Xung đột trong nội bộ hoàng tộc là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự cáo chung của nhà Trần và sự xuất hiện của nhà Hồ.
Triều Trần (1225–1400) được xem là một trong những triều đại hưng thịnh nhất trong lịch sử Việt Nam trung đại, đặc biệt là giai đoạn thế kỷ 13 với ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông. Tuy nhiên, phía sau ánh hào quang của những chiến công lẫy lừng là một cấu trúc quyền lực hoàng tộc phức tạp, đan xen giữa tinh thần gia tộc, chế độ "thái thượng hoàng" đặc thù, và những mâu thuẫn âm ỉ trong việc kế thừa vương vị. Những xung đột trong nội bộ hoàng tộc triều Trần, đặc biệt từ cuối thế kỷ 14, không chỉ làm suy yếu sức mạnh chính trị trung ương mà c̣n là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự cáo chung của nhà Trần và sự xuất hiện của nhà Hồ.
Một trong những nét đặc trưng trong cơ chế kế vị của triều Trần là việc truyền ngôi sớm khi vua c̣n sống và nhường quyền điều hành đất nước cho thế hệ kế cận, trong khi bản thân vẫn giữ vai tṛ Thái thượng hoàng. Mô h́nh này được khởi đầu bởi Trần Thái Tông (Trần Cảnh), người lên ngôi năm 1225 sau cuộc nhường ngôi của Lư Chiêu Hoàng. Khi vua truyền ngôi cho con là Trần Thánh Tông và lui về làm Thái thượng hoàng, ông vẫn giữ vai tṛ quyết định trong việc điều hành triều chính. Truyền thống đó tiếp tục qua các đời vua Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, tạo nên một cơ chế kế vị tưởng như hiệu quả và ổn định. Tuy nhiên, sự hiện diện song hành của hai thế hệ nắm quyền – vua và Thái thượng hoàng – về lâu dài đă tạo nên sự chồng chéo quyền lực và mầm mống xung đột trong nội bộ hoàng gia.
Đầu rồng thời Trần. Ảnh: Quốc Lê.
Xung đột kế vị thực sự bùng phát từ giữa thế kỷ 14, khi triều Trần bắt đầu có dấu hiệu suy yếu. Sau cái chết của Trần Dụ Tông năm 1369, người không có con nối dơi, nội bộ hoàng tộc rơi vào khủng hoảng kế vị nghiêm trọng. Trần Dụ Tông vốn được đánh giá là vị vua bất lực trong quản lư triều chính, hoang dâm và phóng túng, nhưng không có người kế thừa trực tiếp. Trong t́nh thế đó, bà Thái Định hoàng thái hậu lập Dương Nhật Lễ lên ngôi, người không mang ḍng máu Trần mà là con nuôi của một nghệ sĩ hát tuồng. Việc một người ngoài hoàng tộc lên ngôi vua là điều chưa từng có trong tiền lệ của triều Trần, gây ra sự phản đối mạnh mẽ trong nội bộ hoàng thân và giới quư tộc.
Không lâu sau, một cuộc chính biến do các hoàng thân ḍng Trần, đặc biệt là Trần Phủ (tức Trần Nghệ Tông sau này), được sự ủng hộ của tướng quân Trần Nguyên Đán và các cựu thần, đă lật đổ Nhật Lễ vào năm 1370. Trần Nghệ Tông lên ngôi, khôi phục chính thống cho ḍng Trần, nhưng hậu quả của sự kiện này là sự xuất hiện của tiền lệ dùng vũ lực để giành lại ngai vàng từ một vị vua đang tại vị – một dạng "chính biến cung đ́nh" lần đầu tiên xảy ra trong triều đại vốn được xem là gắn bó máu mủ.
Tuy nhiên, mâu thuẫn không dừng lại ở đó. Sau khi Trần Nghệ Tông truyền ngôi cho con là Trần Duệ Tông và lui về làm Thái thượng hoàng, triều đ́nh rơi vào ṿng xoáy khủng hoảng kép: một mặt là sự suy thoái kinh tế - xă hội do thiên tai, chiến tranh, thuế khóa nặng nề; mặt khác là sự phân hóa quyền lực giữa các hoàng thân. Trần Duệ Tông sau đó tử trận trong cuộc chiến với Chiêm Thành năm 1377, tạo ra khoảng trống quyền lực lớn. Trần Phế Đế, con của Nghệ Tông, được đưa lên ngôi, nhưng bị chính phụ thân ḿnh phế truất vào năm 1388 v́ không được ḷng các đại thần và bị coi là bất tài. Việc một ông vua bị chính cha ḿnh – Thái thượng hoàng – phế bỏ là sự kiện chưa từng có, cho thấy sự rối loạn trầm trọng trong cơ cấu chính trị hoàng tộc triều Trần.
Sau đó, Trần Thuận Tông được đưa lên thay, nhưng t́nh h́nh tiếp tục rơi vào hỗn loạn. Các hoàng thân ḍng Trần trở nên rời rạc, bất măn, và đặc biệt bị chia rẽ trước sự lớn mạnh của Hồ Quư Ly – người đă khéo léo thao túng các vị vua trẻ và từng bước kiểm soát toàn bộ bộ máy triều đ́nh. Hồ Quư Ly là người có quan hệ họ hàng với hoàng tộc (thông gia với Trần Nghệ Tông) và từng giữ chức vụ Tể tướng, nhưng bằng hàng loạt biện pháp chính trị như ban hành cải cách, loại bỏ đối thủ, kiểm soát nhân sự triều đ́nh, ông đă dần dần thay thế vai tṛ của nhà vua.
Đỉnh điểm của bi kịch hoàng tộc là năm 1399, khi Trần Thuận Tông bị buộc phải nhường ngôi cho con nhỏ là Trần Thiếu Đế, bản thân bị ép phải xuất gia. Chỉ một năm sau, năm 1400, Hồ Quư Ly chính thức phế truất Trần Thiếu Đế, chấm dứt triều đại Trần sau gần 180 năm tồn tại. Cuộc tranh ngôi trong hoàng tộc triều Trần, từ cuộc biến loạn do Dương Nhật Lễ đến sự tan ră nội bộ trước sự trỗi dậy của Hồ Quư Ly, là một chuỗi phản ánh rơ nét sự khủng hoảng kế vị, sự mục ruỗng từ bên trong của triều đ́nh, và đặc biệt là vai tṛ tai hại của việc thiếu một cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả.
Thành nhà Hồ. Ảnh: Quốc Lê.
Không giống như những cuộc xâm lăng từ bên ngoài, cuộc tranh ngôi trong nội bộ hoàng tộc Trần là sự sụp đổ từ bên trong, phản ánh rơ rệt sự suy thoái đạo lư gia tộc – nền tảng tinh thần quan trọng trong mô h́nh cai trị quân chủ Á Đông. Khi nguyên tắc kế vị bị phá vỡ, khi quyền lực không c̣n dựa trên chính danh mà dựa trên âm mưu và thủ đoạn, triều đại không chỉ mất đi sự ổn định mà c̣n đánh mất ḷng tin từ thần dân. Đó cũng là lúc những thế lực mới – như Hồ Quư Ly – dễ dàng nổi lên và thay thế vị trí trung tâm của quyền lực, bất chấp sự phản kháng yếu ớt từ các hoàng thân ḍng Trần.
Như vậy, cuộc tranh ngôi trong hoàng tộc triều Trần không đơn thuần là câu chuyện hậu cung hay chính biến, mà là biểu hiện điển h́nh cho sự khủng hoảng thể chế trong một triều đại đă qua thời kỳ cực thịnh. Những mâu thuẫn giữa t́nh thân và quyền lực, giữa truyền thống và thực dụng, đă xé nát kết cấu chính trị mà tổ tiên họ Trần dày công xây dựng, để rồi mở đường cho một giai đoạn đầy biến động trong lịch sử Việt Nam.
Bài viết có tham khảo các Tài liệu:
- Việt Nam sử lược. Trần Trọng Kim. Nhà xuất bản Văn Học, 1919.
- Đại Việt sử kư toàn thư. Quốc sử quán triều Nguyễn. Dịch bởi Viện Sử học Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xă hội, 1993.
- A History of the Vietnamese. Keith W. Taylor. Cambridge University Press, 2013.
- Việt sử giai thoại. Nguyễn Khắc Thuần. Nhà xuất bản Giáo dục, 2000.
- Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Quốc sử quán triều Nguyễn. Nhà xuất bản Giáo dục, 2007.