất chính là dám đứng mũi chịu sào. Vì vợ vì con, trụ cột và gánh vác gánh nặng mưu sinh.
Sau này nghe nói cha tôi cũng là một nhà thơ tên tuổi. Ông in nhiều tập thơ, đứng trong văn đàn, thơ ông được công chúng đón nhận.
Tôi chưa bao giờ thèm đọc nửa câu thơ của cha mình, với tôi những câu chữ đó đều là rẻ tiền và rác rưởi, bởi cha chẳng biết gì về đạo chồng vợ, phụ tử tình thâm.
Các anh chị em tôi sau này đều thoát ly rồi một tay mẹ tôi dựng vợ gả chồng. Chỉ còn lại tôi vẫn ở với mẹ trong căn nhà mát rượi bên bờ sông Trịnh. Tôi đi làm, một mình tôi có thể đi khắp đó đây. Tôi vẫn cô đơn lẻ loi, tôi vẫn ám ảnh sự bạc bẽo của cha mình, và tôi sợ lại phải mang ánh mắt buồn như mẹ tôi suốt cả cuộc đời dài….và bây giờ tôi vẫn chưa bao giờ có thể đọc nửa câu thơ của cha tôi.
VietBF@sưu tập