|
 |
|
04-11-2020
|
#61
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Truyện ngắn: Mấy thứ ngày xưa.
Anh chị yêu nhau rồi cưới nhau.Họ có một mảnh vườn nhỏ trồng cây trái. Cuộc sống chẳng sung túc là bao nhưng hạnh phúc với 2 người con, một trai, một gái. Anh có tham gia vài hoạt động của ấp, của xã. Dần dần cấp trên thấy anh có năng lực nên cử anh đi học nâng cao trình độ. Anh đem chuyện bàn bạc với chị. Vốn đã nghe lắm lời bàn ra tán vào của thiên hạ về việc để chồng tham gia vào chốn quan trường sẽ chịu không ít thiệt thòi, nhưng chị đồng ý. Chị không muốn vì mình mà cản trở con đường công danh của anh.
Anh bảo: “Anh đi học phải mất 3 năm, lại đi xa, một mình em ở nhà lo được không?”.
Chị quả quyết: “Có mỗi mảnh vườn, cạo mấy cây cao su. Hai đứa lớn rồi chẳng phải đưa đón gì. Vả lại, còn số tiền mình để dành xây nhà, tạm thời cứ lấy tiền đấy lo cho anh đi học. Vài năm nữa xây cũng được”.
Anh học ở thị xã, cuối tuần đều đặn về nhà thăm chị, thăm con. Mỗi lần về nhà, anh quen giấc ngủ một mạch đến 7h sáng, thức dậy đã thấy chị đang lúi húi trong bếp nấu ăn, tay vẫn còn dính mủ cao su. Chị dậy đi cạo từ 2h đêm, chẳng nỡ đánh thức anh. Anh thở dài nhìn cái nhà dột lỗ chỗ, mấy cái hàng rào xiêu vẹo, vừa bắc thang vá lại chỗ dột vừa bảo chị hay là thôi, anh ở nhà rồi vợ chồng kiếm ít vốn buôn bán cho nhanh. Chị kiên quyết bảo không, đã đi được đến bước này rồi, anh phải làm “ông nọ bà kia” sau này con cái được nhờ. Mọi người trong xóm vẫn hay trêu chị: “Chồng đi học ngày càng bảnh bao, có tướng tá làm quan, còn vợ ở nhà nhìn héo hon đi, không cẩn thận mất chồng như chơi”.
Kết thúc khóa học, trở về xã, anh được giao một trọng trách khá khiêm tốn. Chị biết con đường thăng tiến của anh còn rất dài, rất xa. Mình chị vẫn đảm đương mảnh vườn, chăm sóc nuôi dạy con cái. Đêm nào cũng 2h sáng, chị lên rẫy cao su cạo mủ lúc anh vẫn còn say giấc. Tiền bỏ ra cho những cuộc xã giao bắt buộc của chồng, chị chẳng tiếc. Chị tin ngày anh công thành danh toại thì mẹ con chị sẽ chẳng phải vất vả thức khuya dậy sớm. Những đêm anh say khướt về gục ngay ở cửa, chị đỡ anh vào nhà nghe anh nhắc đi nhắc lại trong cơn say rằng, anh làm khổ em, anh chỉ là thằng đàn ông vô tích sự, rằng người ta xem thường anh. Chị ngồi lặng lẽ nắm bàn tay chồng.
Anh vẫn là một người chồng, người cha tốt, quan tâm con cái, mua tặng chị thứ này thứ kia, khi thì lọ nước hoa, cái áo mới. Chị chưa từng nghi ngờ anh.
Cho đến tận cái ngày vô tình đọc được tin nhắn với nội dung đáng ngờ trong máy điện thoại của anh, chị cũng không vội vàng trách móc. Chị tin tưởng anh nên âm thầm dò xét. Anh biết chuyện vội trấn an chị là chẳng có gì, chỉ là một đồng nghiệp nữ vui tính trêu đùa anh thôi.
Chị quên đi chuyện ấy cho đến khi những người trong xóm kể lúc ghé qua chỗ anh làm thấy anh và một cô gái khác thân thiết trên mức bình thường, chị mới giật mình nhận ra những thay đổi của chồng. Anh chăm cắt tóc hơn chứ chẳng đợi chị nhắc như trước. Anh nhắc chị ủi quần áo cho anh. Anh hay rửa xe hơn, cái xe tay ga chị mua để anh đi làm. Còn chị vẫn đi cái xe Cub cọc cạch tiện chở mủ đi bán, sợ mủ hôi hám làm bẩn chiếc xe mới. Một vài lần anh trở về nhà trong cơn say, mùi bia lẫn với mùi nước hoa ngọt dịu trên cổ áo, chị ngờ ngợ rồi quên khuấy giữa bao nhiêu lo toan.
Buổi sáng đó anh đi công tác, chị vừa đi cạo mủ cao su về vẫn mặc bộ đồ lao động, tay chân dính đầy mủ. Chị đang cho đàn gà ăn thì có tiếng xe tay ga quen thuộc chạy vào sân - chiếc xe mỗi ngày chị đều nhìn thấy chồng chạy. Cô gái dừng xe, tháo kính mát, váy chống nắng rồi lộc cộc giày cao gót bước vào. Cô gái dễ thương trẻ hơn chị cả chục tuổi, son môi đỏ chót, tóc uốn xoăn, mặc một bộ váy xẻ tà màu đỏ, rất hợp với chiếc xe của chồng chị. Cô không chào chị mà liếc mắt quan sát ngôi nhà rồi lắc đầu bĩu môi.
- Chị là chị Như - vợ anh Hà? Cô gái liếc bộ quần áo chị đang mặc rồi hỏi.
- Phải, nhưng chồng tôi đi công tác rồi.
- Em biết. Hôm qua anh Hà để quên áo chỗ em, em bảo để em giặt cho. Nhưng anh ấy không chịu, bảo phải để vợ anh giặt bằng tay, anh không quen đồ giặt máy. Loay hoay sao lại quên mang theo. Em thấy vậy nên đang làm dở công việc phải lấy xe ảnh chạy vô đây đưa chị. Khỏi cần cảm ơn em. Em để đây nha, chứ tay chị đang dơ vậy đụng vô mất công. Thôi em đi về.
Chị đứng như trời trồng, nhìn cái áo màu xanh quen thuộc của anh. Cô gái leo lên xe, cái váy xẻ tà cuốn lên cao lộ ra cả cái đùi trắng nõn nà. Đứa con gái đi học về sớm chạy xe vào trong sân thấy cô ta đi ra, quay sang hỏi chị:
- Ai vậy mẹ, sao lại đi xe của bố?
- Đồng nghiệp của bố ấy mà. Bố đi công tác, có việc gấp cần giấy tờ ở nhà nên cô ấy mượn xe bố ngoài ủy ban chạy về lấy cho bố.
- Ngoài chỗ bố sao toàn mấy cô xinh ghê!
Chị ngồi dựa cây cột nhìn đàn gà. Cả buổi sáng đó, chị nghĩ về cô ta - một cô gái chưa chồng, trẻ hơn chị, đẹp hơn chị, gia đình giàu có hơn chị, bố cô ta là sếp của chồng chị. Còn chị, chẳng có gì ngoài tình yêu thương dành cho chồng, cho con, ngoài sự tận tụy, cố gắng vun đắp cho gia đình. Chị nông dân, đen đúa, không biết ăn diện.
Anh đi công tác về, chị không nhắc gì về chuyện cô gái kia. Anh nhận ra thái độ khác lạ của chị và gặng hỏi nhưng chị không nói. Hôm ấy anh đi làm về sớm, sau bữa cơm hai đứa con chở nhau xuống bà ngoại chơi. Anh nhìn chị:
- Uyên đã nói gì với em?
- Không có gì, chị đáp.
- Anh không ngờ cô ấy lại tìm em. Sao em lại giấu anh. Có chuyện gì cũng phải nói cho anh biết. Giữa anh và Uyên chẳng có gì hết. Em có tin anh không?
- Em tin anh, chị đáp ngay không nghĩ ngợi.
- Anh sẽ bắt cô ta phải xin lỗi em.
- Không cần đâu, em không muốn nhìn thấy cô ta bước vào nhà mình nữa.
Chị nói vậy rồi vào phòng ngủ. Đêm đó, anh ôm chị rất chặt, dù chị nằm quay lưng về phía anh.
Chị nghe lời mấy bà bạn tự thay đổi chính mình, đi làm tóc, làm chân mày, mua sắm mấy bộ quần áo mới. Dù vậy, mấy vết nám trên mặt chị sau 2 lần sinh con và phơi nắng quanh năm cũng chẳng thể nào xóa hết. Trước giờ chị chẳng để ý, sao bây giờ mới nhận ra vết nám ngày càng sạm đen như vậy. Da bàn tay chị ngày càng chai sần, mấy đầu móng tay lúc nào cũng đen thui và thoảng mùi hôi của mủ cao su dù chị đã giặt tay mấy thau quần áo. Chị học nấu những món ăn mới phức tạp hơn ngoài thịt kho, cá kho. Hôm đó, chị nấu lagu bò mất một buổi chiều. Hai đứa con đi ra đi vào hỏi sắp ăn được chưa, chị bảo chúng chờ bố về để cả nhà cùng ăn. Nhưng hôm đó mãi 23h đêm anh mới về, 2 đứa con ăn trước rồi đi ngủ. Chị thức chờ chồng và như thường lệ anh lại say khướt. Anh bảo sẽ đi thay đồ rồi ra ăn món mới chị nấu. Chị vội vàng bật bếp hâm nóng đồ ăn. Chị vào phòng gọi đã thấy anh nằm dài trên giường, giày vớ còn chưa kịp tuột khỏi chân.
Những năm sau này, anh còn nhiều lần làm tổn thương trái tim chị khiến nó rỉ máu. Nhưng khi tận mắt thấy anh chở Uyên đi vào nhà nghỉ, chị cảm giác như anh cầm dao đâm vào tim mình. Chưa bao giờ chị quyết đoán như lần ấy, chị viết đơn ly hôn và kí ngay không ngần ngừ. Chị đã mất hết lòng tin vào chồng, vào những lời thề, hứa hẹn. Lúc ấy, anh đã là cán bộ có tí chức quyền, chỉ cần chị viết vào đơn ly hôn lý do anh ngoại tình, anh sẽ mất tất cả. Nhưng để giữ thể diện cho anh, chị viết vào 3 chữ đơn giản: Không hợp nhau.
Mẹ chị bảo chị hãy nghĩ cho 2 đứa con mà cố gắng vun vén. Thằng con trai cả của chị lúc ấy đang học năm thứ nhất đại học nghe thấy vậy thì bảo: “Mẹ hãy nghĩ cho bản thân mình lần này đi, không cần vì bọn con. Bọn con lớn rồi, mấy năm sống không có bố vẫn chẳng sao”. Còn đứa con gái chị chẳng biết nghe chuyện từ ai, từ lúc nào mà sáng hôm sau khi chị đang nằm trong phòng nghe tiếng xe anh về, nó vùng vằng nhảy xuống từ yên xe sau. Nó đi ngang qua chị, mắt sưng húp, một bên má đỏ lên như bị ai đánh. Nhìn chị nó gào lên: “Vì con phù thủy đó mà tát con, con hận ổng”. Nó mở cửa sau, vùng chạy lên lô cao su. Chị đứng nhìn anh trân trối. Tối hôm đó lúc anh đã dọn quần áo ra khỏi nhà, con gái chị mới kể, nó tìm đến nhà cô ta đứng ở cổng hét to: “Trả bố tôi đây, trả bố cho tôi, trả bố cho mẹ tôi, đồ phù thủy. Con đứng hét một lúc thì hàng xóm kéo ra nhìn nó càng gào to. Đúng lúc ấy bố đến, cô ta cũng chạy ra, bố tát con một tát rồi lôi con lên xe về”. Nói rồi nó quay sang nhìn chị, ráo hoảnh nói: “Từ giờ trở đi, con chỉ có mẹ và anh”.
Tòa xử tài sản chia đôi, con cái chia đôi. Nhưng cuối cùng cả hai đứa con không ai muốn ở chung với bố nên anh để lại tài sản cho cả 3 mẹ con, ra đi tay không, dọn ra một nhà trọ sống.
2 tháng sau ly hôn, anh lấy vợ - chính là cô gái tên Uyên ấy. Đám cưới to rộn ràng 50 mâm mời cả xóm cũ nhưng không ai đi vì họ ghét sự phản bội của anh. Không có chị nuôi anh ăn học làm gì có anh oai phong của ngày hôm nay.
1 năm sau ly hôn, chị vẫn sống cùng 2 đứa con, không mảy may có ý định đến với bất kì ai. Chị bán đi một phần đất, dồn được tiền xây nhà to nhất xóm, còn lại gửi ngân hàng lấy lãi cho con ăn học, lúc nào cũng vui vẻ, nói cười.
Anh có đứa con trai với người vợ sau, đã lên làm chức to ở huyện nhưng phải ở rể. Thỉnh thoảng, anh vẫn ghé vào thăm con, chị chẳng cấm đoán, dửng dưng mặc kệ. Đứa con gái ghét bố đến mức không thèm nhìn mặt. Riêng chị không hận anh nữa nhưng chị không muốn nhìn thấy người đàn ông phản bội mình nhưng khi say nhiều khi vẫn thường gọi cho chị nói thương chị và các con. Anh ngồi trước hiên nhà, quay sang hỏi chị:
- Mẹ con em sống tốt không?
- Tốt, như anh thấy.
- Ừ, anh cũng rất tốt.
Chị chẳng hỏi nhưng anh vẫn tự kể, rồi tự đi về không chào hỏi, không ai tiễn. Ngoài chợ, ngoài xóm người bảo anh khôn, lấy gái trẻ, lại giàu, vài năm nữa là ngồi vào chức của ông bố vợ để sẵn. Cũng có kẻ chê anh ngu, đầu sắp hai thứ tóc mà còn phải đi rửa đít trẻ con, phải ở rể như con chó chui gầm chạn. Chị nghe hết những gì người ta nói về anh, nhưng chẳng bình luận câu nào.
Một lần đi chợ chị gặp anh đang hỏi mua mấy con ghẹ to về nấu cháo cho con. Bất giác chị nhớ ngày xưa lúc nhà còn nghèo, 2 đứa con thèm ăn tôm anh cười bảo sau này bố có tiền nhất định cho mấy đứa ăn tôm đến chán thì thôi. Mãi đến lúc ly hôn, anh vẫn chưa từng mua con tôm nào cho 2 đứa chúng nó. Chị quay đi, tự cười chính mình sao cứ hay nhớ lâu mấy thứ ngày xưa.
|
|
|
|
The Following 4 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
04-14-2020
|
#62
|
|
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Join Date: Jan 2013
Posts: 37,942
Thanks: 81,070
Thanked 56,786 Times in 24,153 Posts
Mentioned: 430 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 10758 Post(s)
Rep Power: 76
|
Nỗi Đau Không Tan
04/13/20
WEDNESDAY, APRIL 20, 2016
Ngày 30 Tháng Tư - Nỗi Đau Không Tan
James Dieu

Tối ngày 28.4.1975 khi việt cộng bắn những trái pháo vào phía sau rạp hát Quốc Thanh trên đường Võ Tánh - Sài Gòn 2, lúc ấy gia đình tôi đang sống trong khu cư xá bên trong BTL/CSQG gần đó, cạnh Sở Căn Cước và Sở Truyền Tin… phía sau sân cờ. Bố tôi lúc ấy là Đại tá Giám đốc Trung tâm Hành quân Cảnh lực trung ương và kiêm nhiệm một công việc mới theo Quyết định của Thủ tướng CP là ông Vũ văn Mẫu ngày 30/04/1975 là Chỉ huy trưởng CSQG Thủ đô Sài Gòn, Ông liên lạc với một người em kết nghĩa là chú Phạm Như Hoành (con trai của cụ Phạm như Phiên là TNS Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa) chú Hoành khi ấy đang làm Giám Đốc khách sạn Majestic gần bờ sông Bạch Đằng, thế là gia đình tôi di chuyển tới ở tại lầu 5 của khách sạn này, khi Mẹ tôi dắt đàn con 7 đứa ra xe, Bố tôi khi ấy bận công vụ không có nhà, các sĩ quan và cảnh sát viên ở Nha Trang di tản về ở tạm quanh sân cờ BTL thấy vậy, họ nghĩ là gia đình tôi cũng bỏ chạy, có người hỏi chú Ba tài xế:
- Bộ gia đình Đại tá Chánh đi hả ?
- Không, chỉ ra ngoài ở sợ việt cộng pháo trúng mấy đứa nhỏ thôi.
Hình như họ không tin tưởng lắm qua những ánh mắt nhìn theo chúng tôi. Mẹ tôi có dừng lại và bà có nói gì đó với họ, tôi không nghe rõ . Tình thế lúc bấy giờ ở bên ngoài rất hỗn loạn, người ta đổ xô ra đường rất đông, các lực lượng phòng thủ ở thủ đô Sài gòn lúc bấy giờ có lẽ đông nhất là các chiến sĩ Nhảy Dù cùng với rất nhiều các binh chủng tập trung về Thủ đô, mặc dù vậy, thủ đô vẫn an ninh, không có việc cướp bóc như có một số người đã nói, những chiến binh của quân đội VNCH vẫn rất có kỷ luật, cầm súng trên các ngã đường trong thủ đô, đồng bào đổ xô và tranh nhau lên các chiếc tàu biển đậu trên bờ sông Bạch Đằng để hy vọng được thoát khỏi Sài Gòn giờ phút cuối cùng, tôi nhìn thấy các chiến sĩ Nhảy Dù đang cố giữ trật tự cho đồng bào lên tàu...
Nhưng những chiếc tàu vẫn không rời bến. 10 giờ sáng sớm hoặc trễ hơn một chút, ông Dương văn Minh ra lệnh đầu hàng, tôi thấy Mẹ tôi khóc, chúng tôi chờ Bố tôi tại khách sạn, những tên việt cộng đầu tiên xuất hịện trên đường phố cùng những chiếc xe thiết giáp gầm rú để trấn áp tinh thần dân chúng Sài Gòn. Mẹ tôi ôm chúng tôi vào lòng, Bố tôi trở về cùng với người tài xế, cả hai đều không mặc cảnh phục, Bố tôi ôm Mẹ tôi và hôn từng đứa con, chú tài xế lái xe đi đem theo khẩu M-16, trở lên phòng Bố tôi lại nói chuyện riêng với Mẹ tôi, không cho chúng tôi nghe,
Sau đó tôi nghe chị Thu là người giúp việc cho gia đình tôi òa lên khóc, chị quỳ dưới chân Mẹ tôi van xin được ở lại cùng gia đình tôi, chị không muốn về quê ở Gò Công, lúc ấy tôi mới biết Bố tôi định dùng súng bắn hết anh em chúng tôi rồi cùng Mẹ tôi tự sát.
Mẹ tôi khi ấy không còn khóc nữa, Mẹ cũng chọn sự lựa chọn của Bố tôi, tôi khóc và ôm lấy Mẹ, có lẽ lúc ấy là lần đầu tiên trong cuộc đời tôi biết khóc, tôi không ý thức được sống chết là gì, nhưng tôi rất sợ khi mọi người nói tới hai tiếng “việt cộng” !
Bố tôi rút khẩu súng ra và ôm lấy chúng tôi... Có lẽ có điều gì đó không nỡ, Bố tôi không đành lòng nổ súng vào đàn con thơ dại đang đứng chờ đợi... Những người phóng viên ngoại quốc họ đến tận phòng ở gia đình tôi và hỏi:
“ Chuyến đi cuối cùng rồi ông có ra đi không ?.
Bố tôi trả lời : “ Không “ .
Tại sao vậy ?
Bố tôi nhìn Mẹ tôi một hồi lâu, Bố nói ông không nỡ bỏ các anh em đang cầm súng ở lại ngoài kia, có lẽ ở BTL CSQG cũng không còn ai ngoài Bố tôi và ông Tướng Nhu, với cấp bậc của Bố tôi, ông có thể tìm được một chỗ cho ông và gia đình một cách dễ dàng để bay thoát ra ngoài hạm đội Mỹ đang đợi ngoài khơi, nhưng ông đã không làm như một định mệnh với quá nhiều đau khổ cho ông và gia đình về sau, khi ở lại dưới chế độ cộng sản, tôi xuống thang máy khách sạn và gặp một toán việt cộng cầm cờ đang tìm cách lên sân thượng của khách sạn, chúng quát người phục vụ khách sạn khi anh ta đưa họ vào thang máy, chúng bảo:
“ Chúng tôi muốn lên trên ấy chứ không phải vào cái buồng nhỏ này “.
Chúng dí súng vào đầu người dẫn đường, sợ quá và không thể giải thích với chúng, anh ta đành dắt họ đi cầu thang... Thấy chúng lên lầu, tôi và chị Thu giúp việc sợ quá, vội dùng thang máy chạy vội lên phòng, và tôi đã ném chiếc kính cận của Bố tôi xuống cửa sổ, tôi khóc nói với Bố tôi:
“ Con sợ tụi nó biết Bố ở đây nên con ném xuống dưới rồi .....
Sau đó gia đình tôi trở về cư xá Thanh Đa, nơi Bố Mẹ tôi có một căn nhà mua trả góp trước đây, căn nhà nhỏ này vốn dùng để cho các gia đình của các chú trước đây làm việc với Bố tôi ở Sư Đoàn 23 di tản về ở tạm, gia đình chú Thọ cũng đã đi đâu rồi nên gia đình tôi dọn vào, tất cả mọi người đều chỉ có một bộ đồ mặc trên người, Mẹ tôi phải đưa chúng tôi ra chợ mua thêm để mặc.
Tất cả mọi người phải nằm chiếu, nhà không có bàn ghế hay giường tủ gì cả... Khởi sự cho một cuộc sống hoàn toàn trắng tay đúng nghĩa ! Lúc ấy đứa em út của tôi chưa biết đi. Ngày Bố tôi đi tù có hai chú ngày xưa làm việc cùng ở Sư Đoàn 23 trước khi Bố tôi được biệt phái về Cảnh sát là chú Phạm Ninh và chú Nghiêm xuân Đông đến đưa Bố tôi đi, ông đi ngay trong ngày sinh nhật thứ 41 của mình, tôi chạy theo đến tận chân cầu thang cư xá và đứng nhìn Bố tôi lên chiếc xe lam...
Từ ngày 30/4 năm ấy, một tay Mẹ nuôi dạy chúng tôi, sau này còn phải nuôi Bố tôi ở trong tù cộng sản, có những lúc Mẹ quá sức và tuyệt vọng vì không biết ngày về của Bố tôi, Mẹ có lần bạo gan hỏi việt cộng:
“ Sao nói đi một tháng mà bây giờ đã hơn một năm chồng tôi vẫn chưa về ? Gia đình cũng không biết đang ở đâu, sống hay chết ?”
Chúng trả lời : “ Nói một tháng là một tháng đi đường (?) chứ ai nói là đi cải tạo một tháng rồi về đâu...
Chừng vài năm sau, trong cuốc sống quá khổ sở, Mẹ tôi phải lặn lội sớm hôm kiếm tiền nuôi con, trong một lần quá tuyệt vọng Mẹ tôi đã viết một lá thư để lại cho Bố tôi và nấu một nồi chè đậu xanh trong đó Mẹ đã bỏ thuốc diệt chuột mà Tổ Dân phố cấp cho, Mẹ múc ra chén cho từng đứa con...
Có lẽ tôi cũng không nhớ lầm thì lúc ấy bên ngoài mọi người đang tưng bừng mừng 2 năm “giải phóng” thì phải, có lẽ Mẹ tôi cũng mượn dịp này để Mẹ và đàn con 7 đứa cũng được giải thoát chăng ? Lúc ấy các em tôi cũng đã lớn, các em gái như Tuyết, Trinh, Hằng... đã khóc và quỳ xuống xin Mẹ cho chúng con được sống, chỉ sống để chờ Bố về, có đứa còn khóc gọi
“ Bố ơi !” ...
Mẹ tôi dường như đã cạn khô hết nước mắt rồi, thương con cực khổ quá thì chỉ muốn cho chúng chết đi để hy vọng một kiếp sống mới tốt đẹp hơn ? Sống với đời sống “con của ngụy” thì cũng chẳng ra gì ?
Cuối cùng tình yêu thương của Mẹ vẫn chiến thắng, Mẹ đã hắt đổ nồi chè gần như trở thành định mệnh - như ngày nào Bố tôi đã bỏ khẩu súng lục xuống để đàn con tiếp tục được sống như sự an bài của Trời Phật vậy !
Sau đó Mẹ càng cố bương chải kiếm sống ngoài đường, có lúc bị kẻ gian đập đầu bất tỉnh ngoài bến xe khi Mẹ mua đồ xuống Cần Thơ cho dì bán nhà hàng, mong kiếm chút tiền mua cơm về cho con, lúc ấy việt cộng cấm mang gạo, ai có gạo sẽ bị tịch thu, nhưng nếu nấu thành cơm mang về Sài Gòn thì được... Chúng con biết Mẹ rất cực khổ - từ một bà mệnh phụ, Mẹ từng là Tổng thư ký Hội Bảo Trợ gia đình binh sĩ SĐ 23 BB, rồi Hội Trưởng Hội BTGĐBS của Trung Đoàn 44 BB ở Sông Mao khi Bố tôi làm Trung Đoàn Trưởng... Thế mà vì vận nước suy vong, Mẹ sẵn sàng lam lũ như những kiếp đời vốn dĩ bần hàn.
Những ngày 30 tháng Tư đi qua, tuy Mẹ không nói, nhưng trong đôi mắt của Mẹ - Chúng con biết Mẹ buồn tủi lắm !Thấy Mẹ tôi vất vả quá, cậu Khánh tôi ở Ban mê thuột có ý nhận nuôi phụ vài đứa, nhưng Mẹ không chịu, có một chú lính ngày trước của Bố tôi từ Nha Trang vào, thấy cảnh đời gia đình tôi khổ sở quá, bèn móc ví ra đưa cho thằng em tôi vài trăm, nó nhất định không lấy, chú lính phải năn nỉ mãi nó mới cầm và thằng bé chưa đầy 10 tuổi đã phải bật khóc vì tủi thân, có bao giờ nó phải nhận sự giúp đỡ thương hại như thế?
Thời gian sau này, có các chú may mắn ra đi được, có người ở Mỹ, có người ở Na Uy như các chú Nguyễn xuân Thọ, Phạm Ninh, Hồ Đắc Tùng, các bác bạn của Bố tôi Bác Thăng... gởi tiền và quà về giúp Mẹ tôi khi Mẹ đã quá sức cùng kiệt - nhờ vậy mà chúng tôi được sống !
Ngày 30/4 sắp đến - cũng dịp này, tôi xin mượn những giòng chữ này để một lần được nói lên lời tri ân những ân nhân của gia đình tôi, cũng như xin được thưa với Mẹ của chúng tôi rằng
“Chúng con hiểu và suốt đời yêu thương Mẹ, đó là điều có thật đang diễn ra trong tâm hồn chúng con ! “
Và với Bố , một người Cha đã suốt đời sống thanh liêm, yêu thương đồng đội, trung thành với Tổ Quốc, kiên định trong gông cùm biệt giam của cộng sản, cho dù có lúc Bố đã từng nói trong cuốn sách lưu niệm của các sinh viên Sĩ Quan Khóa 8 Hoàng Thúy Đồng trường VBQG Việt Nam rằng: “Điều mà tôi ân hận nhất là để cho Vợ và các con của tôi phải sống những ngày tháng đau khổ đói khát dưới chế độ cộng sản...
“Thưa Bố , chúng con hiểu được, chúng con bây giờ đã lớn khôn, trưởng thành, chúng con không trách cứ gì số phận của minh cả, mà bù lại có lẽ chúng con càng hãnh diện và tự hào hơn vì chúng con có một người Mẹ tuyệt vời, biết hy sinh và biết đau xót cho Quốc Gia, không như những người Mẹ bình thường, có một người Cha sống ngay thẳng, tận tụy cùng Tổ Quốc, Chức nghiệp, không hèn hạ và vô trách nhiệm...
Nước mất nhà tan nên gia đình mình cùng hàng trăm ngàn gia đình sĩ quan binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa phải đau khổ, chia sẽ và thăng trầm cùng vận nước - Điều đó đâu có gì nhục nhã đâu !
Như Bố vẫn thường kể cho chúng con nghe về những trận đánh của Bố ngày xưa, kể về các sĩ quan của đơn vị Bố một cách hãnh diện và tự hào như các chú Xuân, chú Tài, chú Đức, chú Lâm, chú Ninh... trong số ấy có những người đã ra đi không bao giờ trở về...
Sau mười mấy năm tù đày - Bố tôi đã trở về với gia đình và được ra đi định cư tại Hoa Kỳ theo diện RD-7 - Và mười mấy năm sau trên mảnh đất Utah, Mẹ tôi đã thực hiện một điều mà Bố tôi mơ ước, đó là một bộ quân phục khaki vàng với phù hiệu Quân Đoàn II, Sư Đoàn 23 BB cùng các loại huy chương Việt - Mỹ của Bố tôi trước đây... Trong bộ quân phục oai phong ấy, Bố ơi ! Người sĩ quan của ngày nào vẫn còn đấy, chúng con thấy Mẹ cười thật tươi, hạnh phúc, có phải chăng lý tưởng Quốc Gia vẫn âm ỉ trong tâm hồn của Bố Mẹ, dù thời gian có đi qua bao xa? Chúng con thấy bàn tay Bố vân vê Bảo Quốc Huân Chương lV và trong ánh mắt của người lính già gãy súng vẫn âm vang nỗi bi tráng của một thời binh lửa...
Ngày mất nước lần thứ 34 lại về, chúng con hiểu sự đau khổ trong tâm hồn của Bố Mẹ - âm thầm , chịu đựng, u uẩn, lực bất tòng tâm... Bố vẫn thường nhắc cùng với Mẹ về những người đã hy sinh ngoài mặt trận để bảo vệ miền Nam Việt Nam, những bạn bè của Bố đã ngã xuống trong ngục tù CS.... Con xin được tạm kết ở đây cho những dòng tâm tư này bằng hai chữ
“Định Mệnh “ !
Vâng, Định Mệnh của cả một nền Cộng Hòa, của hàng trăm ngàn tử sỉ, của hàng trăm ngàn người không yên dưới biển sâu trên hành trình đi tìm tự do, và của ai nữa ? ...
Của những người Quôc Gia đang còn sống đây cho dù ở trên xứ sở Tự Do hay còn trong nước, vành khăn trắng này sẽ được cột lên đến bao giờ?
James Dieu
Posted by Angesat 4:26 PM
|
|
|
|
The Following 2 Users Say Thank You to cha12 ba For This Useful Post:
|
|
|
04-14-2020
|
#63
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Phút trải lòng của con trai… con gái nhất định phải đọc.
Mỗi khi con trai tâm trạng không tốt, con gái thường làm gì? Tức giận hơn cậu ấy? Trực tiếp đập cho cậu ấy một trận? Hay là giận ngược lại? Chuẩn mà nói anh đây thật sự là chịu đủ mấy kiểu nhảm nhí này rồi.
Trên đời này ấy, người hiểu con trai nhất chỉ có con trai, hôm nay để anh đây đến phổ cấp kiến thức cho các chị em làm thế nào để từng bước dỗ dành bạn trai.
Con trai trời sinh không giỏi biểu đạt, bọn họ không có mong muốn dốc bầu tâm sự cùng người khác, cô có lúc nào thấy qua hai người đàn ông mỗi người tay cầm một nắm hạt dưa vừa cắn vừa buôn dưa lê không? Không có chứ gì.
Vì thế, lúc mà con trai không vui, con gái chuyên gia có kiểu cực kỳ thích làm một việc khiến con trai sụp đổ (tâm trạng): “Sao anh lại không nói gì? Anh nói chuyện với em đi.”
Các chị em à, cách này đối với các cô thì có tác dụng. Bởi vì mục đích cuối cùng của các cô là tìm người để trút tâm sự, để bản thân cảm thấy thoái mái, tâm tình nhẹ nhõm.
Các cô cũng không có yêu cầu phải giải quyết được vấn đề. Nhưng mà, con trai ấy à, nếu không thể giải quyết vấn đề, thì có nói ra cũng chẳng để làm gì.
Thật ra, không phải là con trai không giỏi việc diễn đạt, mà là bọn họ không muốn đem những thứ tiêu cực lên người mà bọn họ yêu thương nhất.
Nguyên nhân mà tâm trạng con trai không tốt chỉ có một, là các cô đấy. Các cô có thể sẽ nói là do công việc anh ấy không thuận lợi nên tâm trạng mới không tốt, chứ chả liên quan gì đến các cô cả.
Thế thì các cô sai rồi đấy, con trai ấy à, từ nhỏ đã được dạy phải có trách nhiệm, phải gánh vác, đảm đương.
Thậm chí không được thể hiện ra là mình yếu đuối, phải bảo vệ tốt người con gái của chính mình. Giống như trong các bộ film Hong Kong rất hay có câu nói “Thích em, chính là điểm mềm yếu của tôi.”
Đối với bọn họ mà nói, trách nhiệm và sứ mệnh chính là gánh nặng cả đời. Khi mà bọn họ gặp phải khó khăn, phản ứng bản năng đều là hoài nghi (năng lực) chính mình.
Nói thật, nếu một thằng con trai không có người con gái nó thích, một mình vẫn ổn, bọn họ sẽ không có bất kỳ áp lực gì. Kiêu ngạo chính là bản tính trời sinh của con trai.
Công việc có thể khiến con trai phiền não không? Impossible. Nếu cảm thấy không được thì ông đây cũng không làm nữa!
Nhưng mà lúc bọn con trai có người con gái chúng nó yêu, sau khi có ham muốn chăm sóc, muốn bảo vệ người đó, bọn họ bỗng trở nên hèn nhát.
Điều này trái lại có thể khiến tâm trạng của con trai càng tồi tệ – bởi vì bọn họ cảm thấy bản thân không xứng với kỳ vọng của các cô, làm lỡ tuổi trẻ của các cô, lại chưa thể chứng minh bản thân với các cô.
Các cô nói là “Em cũng không cần anh chứng anh cái gì, cũng không có nhiều kỳ vọng đến thế” – nói hay lắm, còn nhớ anh đây ở bên trên đã nói con trai có trách nhiệm và sứ mệnh của bản thân không?
Dù cho là các cô thật sự không có nghĩ gì cả, bọn họ cũng sẽ ngầm thừa nhận “Em có ý kiến”, “Em có mong muốn”, “Bản thân anh phải có trách nhiệm với em”.
Thế nên là, muốn an ủi con trai, thì cần phải giải quyết được mớ cảm giác tội lỗi, tự mình tạo cho mình áp lực trong lòng bọn họ. Tiếp theo đây, mời các cô nhớ kỹ quy trình dưới đây:
Gặp nhau, cái gì cũng không nói, ôm cậu ấy vào lòng, vừa ôm vừa thủ thỉ, các cô dỗ trẻ con, dỗ em cún như nào thì đem ra mà dỗ bọn con trai y như thế.
Một lúc sau thì có thể ôm mặt cậu ấy, chăm chú, tỉ mỉ mà ngắm cậu ấy, rồi nói với cậu ấy “Anh muốn nói em sẵn sàng nghe, nếu anh không muốn nói, em cũng sẽ không hỏi anh”.
Lại tiếp tục bổ sung thêm một câu “Có em ở đây, bất kể là vì lý do gì mà khiến anh không vui, em đều sẽ luôn ở bên cạnh anh, được chứ.”
Nếu trong quá trình này, bạn trai xuất hiện bất kỳ biểu hiện tâm tình đi xuống nào, hoặc là hoài nghi bản thân, tự nói rồi tự bác bỏ, tiếp tục ôm đầu, việc của các cô là lại thủ thỉ. Sau đó dịu dàng nói với cậu ấy: “Em không cho phép anh nói bản thân như vậy, người con trai em coi trọng chính là người con trai ưu tú nhất cuộc đời này, không cho phép anh nghi ngờ mắt nhìn của em.”
Sau đó lại nói thêm một câu “Em tin tưởng anh, anh không có vấn đề gì hết, từ ánh mắt đầu tiên em nhìn thấy anh, em liền biết, chồng của em tương lai sẽ rất giỏi đó.”
Sau đó, lời gì cũng không cần nói nữa, để bạn trai ôm một cái, hoặc là nằm trong lòng cậu ấy để cậu ấy ôm rồi tiếp túc thầm thì, thủ thỉ nhỏ nhẹ.
Trong tình huống bình thường, nếu làm theo các bước ở trên, người yêu các cô có thể không thể ngay lập tức cảm thấy vui vẻ trở lại, nhưng trong lòng cậu ấy áp lực nhất định giảm đi không ít.
Vào lúc này việc nên làm là “điên” cùng cậu ấy. Cùng nhau ăn cơm, đi dạo phố, xem film, cực lực chuyển dời lực chú ý của cậu ấy. Tiếp đó, cho bạn trai chút thời gian để cậu ấy từ từ tiêu hóa.
An ủi con trai, các cô cần nhớ một chuyện: Các cô nên bày ra sự quan tâm giống như người mẹ, nhưng đồng thời cũng khích lệ ý chí của bạn trai.
Trước bước 3 nói với cậu ấy, “Em ở đây với anh, em nguyện ý chăm sóc anh”, dẫn dắt bạn trai bày ra mặt yếu đuối của cậu ấy, khiến cậu ấy an tâm.
Sau bước 2 kích thích ý chí của bạn trai, khiến cậu ấy ý thức được vẫn có người cậu ấy muốn chăm sóc, bản thân không thể thua được.
Hai loại tâm tình kết hợp lại một chỗ, có thể khiến bạn trai đang tồi tề một lần nữa trở thành một chiến sĩ tràn đầy tinh thần chiến đấu.
Có rất nhiều chị em cho rằng con trai thì nên kiên cường, trong chuyện tình cảm chỉ có con trai dỗ con gái, chứ không bao giờ tồn tại cái việc con gái phải đi dỗ dành con trai. Thật ra điều đấy sai vãi ra.
Trong cùng một mối quan hệ, con trai nên là người được dỗ dành nhiều hơn. Xã hội này, áp lực trên vai con trai so với con gái đương nhiên là nhiều hơn
Trước khi kết hôn còn phải suy tính đến việc mua nhà mua xe, kết hôn rồi thì gánh vác phần lớn các khoản chi tiêu trong gia đình, chúng tôi đều là gánh vác trên mình trách nhiệm.
Mềm yếu của con trai thường không nói ra, nhưng khi bọn họ chịu đến cực hạn rồi sẽ tự mình rời đi, là kiểu sẽ không bao giờ quay đầu lại nữa.
Thật ra thì con trai cũng dễ dỗ dành mà. Bọn họ không cần túi xách, không cần son môi, chỉ cần một cái ôm của người con gái họ thương, một câu nói của cô gái ấy cũng có thể đem đến cho họ năng lượng rất lớn.
Thế nên là, các cô gái à, sau này nhớ dỗ dành bạn trai nhiều một chút, đừng cho rằng con trai thật sự rất kiên cường.
Minh Nam.
|
|
|
|
The Following 5 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
04-17-2020
|
#64
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Truyện ngắn: BỎ QUÊN.
Cha ơi ...con thương cha.
Nghe tiếng phone reng, Hoàng bực mình cho là phone quảng cáo, nhưng vẫn dở phone lên gắt gỏng :
- Alo ! cái gì mà gọi hoài vậy.
- Dạ cho chúng tôi gặp ông Lợi, chúng tôi gọi hai ngày nay không ai bắt phone.
- Ông Lợi không có nhà.
- Chúng tôi rất cần gặp ông Lợi
- Ông Lợi đi làm hai giờ chiều mới về, có gì nói với tôi được không, tôi là người nhà ông Lợi,
- Xin bà làm ơn nói với ông Lợi đến nhà dưỡng lão CampBell đưa ông cụ về nhà vì dịch corona nhà dưỡng lão được lệnh phải giải tán.
Hoàng hoảng hốt nghĩ cái hoạ sắp tấp vào nhà, liền xuống giọng năn nỉ :
- Thưa bà, xin bà có cách gì tạm để ông già trên đó không, tốn mấy chúng tôi xin chịu, nhờ bà làm ơn giúp cho chúng tôi, chúng tôi sẽ hậu tạ riêng bà.
- Không được cô, tôi là nhân viên đâu có quyền hành gì, 19 người già trong viện xét nghiệm có 4 người dương tính, bị nhiễm virus, hiện cho nằm bịnh viện, số còn lại kết quả âm nên cấp tốc trả về nhà cách ly 14 ngày.
Đó là lệnh của ban phòng chống dịch. Hiện người ta về nhà hết, trừ ông cụ, bởi vậy cô phải báo cho ông Lợi biết, cấp tốc đến đưa ông cụ về. Thôi, cảm ơn cô.
Bỏ phone xuống Hoàng sững sờ : Làm sao bây giờ.
Lợi có một bà chị và một đứa em. Gọi phone bà chị, nhờ bà chị nhận ông già về tạm mấy ngày dịch hoành hành rồi sẽ tính sau :
- Chị nên đưa cha về một thời gian ngắn rồi sẽ tính, chị lo cho cha, bọn em chịu tất cả phí tổn cho chị
- Không được, nhà tui có một phòng, lớn nhỏ năm người ở, đưa cha về ở chỗ nào. Nhưng mà cậu mợ nghĩ sao, ba năm nay ổng đã ở yên rồi, thì để ổng ở tiếp cho hết đời, đem về làm gì.
- Bây giờ người ta không cho ở nữa, tất cả viện dưỡng lão đều bị đóng cửa. Thôi để em thuyết phục chú út thử.
Chú út viện lý do hai vợ chồng chú cả ngày đi làm , vì làm y tá ở bịnh viện nên dù mọi người đều phải ở nhà, hãng xưởng đều đóng cửa, nhưng hai vợ chồng chú không được ở nhà, thì làm sao có thì giờ chăm sóc ông già.
Trước lý do đó chị không thể năn nỉ câu thứ hai. Không còn cách gì nữa, năn nỉ ai cũng không được, chị liền nghĩ đến cách cuối cùng là im lặng xem như không được tin tức gì hết, và có thể cảnh sát xem như ông già không có thân nhân, và họ sẽ giải quyết theo hướng đó, hướng không có thân nhân.
Chị mỉm cười khen mình người sáng ý, thông minh. Chị biết rất rõ anh bạn của chồng chị, cách nay ba năm, có bà mẹ già ở Pháp sang thăm, bà bị bịnh, anh gấp rút đưa vào bịnh viện, độ vài tuần sau bà cụ qua đời. Bịnh viện liên lạc thân nhân mới hay, là số phone giả, địa chỉ giả.
Chiều hôm đó Lợi về hơi sớm. Đường vắng quá, một vài người lớn tuổi đi bộ có vẻ ké né trên lề đường, đeo khẩu trang, ra dáng thận trọng nghiêm nghị khác những ngày thường.
Quang cảnh khác hẳn, hơi rờn rợn, hình như ma quái núp trong cỏ cây, nơi nào đâu xa lạ hoang vu, chứ không phải nơi anh thường đi ngày hai bận, đi cắt cỏ cho một trường học gần nhà.
Anh vừa bước vào nhà, nghe phone reng, trong phòng bên cạnh chị chạy ra nhưng không kịp.
- Alo ! dạ..dạ .. dạ vâng …dạ..dạ tôi đến ngay.
Vừa đặt phone xuống, anh nói ngay :
- Bọn nó đuổi ông già về, bây giờ anh phải đi đón về.
Chị cố bình tỉnh, tuy giọng hơi run run :
- Thì anh ăn cơm rồi sẽ tính sau.
-Tính cái con mẹ gì, nó bảo trước đây hai ngày, họ về hết rồi, nếu chiều nay không ai đón về, nó báo cho cảnh sát biết và xem như xong nhiệm vụ.
- Hay là anh để cho cảnh sát nó giải quyết xem sao.
- Làm thế cha anh sẽ chết lạnh dọc đường cái trong đêm nay.
Bực mình anh vẫn giữ nguyên bộ quần áo cắt cỏ ra xe. Anh nghĩ cũng tại anh, năm đó ông già không chịu đi, lấy lý do già rồi đi làm gì, tiếng Anh không nói được không biết lái xe, hơn nữa, mẹ anh mới mất chưa giáp năm, bỏ đi thấy tội nghiệp quá.
Nhưng anh bảo cha anh nên đi, tuổi già ở Mỹ có đũ thuốc men, có bác sĩ giỏi, có binh viện tốt, nhất là tránh được cái nạn dùng thuốc giả, thuốc độc, của Trung quốc.
Bà chị cả của anh, người em trai út và nhất là vợ anh, liên tục lén anh, viết thơ về khuyên ông già nên ở lại Việt nam lo mồ mã cho mẹ mới mất, rồi sẽ gửi tiền, gửi thuốc Tây về cho ông.
Bởi vậy ông quyết định xoá bỏ hồ sơ H.O. Khi được tin xoá bỏ hồ sơ, anh phải cấp tốc về quê khuyên bảo ép buộc ông làm lại hồ sơ. Thế mà phải chờ đến trên mười năm, hổ sơ mới được tái xét, mới được ra đi.
Freeway 17 vắng quá, anh chạy hơi quá tốc độ nên chưa đến một giờ đã ra exit Campbell.
Theo con đường nhỏ đi sâu vào rừng rậm. Tuy chưa đến 4 giờ chiểu nhưng như sắp tối, vắng một cách kinh hoàng.
Anh nghĩ làm nhà dưỡng lão ở nơi này có khác gì một nhà tù nhốt mấy ông già gần đất xa trời.
Đậu xe phía trước, anh chạy vòng vào sân sau, không có một bóng người nào, phía trong hành lang xa, một ông già nhỏ thó ngồi bất động trên cái ghế dài bên cái xách vải .
“ Trời ơi ! cha tôi đây Trời !” Anh nhào tới ôm cha anh, ông già mỉm cười, nước mắt dầm dề :
- Thấy con cha mừng quá. Hai hôm nay cha ở đây một mình. Nếu tối nay con không đến, cha mò lần ra đường cái. Trời còn thuong cha.
- Cha ngồi đây lâu chưa ?”
- Hồi sáng giờ. Bà y tá bảo cha dọn đồ ra ngồi chờ người nhà lên, họ đóng cửa.
Lợi xách túi vải nói :
- Con cõng cha ra xe, đường đi nhiều rễ cây dễ bị vấp ngã.
Ông giả lẩm nhẩm :
- Cha ở đây đúng ba năm 4 tháng 18 ngày.
Lợi mừng thầm, ông già mình tuy ốm yếu nhưng trí óc còn khá sáng suốt mới nhớ được số ngày tháng năm ở khu rừng này.
- Bọn con đều khoẻ mạnh hết.?
- Dạ, vì bịnh dịch đang lan tràn nên ai ở nhà nấy không dám ra đường, nên mình con đi đón cha..
- Hai đứa cháu nội của cha lớn lắm hả, có đứa nào có vợ chưa.
- Chưa cha, bọn nó còn nhỏ, còn đi học mà.
Lợi lái xe chạy chậm vì đoạn đường xấu, sợ xe xóc làm mệt cha già. Nghe tiếng thở đều đều ông già ngoẽo đầu qua một bên thiu thiu ngủ.
Lợi định tạm để cha già ở cách ly tại garage xe. và anh định nghỉ cắt cỏ ít nhất 2 tuần để chăm sóc cha.
Anh nguyện lần này chính anh, chinh bàn tay anh, sẽ làm mọi thứ, từ nấu ăn, giặt dũ đến tắm rửa, đổ bô, lau cầu, không để ai nhúng vào, nhất là vợ anh.
Nhắc đến vợ, anh lo lắng rồi đây anh phải cố gắng chịu đựng, cố gắng nhịn nhục tối đa, để tránh những cuộc đổ vỡ cãi vã to tiếng. Nhất là không để cho ông già nghe được những lời cãi vã.
Anh chắc chắn phải làm được vì ông già sống ở garage biệt lập.
Bữa cơm tối hôm đó tuy rất đói nhưng anh ăn không ngon vì hình ảnh cha anh khi chiều làm anh rất xúc động, anh cảm thấy tội lỗi, một ông già gầy ốm một mình ngồi cheo leo ở bìa rừng vắng vẻ tiêu điều, vào một buổi chiều sắp tắt.
Tại sao một ông già phải bị đày đoạ như thế. Mâm ăn có 4 người, hai con anh ngồi một bên, vợ anh với anh một bên.
Hai đứa nhỏ và vợ anh mỗi người chăm chú vào chiếc Iphone, không để ý gì đến việc ăn uống.
Bỗng chị hỏi :
-Cha ăn uống gỉ chưa ?
- Cha mệt đang ngủ ngoài garage, anh đang nấu cháo cho cha
- Chắc anh gặp cha đang lang thang ngoài đường cái chứ gì?
Anh giả vờ không hiểu câu nói móc của chị, vì khi ra xe đi đón ông già, anh bảo nếu không lên đêm nay, ông già có thể chết lạnh trên đường cái.
Anh bình thảng trả lời :
- Không, ông già ngồi cheo leo một mình ở hè nhà dưỡng lão.
Hai đứa nhỏ thôi ăn đứng dậy, mỗi đứa rót một ly nước, lên lầu
Chị cũng thôi ăn, đứng dậy, anh liền bảo :
- Em ngồi lại anh có vài điều muốn bàn với em.
Chị ngồi xuống nhìn thẳng vào anh.
Anh đem cha vể đây ở tạm một thời gian, có thể nửa năm, một năm để ổng ổn định sức khoẻ, anh sẽ dẫn ổng về lại Việt Nam ở với bà cô ruột anh cũng đang sống một mình với đứa cháu trong họ.
Anh sẽ làm hết mọi việc từ đi chợ, nâu ăn, rửa chén, dọn dẹp trong nhà, lau chùi cầu tiêu nhà cửa, v..v..anh chỉ tha thiết xin em một điều ..một điều.. là cố gắng vui vẻ với ông già trong lúc ổng còn ở nhà này với chúng ta.
Nghĩa là em sẽ không làm gì hết, cố nhiên việc chăm sóc ông già là việc của anh, nếu em …thấy không thể được thì cũng nên cho anh biết.
Không khí nặng nề im lặng. Chị đứng dậy, chậm chậm đi lên lầu. Khi chị đi rồi anh bực mình tại sao lại đặt vấn đề với chị một cách thẳng thừng thô bạo như vậy, vô tình đẩy chị vào thế chống đối, anh cảm thấy mình kém cõi quá, làm vấn đề đáng lẽ đơn giản, hoá ra khó khăn phức tạp hơn.
Nhà anh có 4 phòng, trên lầu 3 phòng ngủ, 2 phòng tắm. Hai con hai phòng anh chị một phòng.
Tầng trệt 1 phòng ngủ 1 phòng tắm. Khi ông già chưa đến nhà dưỡng lão, ở phòng dưới này. Để ông già nằm một mình ở garage anh không yên tâm, đêm hôm có việc gì ông già kêu không ai nghe, anh đặt môt giường nhỏ anh nằm cạnh ông già.
Lấy lý do vì dịch corona, cách ly xã hội, nên anh yên tâm để ông già ở Garage cho đến khi hết dịch.
Cũng vì lý do đó anh giải thích với ông vợ anh và hai con anh chưa dám ra garage.
Thật sự ông già hiểu hết sự việc, nhất là suốt hơn ba năm nay, ba chục người bị “lưu đày” ( chữ của các cụ ở nhà dưỡng lão Campbell ) ở chung với nhau . Hầu như họ chung một tâm trạng bị con, tống họ ra khỏi nhà, vì tốn kém thì ít, vì người nào cũng có tiền già, tiền chánh phủ cấp cho tạm đũ sống, có lẽ vì người càng già càng làm cuộc sống của chúng mất tươi trẻ, mất hạnh phúc, và cũng chính người già bị gán cho là cái ổ vi trùng, ổ bịnh tật.
Người già đồng nghĩa với dơ dáy. v..v.. Tất cả họ, những người Việt nam ở trại Campbell, đều là cựu sĩ quan miền Nam Việt Nam sau ngày mất nước tháng Tư năm 75 (1975), trung bình mỗi người chịu gần 10 năn tù cộng sản.
Vì cùng chung một tâm trạng, một ngôn ngữ họ thông cảm với nhau họ không quá chán nản quá cô đơn như ở các nhà dưỡng lão khác nói tiếng Anh là chính, nên người nào không nói được, chịu rất nhièu thiệt thòi, có khi bị đánh đập vì bị xem như bất tuân các mệnh lệnh của y tá y công.
Vì chia xẽ vì thông cảm vì cùng cảnh ngộ họ tránh được những cãi vã, những xô xác với nhau, nhưng họ mỗi ngày mỗi chuốt thêm những oái oăm, những nỗi buồn vì bất hạnh với gia đình, với con cháu.
Mỗi ngày họ phết thêm vào bức tranh tập thể đó, một nét buồn thảm ảm đạm. Thế cho nên họ thiếu hẳn niềm vui, người nào cũng mang một bộ mặt âu sầu buồn thảm.
Thậm chí có người than rằng ở tù tuy mất tự do, tuy nhục nhã, nhưng ít nhất một tháng, hoặc 6 tháng, có gia đình đến thăm nuôi, và gia đình còn thương xót, còn tôn trọng, còn kính nể người đang ở tù, và còn hi vọng người tù còn có ngày về để cùng xây dựng lại cuộc sống, tạo lại hạnh phúc.
Trái lại vào trại dưỡng lão không mất tự do, nhưng gần như không cần tự do nữa, như bước vào giai đoạn cuối cuộc đời .
Họ thật sự bi bỏ quên. Có người suốt năm không có người đến thăm.
Theo ông khi vào trại, tổng số là 30 nguòi, và gần 4 năm sau chỉ còn 19 người. Mười một người lìa trần vì buồn bã quá, vì chán nản đến cùng cực, vì tủi thân, vì bị bỏ quên, chứ không phải vì những bịnh nan y.
Có những người không chịu uống thuốc, có người phản đối đi bịnh viện.
Từ ngày đưa cha về nhà anh thay thế vợ làm mọi việc trong nhà, anh mới biết rằng tuy công việc nhẹ, nhưng bực mình quá.
Quần quật từ sáng đến tối, không hết việc. Anh dọn cho cha anh và chính anh ăn ngoài garage, sợ cha buồn anh giải thích vì trong thời kỳ cách ly nên phải như thế. Vợ con anh ăn trong nhà.
Tuy ông hiểu điều giải thích của anh là đúng trong thời kỳ cách ly này, nhưng ông vẫn buồn buồn tủi thân. Ông mỉm cười tự thấy mình càng già càng khó tính, càng cô đơn càng khó tính.
Ông nghĩ đáng lẽ ở tuổi mình tuổi gần 80 phải dễ dãi , phải cởi mở, sao cũng xong cũng tốt. Ông nhớ lại cái đề tài này, trong nhà dưỡng lão, thường đem ra bàn luận với nhau trong nhóm anh em, và lúc nào ông cũng ở phe chỉ trích những người khó tính, và quả quyết vì tính xấu đó, mà con cháu nó không muốn sống gần với mấy người già, dù đó là ông bà nội ngoại.
Mấy người bạn của ông không đồng ý và cho rằng vì hai nền văn hoá Đông phương Tây phương đối lập nhau, nên mới có những bi kịch như vậy.
Rồi họ dẫn chứng ở Việt Nam chẳng hạn( trừ cộng sản) đứa bé lên ba đã được cha mẹ dạy dỗ lễ độ chào hỏi, trong khi ở Mỹ trẻ con lên đại học chưa có thói quen chào hỏi.
Vấn đề này với ông, chưa ngã ngũ, chưa tìm ra câu giải đáp thoả mãn.
Từ ngày ra khỏi nhà dưỡng lão Campbell. ông sống một mình ở garage ông hay nghĩ đến người vợ quá cố của ông.
Nếu bà còn sống, thì có lẽ đời ông không như thế này, không có chuyện ở nhà “ lưu đày Campbell”.
Càng nhớ đến bà, ông càng thấy ở bà có phẩm cách cao quí, một người vợ tuyệt vời, một người đàn bà suốt đời biết hi sinh cho chồng cho con, một người kính trọng cha mẹ ông hơn cả ông kính trọng.
Có hôm trong giấc chiêm bao ông thấy bà ngồi cạnh giường ông, ông mừng quá ngồi dậy thì bà lặng lẽ đúng dậy ra đi im lặng không nói một lời.
Rồi những đêm tiếp theo, ông mong được gặp bà nhưng không thấy. Ông tính sẽ nói với anh lập bàn thờ thờ mẹ để đêm đêm có chỗ ông thắp cây nhang, tội nghiệp. Nhưng ý nghĩ này bị dập tắt ngay, vì ông, và bạn bè ông đều biết, có bao giờ bọn chúng chấp nhận bàn thờ.
Anh vui vẻ hỏi cha :
- Hôm nay con đi chợ, cha muốn mua thứ gì, muốn ăn uống gì, con mua cho cha.
- Không, không, khỏi mua gì con, cha ăn gì cũng được, nhà có gì ăn nấy.
Anh vừa ra xe, thì chị và hai đứa nhỏ đến cửa trong nhà xuống garage, chị nói lớn trong nước mắt :
- Hai cháu và con chào cha. Nhờ cha nói với ổng có cái thư để trong tủ lạnh. Ổng không cần vợ, không cần con, nên bọn con ra đi. Nói xong chị và hai đứa nhỏ lui vào nhà. Ông bối rối không kịp nói gì. Mệt quá ông nằm đừ lên giường cảm thấy khó thở. Ông mê mang vào giấc ngủ hồi nào không biết.
Anh đặt mâm cơm lên bàn mới hay cha anh đang ngủ. Anh ngạc nhiên sao giờ này cha anh còn ngủ :
- Cha, cha, dây ăn cơm rồi hãy ngủ cha.
Ông già ngồi dậy bần thần không biết ở đâu. Anh nói lớn:
- Hình như cha bị cảm phải không.
- Không, hơi mệt thôi, không sao đâu.
Ông ngồi dậy cố nuốt miếng cơm, nước mắt dầm dề :
- Vợ con với hai đứa nhỏ bỏ nhà đi rồi
- Cha nói cái gì vậy cha ?
Ông lặp lại :
- Vợ con bỏ nhà đi rồi. Nó có ra chào cha và dặn cho con biết có thư trong tủ lạnh.
Anh vội vàng chạy vào nhà. Thư viết : “ Ông xem mẹ con tui không ra gì nên chúng tôi phải ra đi”. Viết vội vã chữ nguệch ngoạc, chỉ một câu thôi, không ký tên không đề ngày.
Tức qúa anh xé nát tờ thư, ngồi thừ xuống ghế nước mắt tuông chảy, anh khóc. Anh ngồi như thế đến 1 giờ sáng, giật mình nghĩ đến ông già, anh vội bước ra garage cố điềm tỉnh dấu cha anh.
Cha anh nằm im lặng hình như chưa ngủ, vì ông già cựa mình và thỉnh thoảng ho. Anh nghĩ phải cố gắng bình thảng trước cha anh. Mong hết cơn dịch anh sẽ đưa cha anh về Việt nam rồi anh sẽ đi tìm vợ con anh. Nhất định không để đổ vỡ gia đình. Anh nghĩ, lỗi do mình, mình bất tài quá nên mới ra nông nỗi này.
Nguyễn Liệu
San Jose ngày 15 tháng 4 năm 2020
Ngày cao điểm của trận dịch corona
Đời Cha sâu nặng nghĩa ân
Phận làm con nguyện muôn lần khắc ghi.
|
|
|
|
The Following 6 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
04-23-2020
|
#65
|
|
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Join Date: Jan 2013
Posts: 37,942
Thanks: 81,070
Thanked 56,786 Times in 24,153 Posts
Mentioned: 430 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 10758 Post(s)
Rep Power: 76
|
Chuyện một người tù cải tạo
CHU TẤT TIẾN
Trên thế giới có lẽ không có trại giam nào khủng khiếp hơn các nơi gọi là Trại Tập Trung Cải Tạo, bởi vì kẻ giam giữ đối xử với những người tù như những con vật, không cấp thuốc men, chỉ cung cấp lương thực để khỏi chết đói tại chỗ, trong khi bắt làm việc cật lực từ sáng đến tối. Các tù nhân phải dựng nhà cho cán bộ, khai quang, làm đường cho xe bộ đội chạy, trồng rau cho cán bộ vưà ăn vưà bán.
Ngoài ra, còn phải làm dụng cụ, tiện nghi cho cán bộ, như rèn dao, làm vali bằng tôn, đóng bàn ghế, và đan giỏ mây. Trong khi đó, kẻ giam giữ có toàn quyền sinh sát, muốn hành hạ, muốn bắn muốn giết lúc nào cũng được, không cần tòa án. Không kể những lần xử bắn tù nhân vì trốn trại, mà tù nhân lúc nào cũng có thể bị đạn bay vào mình. Tôi nhớ có lần đang gánh củi, một anh nói đùa với bạn:
- Mày trông như xì- ke.
Tên lính gác đang dẫn toán đi làm việc, đột nhiên nổi giận, lấy súng ra khỏi vai, nhắm luôn vào chân anh kia bắn một tràng:
- Ð. m. mày! Nói ai xì- ke?
Lần khác, toán chúng tôi đi làm rừng. Tới chỗ cổng gác, không thấy ai đứng đấy, anh trưởng toán bảo "thôi, cứ đi!" Vừa ra khỏi cổng chừng 10 thước, tên lính gác núp sau một thân cây, nhẩy ra, chĩa súng vào đám người ngơ ngác, nổ liền mấy phát, vừa nổ, vừa chửi:
- Ð.m. chúng mày! Ði mà không báo cáo ông à?
Anh em chúng tôi vừa thấy mũi súng chĩa ngang, liền nhẩy ngay xuống cái rãnh cạnh đấy, nghe đạn nổ trên đầu veo veo. Bắn hết một tràng, tên gác quát nạt chúng tôi leo lên, đứng xếp hàng cho hắn chửi đã đời.
Khi được thăm nuôi, anh em chúng tôi cứ phải đi từng đoàn, ra về lẻ tẻ, phải có anh em đi đón, kẻo gánh quà đi một mình, thì nhất định sẽ bịbộ đội bao vây, lột hết đồ thăm nuôi, rồi bị đuổi về trại, tay không:
- Ð. M. Ðằng sau quay, đằng trước bước! Chạy về trại, đứng lại láng cháng, ông bắn bỏ mẹ!
Tụi lính gác trấn lột hết quà của anh em như thế, nhưng đến đêm, lại bò vào trại, cầm từng gói đường, gói đậu mà bán lại cho anh em, lấy tiền!
"Ðường đây! Một kí lô ba đồng! Ðậu xanh đây! Ba đồng một kí!"
Có một đêm, anh bạn T. vừa mua xong kí đường, giận dữ kêu lên:
- Mẹ nó! Ðúng cái hộp Ghi gô đựng đường này, vợ tớ mới cho tớ hồi sáng! Nó cướp của tớ, giờ đem bán lại.
Trong Cà Tum, vì bộ đội ra vào trại rất thường, anh em có nhờ một tên bộ đội mua giùm đường, đậu. Tên này nhận lời, nhắn anh em gom tiền lại, hắn mua giùm. Lần đầu sòng phẳng, tiền trao cháo múc. Lần thứ hai, anh em gom lại, gần như toàn trại một số tiền lớn, nhờ mua giùm. Tên bộ đội hẹn giờ ra lấy hàng. Hai anh đại diện gánh một cái sọt lớn, ra rừng chờ đợi. Hàng trao xong, hai bạn gánh về. Chưa được trăm thước, thì một lũ lâu la hiện ra, tay súng gườm sẵn, hò hét um xùm:
- Bỏ gánh xuống! Hàng ăn trộm! Biết điều bỏ xuống, chúng ông bắn bỏ mẹ!
Thế là hai bạn đành bỏ hàng, chạy lấy người.
Cuộc sống truân chuyên như thế, ngày tháng dài bất tận như thế, ăn uống thiếu thốn như thế, lại thêm mỗi tối tẩy não, khiến cho đời sống tù ngục căng thẳng hơn. Năm 1975, tôi ở Trảng Lớn. Năm 1976- 1978, tôi ở Kà Tum, Khối 2, L 1 T 2 (?) có anh Mừng, Quân Cảnh, làm khối trưởng, Ngô Phước Cương (ca sĩ), Ngô Phuớc An (nhạc sĩ chơi Mandoline), Tuấn (Hải quân, độc tấu ghi- ta), Hùng "rống" (ca sĩ). Tôi làm Trưởng ban văn nghệ, kiêm quản ca. Ðúng ra, Tuấn được anh em đề cử làm Trưởng ban, nhưng trong lần đầu tiên, tập hát cho anh em, bị kẹt vì thiếu sư phạm, nên đánh nhịp tới lui, cũng không ai biết hát. Anh em la ó ầm trời. Thấy Tuấn vất vả, toát mồ hôi, tôi vì biết nhạc lý, nên nhẩy vào "cứu bồ", giữ nhịp cho anh em hát êm xuôi. Tối hôm đó, Tuấn qua lán tôi, thuyết phục tôi làm Trưởng Ban, và hứa sẽ đàn hát "số dách" cho tôi nhẹ gánh. Tuấn còn biểu diễn cho tôi nghe những bản nhạc Flamenco bất hủ cuả anh. Anh đánh đàn tay trái. Tay phải vưà gẩy dây đàn, vưà kẹp dây lại, biến thành trống. Những ngón tay trái vừa nhấn phím, vừa móc dây! Nghe anh đánh đàn, từ "Chinese Rose, đến "La Cumpasita".. hồn nguời nghe như bay vút đến một thiên đuờng nào. Dĩ nhiên là tôi nhận lời và sau đó, buổi trình diễn văn nghệ đầu tiên, lại là hát nhạc vàng! Tôi vừa được thăm nuôi, có đậu, có đường, nên nấu một nồi chè khổng lồ, mời Tuấn, Cương, An, Hùng đến hát "chui". Ban nhạc ngồi ở chiếc bàn tre thấp, quay ra sân trống, truớc cửa B1. Tuấn chơi ghi- ta, An chơi Mandoline, Cương và Hùng thay nhau hát. Tôi đứng đằng sau ban nhạc, dặn đi dặn lại các anh là nếu thấy tôi đá chân vào bàn, lập tức chuyển "tông" sang "Bác đang cùng chúng cháu hành quân" và các bài khác. Ðể tránh bị bộ đội đột kích bất ngờ, tôi cử hai anh làm "lính gác giặc", đứng ở cuối sân, chỗ gần cổng ra vào.
Tối hôm đó, trăng sáng mông mênh. Cả vài trăm anh em ngồi xếp bằng ngoài sân, nghe những ca sĩ "tù" hát "Love Story", "Anh đến thăm em một chiều mưa"... Trong ánh trăng bàng bạc, cảnh tượng một nhóm đông người ngồi yên lặng nghe nhạc, gợi lên trong chúng tôi, những tình cảm bàng hoàng không thể tả được. Tôi đứng lặng người, say sưa nghe hát. Bất ngờ, cảm giác thấy có hơi thở dồn dập gần tai, tôi vội quay lại, và điếng người khi thấy tên Chính Ủy đang đứng sát tôi, chăm chú lắng nghe! Vội vàng, lật bật, tôi đá chân vào bàn "lạch cạch, lạch cạch". Tuấn nhận ra dấu hiệu trước nhất, anh chuyển "tông" ngay sang "Ta vượt trên đỉnh núi cao Trường Sơn, đá mòn mà đôi dép không mòn..."
Cả ba bạn kia lập tức họa theo. Tên chính ủy đứng thêm một lúc, thấy hát nhạc "cách mạng" thì thở dài:
- Tưởng gì! Nghe nhạc này, chán bỏ mẹ!
Rồi quay đi. Cả bọn tôi thở dài. Phen này, cả lũ xuống hố rồi! Hai ông bạn làm "lính gác giặc" vì mê say nghe nhạc quá, đã từ từ bỏ vị trí vào tuốt bên trong, nên khi tên chính ủy vào, chả ai biết. Chương trình văn nghệ chấm dứt. Anh em lục tục về lán.
Ngày hôm sau, anh Mừng đi họp sớm về, gọi tôi vào:
- Này, tên chính ủy nó hỏi tôi, ai tổ chức, tôi đành phải bảo tên ông, vì không thể nói tên anh em khác. Nó bảo tôi : "Bảo thằng Tiến dẹp đi! Lần sau mà còn tổ chức hát nhạc đồi truỵ nữa, tao bắn bỏ mẹ!"
Thái độ hăm dọa nhẹ nhàng đó, có lẽ vì anh em hát hay qúa! Nhất là Ngô Phước Cương, giọng ca điêu luyện hơn các ca sĩ ngoài rất nhiều. Khi anh hát bài "Love Story" đến đoạn điệp khúc, giọng anh cao vút, khiến ai cũng mê mẩn.
Ban Văn Nghệ cuả chúng tôi, hồi đó, còn Ðiền, một nhạc sĩ trẻ. Anh chơi ghi- ta sôlô hay lắm, nhưng rất tiếc, anh không thuần nhịp. Khi vào ban nhạc, có bass, có ghi- ta "lead", có đàn "accord", tiếng đàn solo cuả anh lạc điệu. Tuấn cố gắng chỉnh hoài, nhưng không đuợc, nên đành cho anh ra ngoài ban, chỉ chơi solo một mình. Ðiền buồn lắm. Anh chỉ còn một nguời bạn thân, là con chim trắng có ngù, đẹp tuyệt, mà anh đã dậy bao ngày. Con chim cứ nằm trong túi áo cuả anh, thỉnh thoảng thò đầu ra, duơng ngù lên như chiếc mũ cuả lính La Mã. Số phận đắng cay không tha anh, khi qua Suối Máu, anh bị ung thư ruột. Những ngày cuối đời, tôi cứ phải sang anh vào buổi tối để làm massage cho anh ngủ, nếu không, thì anh đau lắm, gào thét kinh hoàng. Ðiền ra đi, khi anh vưà mới độ ba muơi.
Không được tổ chức nhạc vàng nữa, mỗi tối, tôi bắt đầu kể chuyện phim cho một số bạn bè thân thiết nghe. Trong số đó có Thanh, Huệ, Tập (Khối Phó Khối 3), Nguyễn Vũ (họa sĩ), Ngô Ngọc Trác (QGHC), Thắng và vài anh em khác. Nếu tôi nhớ không lầm, trong khối 3 có nhà nghiên cứu văn học Huỳnh Hữu Ủy. Vì việc kể chuyện phim như vậy, mà anh em gọi tôi là "Máy chiếu phim" hay "Nhà sản xuất phim ảnh". Mỗi lần kể, là được một chén trà "quặu", đặc quánh. Kể chuyện phim mãi cũng hết, tôi quay sang chuyện "chưởng". Tôi thuộc hai bộ "Lộc Ðỉnh Ký" và "Cô gái Ðồ Long" như húp cháo. Từ khi kể chuyện "chưởng", số người nghe tăng lên dần. Từ 5, 6 bạn đến vài chục người. Mỗi tối, sau khi ăn cơm xong, là anh em giục giã:
- Nhà chiếu phim đâu rồi! Ra đây! Ra đây mau lên! Khán giả đang chờ!
Và cứ thế, tháng ngày ở Kà Tum trôi qua, trôi qua!
Ðến năm 1978, chúng tôi chuyển trại về Suối Máu. Tôi được bổ vào Ðội 3, Nhà 12, K 4. Anh Mừng vẫn làm Ðội (Khối ?)Trưởng. Số tôi vất vả, nên sau khi các đội, khối họp lại, anh em vẫn chỉ định tôi làm Trưởng Ban Văn Hóa, Văn Nghệ, nghĩa là vừa Múa, hát, đóng kịch, vừa làm Bích báo mỗi khi có lễ, tết. Cùng làm việc với tôi có Tống Châu Khôi, Tham Sự Hành Chánh, làm Trưởng Ban Thể Thao. Tôi kiêm luôn Trưởng Ban Vũ, phải lựa 5 bạn có chân tay dẻo cùng với tôi làm thành một ban Vũ gồm 6 ngươiø, đi múa cho các trại bạn coi chơi. Với anh Hùng làm cố vấn, chúng tôi tập cho anh em múa Sạp bằng thanh tre. Vì không có nữ, nên tôi chuyên giả gái! Múa Guatamela, thì làm cô Mễ, múa Lơ thơ tơ liễu buông mành, tôi làm cô thôn nữ, vấn khăn mỏ quạ, áo tứ thân, yếm hồng, tay cầm quạt giấy, uốn éo. Cùng với Minh "lùn" (chuyên viên làm ảo thuật), cặp chúng tôi làm anh em cười bò lăn, vì cô thôn nữ quá cao, trong khi anh chàng kia qúa thấp. Sau khi tôi múa xong, bạn bè chạy vào nắm tay, sờ má tôi, nói:
- Mẹ kiếp! Cô này là cô Tây Lai, chứ con gái Việt nam sao mà cao quá!
Vài anh chạy lại, quơ tay quơ chân. Tôi giả bộ uốn qua uốn laị, tránh né.
Chúng tôi cười nghiêng ngả cho quên buồn.
Thực tế, những niềm vui ấy chỉ hiếm họa mới xẩy ra một năm hai, ba lần, còn lại lao động cật lực.
Những ngày tháng buồn tẻ, mệt mỏi duờng như dài hơn thuờng lệ. Tôi trở lại với chuyện "chuởng", với Ðồ Long Ðao, Truơng Vô Kỵ và Triệu Minh. Nhà 12 cuả tôi, buổi tối, biến thành sân khấu. Tôi ngồi trên võng đầu nhà, anh em ngồi nghe chăm chú. Bên cạnh tôi, luôn luôn có một ly nuớc trà, hay một chén chè ngọt. Kể chuyện như thế, đời tôi qua đi trong hạnh phúc. Nhưng cũng có lúc tái nguời.
Một hôm, tôi đang kể đến khúc Truơng Vô Kỵ đang ở nhà cuả hai chuởng môn phái Côn Lôn là Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn để chưã bệnh cho nguời vợ thứ năm cuả Hà Thái Xung bị hai con Kim Ngân, Huyết Xà cắn, bỗng nhìn thấy mặt anh em tự nhiên căng thẳng lạ lùng, cứ nhìn lên đầu võng mình chăm chăm. Tôi giật mình quay lại, thì thấy tên Chính Uỷ đang đứng ngay đầu võng cuả mình. Phen này thật khó sống yên. Trong một tích tắc, não tôi làm việc không ngừng, tôi cứ tỉnh bơ, coi như không có gì, tiếp tục kể, nhưng về các phuơng thuốc Nam! May mắn là đúng vào lúc mà Vô Kỵ đang tìm cách chữa bệnh cho cô Năm, nên tôi nặn óc tiếp theo:
- Mỗi buổi sáng, với nguời bị loại rắn Kim Ngân này cắn, phải tìm cho ra các vị sau đây: Lan linh chi, một gói, tì suơng hai chỉ, lạc đỉnh hồng, một cân, khổng tuớc đàm một chỉ. Hoà tất cả vào trong một ly nuớc. Cất chừng 3 tiếng đồng hồ, còn lại một chút cặn, đổ thêm nuớc vào, nấu tiếp cứ 3 thành 1. Cho nguời bệnh uống... Với nguời bị Huyết xà cắn thì khác hơn, buổi sáng ra ngoài vuờn , tìm ra cây Nhị tiên Hồng, có hoa mầu đỏ mềm, cánh nhỏ, đào xuống ba tấc...
Tôi cứ vừa mở miệng nói, vưà dùng óc, nặn ra các toa thuốc không có trên thế gian này, vưà nhìn thẳng vào anh em, như đang mở lớp dậy thuốc Nam vậy. Tên Chính Uỷ nghe mấy danh từ quái đản này khoảng 15 phút thì chán, bỏ đi. Sau khi hắn vưà ra khỏi nhà, tôi gục xuống liền. Vì động não quá sức, cứ cố tìm ra các tên thuốc tầm bậy tầm bạ, nên mệt lử, nằm thẳng cẳng.
Nhưng không vì vậy mà chuơng trình chuyện "chuởng" chấm dứt. Tôi kể hết nhà 12 thì sang nhà 16, đội 4, kéo dài cả năm trời. Mỗi buổi chiều, sau khi ăn xong, Tống Châu
Khôi, nhà 16, chạy qua nhà 12:
- Sư phụ! Sư phụ qua mau, anh em đang chờ.
Tôi còn mệt mỏi, tần ngần chưa qua, thì Tống châu Khôi tiến lại:
- Sư phụ để đệ tử cõng qua.
Việc phục vụ anh em hình như đã nằm trong máu tôi, nên không có cơ hội nào bảo vệ đuợc anh em, mà tôi lại không làm.
Một buổi tối, khoảng 7 giờ, đột nhiên tên Chính Uỷ mặt nám (mặt tên này bị một miếng nám đen ngay má), cho gọi tôi ra hội truờng, nơi treo bích báo kỷ niệm 2 tháng 9. Nhà tôi ngay cạnh hội truờng, nên vưà buớc ra khỏi cửa đã thấy anh Trần Ðức Thịnh, Ðại diện trại và tên mặt nám đứng đó. Anh Trần đức Thịnh, giáo sư Nguyễn bá Tòng, (hiện đang ở Canada) là nguời cứu mạng tôi hôm đó. Không có anh, đời tôi đã tiêu diêu miền nào rồi.
Tên mặt nám vẫy tôi vào chỗ treo tờ bích báo cuả Ðội, gằn giọng:
- Anh vẽ gì đây? Bôi bác chế độ hả? Vẽ gì mà tay què, tay cụt? Chê công nghiệp mất cân đối hả?
Nhìn lại tờ bích báo, thấy trên phần tưạ đề "Quyết Tâm", có hình một anh công nhân đội mũ bảo hiểm, một tay giơ lên, tay kia bỏ xuống, nhưng vì chỉ có một khung ngang, nên phần duới không có. Tôi nhún vai:
- Anh coi lại đi! Nếu tôi vẽ giơ cả hai tay lên, thì anh nói là "đầu hàng", nếu để cả hai tay xuống, thì lại là cụt cả hai tay sao? Ở đây, cái khung ngang, hẹp, nên tôi chỉ có thể vẽ một tay giơ lên thôi. Ðâu có gì là công nghiệp mất cân đối đâu!
Tên chính uỷ lại chỉ vào một logo cuả anh Minh vẽ hình chiếc xe máy cầy:
- Còn cái này nữa, bánh xe gì mà bị dây kẽm gai cuốn vào? Ý đồ muốn ám chỉ là công nghiệp Xã hội chủ nghĩa bị trì kéo lại hả?
Tôi bắt đầu mất bình tĩnh:
- Anh nói sao? Ðây là cái xe mới cáo. Bánh xe còn nguyên gai cao su, chúng tôi chỉ vẽ đại khái thôi, làm sao mà có kẽm gai ở đây?
Chưa thôi, tên Mặt Nám lại gõ tay vào bài viết cuả anh Giáo Sư Nguyễn văn Phú, (sau làm giáo sư tại Trung Tâm Nghiên Cứu Dịch Thuật Thành Phố):
- Này, xem này! Ðúng là kêu gọi anh em Trở Cờ, chống phá cách mạng. Còn cãi cái gì nữa?
Tôi đọc lại bức thư. Thì ra, đó là hai câu viết cho bạn bè ở nhà. Câu trên viết: Tôi mong có ngày chúng ta cùng "Trở". Hết hàng, xuống dòng, câu sau: để cùng nhau có cơ hội mà chơi "Cờ"... Hai chữ "Trở" và "Cờ" viết ở cuối hàng một cách vô tình, nhưng tên Mặt Nám này cố tình hãm hại nguời ngay. Thái độ cố tình gán ghép này để tìm ra một con dê tế thần đây. Ðột nhiên, tôi nổi điên lên:
- Tôi nói cho anh biết. Anh chỉ bới bèo ra bọ! Chẻ sợi tóc làm tư làm tám. Kiếm cớ hại nguời. Chúng tôi đâu có ngu. Ở tù như cá nằm trên thớt, anh muốn bắn, muốn giết lúc nào chả đuợc. Chúng tôi có chống anh, thì chống ở trong đầu đây nè, đâu có ngu mà chống trên giấy trắng mực đen như thế! Hai chữ này ở hai hàng khác nhau. Vô tình mà viết ra như thế. Anh muốn kiếm cớ để bắn tuị tôi chứ gì? Mẹ kiếp! Ðã thế, tôi nói cho anh biết, bắn thì bắn mẹ nó đi, đừng nói lòng vòng. Tôi đây này. Muốn bắn muốn giết thì cứ ra tay nhanh đi!
Thấy tôi nổi cơn nói một tràng, tên Mặt Nám cũng nổi cơn theo. Hắn chụp tay xuống bao súng, quát lên:
- À, thằng này chống đối cách mạng hả!
Anh Thịnh, cứu tinh, ngay trong phút giây ấy, vội giơ tay cản tên Mặt Nám:
- Khoan! Khoan! Cán bộ! Anh Tiến chiều nay bị "ấm đầu". Anh ấy mê sảng, nói tầm bậy, tầm bạ. Cán bộ đừng để ý.
Rồi anh quay về phiá nhà tôi, nói to:
- Anh em ơi! Ra cạo gío cho anh Tiến đi này! Anh ấy bắt đầu nói sảng rồi!
Trong khi tôi bị gọi lên hội truờng, một số anh em đã đi theo, đứng ngoài cưả ngó vào. Vưà nghe thấy anh Thịnh gọi ầm lên như thế, hai ba anh chạy ra ngay. Mấy anh đè ngay tôi ra đất, lột áo lên, làm massage liền, trong khi đó, A Cửu, Vua đan giỏ, đổ dầu gió vào lưng tôi, cạo soẹt soẹt.
Tên Mặt Nám đứng ngớ nguời ra, tay buông khỏi cây súng, rồi phải bỏ về. Anh Thịnh trách tôi:
- Anh nóng quá! Phải bình tĩnh để sống còn. Mai mốt trả thù không muộn. Hồi nãy, tôi không nhanh trí, thì anh mất mạng rồi! Còn đâu mà trả hận nữa!
Tôi cám ơn anh Thịnh và dặn lòng đừng làm Truơng Phi nữa. Ngày hôm sau, tên Mặt Nám kêu tôi lên phòng, chỉ vào mặt, mắng:
- Anh là thằng phản động, nhưng may mắn. Lần sau mà còn thế nữa, tôi bóp cò không tha!
Tôi chỉ mím môi, không nói chi, và gật đầu, đi về. Không làm Truơng Phi, đôi khi cũng hay.
Nhưng chỉ đuợc một thời gian, tính nào tật ấy, không bỏ đuợc, xém mất mạng. Lần này, đau đớn hơn, không mất mạng, mà mất danh dự.
Hôm ấy, như mọi ngày, nhà 12 chúng tôi trách nhiệm gánh phân tuơi ra đổ ngoài ruộng rau cho cán bộ. Khoảng gần 30 nguời lê buớc duới nắng gắt cuả trại Suối Máu, Biên Hoà về đến cổng trại cỡ 1 giờ trưa, đói lả. Vưà tới cổng trại, bỗng nhiên tên Sáu Méo, (chúng tôi đặt tên thế vì miệng hắn bị méo) quản giáo đội 3, hô lớn:
- Ðứng lại!
Tất cả ngơ ngác đứng nhìn tên Sáu Méo. Hắn tiếp tục hô to:
- Dàn hàng ngang ra, nguời này cách nguời kia một thuớc.
Lại đứng dàn hàng ngang, cách nhau một thuớc. Tôi cũng đứng theo lệnh, nhưng đến khi lệnh kế tiếp thì khựng lại:
- Tất cả quỳ xuống, dang tay ra!
Anh em chới với, trợn mắt. Thấy chưa ai thi hành, Sáu Méo gào to:
- Tôi "lói": quỳ xuống! Dang tay ra!
Sáu Méo rờ tay vào cây súng lủng lẳng bên hông:
- Nghe không? Quỳ xuống!
Ở đầu hàng bên kia, sát với chỗ Sáu Méo đứng, một vài anh lục tục cử động, có vẻ muốn quỳ. Ðột nhiên, tôi lại lên cơn điên. Tôi giơ tay, nói lớn:
- Chúng tôi không quỳ! Yêu cầu anh cho biết lý do.
Thấy một tên phản động lớn tiếng, Sáu Méo nhẩy ngay lại, tay phải rút súng, tay trái chỉ mặt tôi:
- A! Thằng "lày"! Mày chống đối cách mạng hả?
Tôi nhìn thẳng vào mặt hắn:
- Không chống đối chống điếc gì cả! Nhưng chúng tôi không quỳ! Anh có thể cùm giam chúng tôi, nhưng không đuợc làm nhục nhân phẩm chúng tôi.
Tên kia cũng bắt đầu nổi điên. Hắn lên đạn cái xoẹt, chiã ngay súng vào mặt tôi:
- Mày dám?
Nhìn thấy họng súng đen ngòm chĩa ngay vào mặt, tôi nổi xung thiên:
- Bắn hả? Bắn đi! Tôi nói cho anh biết, có bắn thì cứ bắn ngay mặt nhé! Ðừng bắn sau lưng, đừng bịt mắt! Tôi không sợ! Chỉ tức cái vô lý thôi! Tự dưng bắt quỳ mà không có lý do, muốn nhục mạ nhân phẩm Sĩ Quan Quân Lực Cộng Hoà à? Ðừng hòng! Chuyện gì cũng phải có lý do.
Sáu Méo, dân Bắc Kỳ vùng cao, thấy tôi cứng cưạ, cũng tự nhiên chùn tay. Hắn hậm hực:
- "Ní" do hả? "Lói" thì "nắm", "nàm" thì "nuời". "Nàm" không chất "nuợng". Ði đứng uể oải, như một lũ công tử bột!
Tôi chỉ tay vào đống quang gánh:
- Nhìn kià! Sáng nào tụi tôi cũng gánh đúng 50 kí lô phân tuơi, đi bốn lần, mỗi lần 5 cây số, tổng cộng là hai muơi cây số, mà cho ăn chỉ có hai củ khoai mì bằng hai ngón tay chéo. Lấy sức đâu mà làm? Anh chạy xe gắn máy, cũng phải đổ xăng thì xe mới chạy. Tụi tôi không có ăn, làm như vậy là quá sức rồi, còn thế nào nưã mới đủ chất luợng?
Nghe tôi nói một tràng như bắn ra- phan, tên Sáu Méo ngẩn nguời ra. Hắn đứng suy nghĩ một hồi, rồi hậm hực đút súng vào bao, hất hàm:
- Ðuợc rồi! Ðể đấy, về trại đi, tôi kiểm tra, anh mà "lói náo", tôi xử lý anh ngay.
Tôi cũng hất hàm:
- Cứ kiểm tra. Nếu tôi nói không đúng, anh cứ việc bắn liền. Thoải mái!
Tên Sáu Méo ra lệnh cho anh em nhà 12 về. Tôi vưà ngồi, thở ra đuợc một lúc, thì đã thấy Sáu Méo đến gọi "ra đây!" rồi đi truớc, tới nhà bếp. Tôi lẳng lặng theo sau, đầu cúi xuống, vì mệt mỏi. Con đuờng từ nhà 12 , đội 3 đến nhà bếp phải qua đội 2 gồm 4 dẫy nhà đâm ngang ra con đuờng đi chung. Sau đó, tới đội 1, gồm 4 căn nhà nữa, mới tới bếp. Ðây là con đuờng đau khổ nhất cuả cuộc đời tôi, vì chính nó đã làm cho tôi "thân bại, danh liệt". Ðang lầm lũi đi theo sau tên Sáu Méo đến nhà bếp để chứng minh, đột nhiên, tôi nghe thấy một tiếng nói nhỏ, phát lên từ một căn nhà đội 2:
- Ð.M. Ăng ten đi báo cáo!
Nghe mấy tiếng ấy, tôi rùng mình, muốn ngừng thở. Tôi liếc về dẫy nhà đội 2, thấy mấy cặp mắt đang trừng trừng nhìn tôi. Lạy Chuá! Sao lại có chuyện như vậy đuợc? Chân tôi như tê dại đi. Tim đập thật mạnh đến nỗi tôi hơi lảo đảo. Tôi muốn kêu lên, nhưng miệng tắc nghẽn. Nhưng tôi vẫn phải đi theo tên quản giáo kia. Không thể đứng lại và phân bua...
Tôi không trách loài người, không trách Chuá, nhưng chỉ trách số phận tôi không may mắn. Oan ơi! Oan!
Run rẩy mãi cũng đến nhà bếp. Sáu Méo gọi to tiếng:
- Quản cơm đâu?
Anh Hai "néo", bếp truởng chạy ra. Quản giáo Sáu Méo chỉ tay vào một trong những cái xô nhôm đựng khoai mì mà hỏi:
- Mỗi cái xô này cho mấy nguời ăn?
Hai "néo" trả lời:
- Thưa cán bộ, 10 nguời.
Sáu Méo tiến lại, thò tay vào đếm số khoai, mỗi miếng chỉ dài hơn ngón tay giữa một chút. Tổng cộng có 19 miếng, không đuợc 20. Sáu Méo không nói gì, lẳng lặng ra về.
Ngày hôm sau, hắn tập họp đội 3 lại, phân công theo "tua", mỗi nhà đi một ngày. Ngày chẻ củi, ngày lấy phân, ngày gánh nuớc.. Nhà 12 chúng tôi không còn phải mỗi ngày mỗi đi lấy phân như truớc. Anh em hả dạ, nhưng riêng tôi, đau xót như có ai đâm vào tim mình. Thà nó bắn tôi lúc trưa ngày hôm qua... Trời ơi! Nuớc mắt tôi ứa ra. Tính tôi không hay khóc, nhưng khi đó, thì nuớc mắt chẩy đầy môi, mặn đắng. Tôi mà làm ăng ten ư? Trời! Bố tôi bị đấu tố, mẹ tôi bỏ xứ ra đi, chịu nghèo khổ kinh hoàng. Nhà có ba anh em, hai anh tôi thì động viên. Còn tôi, lính tình nguyện. Tôi đã từng làm đơn xin đi Nhẩy Dù mà bị bác. Sau đó, lại xin đi Bến Hải, Cà Mâu, cũng bị bác đơn. Giờ này, lại bị mang tiếng "ăng ten"! Ðau hơn dao cắt thịt.
Nhưng số phận đã như vậy rồi, đành chấp nhận khi không thể tránh. Tuy thế, sự nghiệt ngã vẫn chưa buông tha. Chắc kiếp truớc tôi làm ác, nên kiếp này, đành trả.
Một buổi trưa nắng, tôi mang cái long ghi- gô vào bếp, để hâm lại môn "cháo khoai mì", cháo làm bằng khoai mì, trộn thêm nuớc, rồi bóp cho mềm, đổ thêm muối, bỏ vào lòng bếp, một lúc sôi lên, thì là một món ngon lành. Vì bếp rất cao, tôi ngồi xổm một mình ở đó, không ai thấy, nên tình cờ tôi mới rõ một sự việc khiến cho tôi bị hoạ lớn.
Vừa lúc lon ghi- gô sôi sùng sục, tôi nguớc lên về phiá cổng gác, tới chỗ nhà cuả quản giáo, tôi thấy Tống Châu Khôi, Tham Sự Hành Chánh, nguời vẫn xưng là "đệ tử" với tôi, nguời vẫn cõng tôi đi kể chuyện "chuởng", vưà lùi lũi buớc ra khỏi nhà cuả tên Sáu Kéc, quản giáo đội 4, trên tay còn cầm quả banh! Tống Châu Khôi liếc tới liếc lui, không thấy ai, nên dọt lẹ vào cổng. Hắn không nhìn thấy tôi ngồi thấp hơn cái bếp. Tôi muốn nổi cơn lên nưã...
Ðợi cho Khôi hấp tấp buớc qua chỗ núp, tôi gọi lớn:
- Khôi! Ðứng lại!
Tống Châu Khôi giật mình, nhìn quanh. Thấy tôi, hắn lúng búng:
- Tớ.. tớ đi bơm banh!
Tôi nghiến răng, vung tay vào mặt hắn, chửi liền:
- Ð.M. Mày làm ăng ten phải không? Mày đâu có nhiệm vụ bơm banh. Bơm banh đã có Thịnh lo, không phải mày. Mày báo cáo cái gì đó?
Tống Châu Khôi sợ hãi, xuống giọng:
- Tớ.. tớ nói thật mà! Ðây, banh nè!
Tôi nổi nóng, tiến tới, tính dọng cho hắn một quả. Hắn co cẳng chạy tuốt.
Ðã tính ruợt theo, rồi thôi. Ðã tính báo cho anh em hay, rồi cũng thôi. Tôi nghĩ rằng tên này sẽ hết dám. Thôi, tha Tào! Ðâu có ngờ vì sự yếu đuối cuả tôi, mà đời tôi tan nát.
Cuối năm 78, bộ đội bỏ đi, bàn giao lại cho Công An. Khi Công an tới, chúng khôn ngoan, không tỏ thái độ gì, chỉ xào lại danh sách. Từ K4 sang K3, từ K1 qua K2... Nghĩa là không cho bạn bè gần nhau nữa. Trại K4 nơi tôi ở toàn mặt mới. Không còn mấy nguời cũ đã từng nghe tôi kể chuyện, đã từng chứng kiến tôi đối đầu với quản giáo, hoặc ca hát, muá may cho anh em coi. Không khí căng thẳng hẳn lên. Nhiều xung đột xẩy ra, dẫn đến đánh nhau. Khi nghe báo cáo có mấy việc đánh nhau, tên quản trại chỉ nói:
- Việc cuả các anh, tôi chỉ quản lý nhân số thôi.
Thế là bùng lên một làn sóng dư luận sôi nổi. Nào là "công an sắp bàn giao cho Mỹ rồi", "Cờ ba sọc đã đuợc kéo lên ở Dinh Ðộc lập rồi", "Nguyên soái Nguyễn Cao Kỳ đã về đến Trảng Bom rồi"...Nghe tin này, nhiều anh em hùng khí nổi lên, đi đánh "ăng ten" lia chia. Tôi thấy tình hình hỏng bét, lên tiếng báo động:
- Anh em không biết đâu. Công an có nghề cuả chúng. Bây giờ, mới bàn giao, chúng cần tìm hiểu xem ai là ăng ten, ai chống đối. Chúng chờ cho ta ra mặt là chúng vớt, y như vớt bèo trong ao. Ðừng có nóng vội!
Ðang lúc xung động, đang hăng say đi đánh ăng ten mà không gặp trở ngai, những lời khuyên chí tình cuả tôi, như dầu đổ vào lửa. Mấy nguời mới đến nhìn tôi, nghi hoặc. Một chiều, nguời nằm sát tôi nhiều năm là Hưá Sang, Thiếu Uý Nhẩy Dù, ghé tai tôi nói nhỏ:
- Chết mẹ! Chúng nó định đánh anh rồi! Tôi cố cản, nhưng coi bộ không xong!
Tôi hỏi Sang:
- Cậu nằm trong ban "hành động", vậy mà cậu không bênh vực cho công lý ư?
Sang buồn bã:
- Anh hiểu cho tôi. Cả băng chúng nó, toàn thằng mới, có mình tôi, nói ai nghe.
Thuyết mập, ở nhà 16, nguời say mê nghe tôi kể chuyện, cũng chạy sang:
- Ông cẩn thận, có thằng nó tố ông là ăng ten. Tôi đang thuyết phục tụi nó.
- Ai tố tôi vậy?
- Không biết ai nữa!
A Cửu thì cẩn thận hơn:
- Tôi đi lanh quanh gần ông. Ðưá nào đụng đến ông, tôi nhẩy vào can thiệp.
Còn Hùng, Hoàng (Ðại Uý Công Binh) là những nguời cùng ở với tôi một thời gian dài thì chỉ nhìn tôi, thở dài. Nhìn quanh, toàn khuôn mặt mới lạ, đằng đằng sát khí.
Tôi vẫn cố khuyên bạn bè:
- Các bạn nhớ là công an nó sẽ vớt các bạn đó. Nên cẩn thận.
Còn cá nhân tôi, bình tĩnh chờ đợi. Khi không thể tránh đuơc rủi ro, thì cứ nhìn thẳng vào mặt nó.
Ðêm ấy, tôi hơi buồn. Bạn bè ra ngoài hội truờng hết rồi. Không khí căng như dây đàn. Tôi lấy cây đàn thân yêu ra ngồi xổm duới đất, chơi mấy bài nhạc cũ. Bất ngờ, đèn tắt phụp. Vưà ngơ ngác nguớc lên, thì "bụp", một cú đá bay vào giưã mặt! Với phản ứng quen, tôi lộn nhào ra sau, tránh đuợc cú thứ hai, và đứng dậy luôn. Trong ánh sáng mờ mờ, tôi thấy có bốn khuôn mặt lạ hoắc, chưa hề biết là ai, đứng nhìn tôi chằm chằm.
Bình tĩnh lau máu từ mũi chẩy ra, tôi hỏi:
- Các anh là ai? Tại sao lại đánh tôi?
Mấy nguời kia không nói nửa lời. Họ không tấn công nữa, khi thấy tôi thủ tấn vững vàng. Nhìn tôi chừng vài phút, nhóm nguời lẳng lặng bỏ đi. Tôi buồn bã lê buớc về chỗ ngồi. Vừa lúc ấy, Hưá Sang chạy về, hốt hoảng:
- Chúng nó đánh anh rồi hả?
Tôi gật đầu. Hưá Sang đẩy tôi ngồi xuống, lấy khăn mù xoa ra thấm máu cho tôi, rồi vắt khăn đi. Vì bị đá bằng một bàn chân rất mạnh, mũi tôi bị vỡ toang, xuơng bị dập, máu ra nhiều đến nỗi vắt đuợc thành giòng. Cùng lúc đó, A Cửu cũng chạy về, thấy máu tôi ra đầy áo, A Cửu lột áo tôi, và thay áo mới. Hùng kinh nghiệm hơn, giục Hứa Sang:
- Mày ra lấy nuớc, tao đun cho ảnh một chậu nuớc nóng.
Cả ba chăm sóc tôi kỹ luỡng như những Ma Sơ. Tôi bồi hồi nhìn các bạn, cám ơn nghẹn lời. Liếc qua cửa, tôi thấy ba bốn khuôn mặt vưà đánh tôi cũng đang ngạc nhiên nhìn vào, không hiểu sao một tên ăng ten lại đuợc anh em thuơng như vậy.
Sau khi thay quần áo xong, Hưá Sang, với hai bàn tay cứng cáp, bóp tay chân, lưng, cổ cho tôi. Mãi một lúc sau, Thuyết mới về tới. Cả Thắng "ròm" nữa. Bạn thì sưả lại cây đàn, bạn xếp dọn chỗ nằm cho tôi. Tôi vừa nói lời cám ơn thì tất cả đều gạt đi. Cùng lúc ấy, điều tôi tiên đoán đã xẩy ra. Sau nhiều ngày bỏ mặc, Công an đã bất ngờ nhẩy vào, bắn súng ầm ĩ, đạn chạm vào mái tôn, bật ra, kêu leng keng. Bọn chúng tràn vào như chó sói:
- Ở đâu, yên đó. Nhúc nhích, bắn chết mẹ!
Thế là anh em bị dính trấu. Không chạy kịp về phòng mình, một số anh bị còng ngay. Lần luợt, công an vào từng nhà, lôi các nguời bị đánh đi hết sang K.30 là khu bệnh xá. Tới luợt nhà 12, hai tên công an buớc vào hỏi ầm ĩ:
- Nhà này! Có ai bị đánh không?
Vì tôi không muốn xa anh em, nên lẳng lặng gục đầu xuống, dấu bộ mặt máu me. Ðã tuởng thoát nạn, tên công an sắp buớc ra, thì anh Hoàng, nhà truởng, lại đột nhiên đứng dậy, chỉ tay vào tôi. Tên Công an tiến tới:
- Anh này, quay mặt ra đây coi!
Không còn cách nào khác, tôi phải quay ra, và phải đi theo tên công an kia, sang K 30 bên cạnh. Lòng buồn như chết.
Ngay buổi sáng hôm sau, bọn công an uà vào trại, bắt ráo những nguời trong ban "hành động". Chúng khai thác tôi rất kỹ, nhưng tôi nhất định không khai. Tôi nói vì tắt đèn tối thui, tôi không nhìn thấy ai. Vì thế, mà chỉ đến ngày thứ ba, sau vụ đánh, thì anh em mới hiểu là họ đã mắc mưu kẻ chia rẽ rồi. Lý do đơn giản: tất cả những ai ở trong ban Hành Ðộng, lập danh sách, và đi đánh nguời đều bị nhốt con- nếch hết. Còn nhóm đánh tôi đều bình an! Tối hôm thứ ba, anh Nguyễn Lê Tuấn, gốc K.3, liều mạng chui rào qua thăm tôi! Anh là một chủ chốt trong nhóm "hành động". Việc anh liều chui qua hai lần hàng rào để thăm tôi là một hành động nguy hiểm, lính canh mà thấy là ăn đạn ngay.
Anh nói nhỏ:
- Tôi thay mặt nhóm để xin lỗi ông! Bây giờ, hỏi thăm anh em cũ, mới biết mình lầm. Ông chính là anh hùng của trại, lại bị oan, rồi kiên quyết không khai anh em, bọn tôi xin lỗi.
Tôi bồi hồi, xúc động:
- Không sao! Ở đời, ai chẳng có lúc nhầm. Biết đuợc mình nhầm, mà nhận lỗi, mới là anh hùng thiệt. Cám ơn các bạn.
Nguyễn Lê Tuấn trầm ngâm một lúc, rồi đưa ra đề nghị làm tôi tá hoả tam tinh:
- Tuị tôi.. mong ông trở về trại, lãnh đạo anh em!
Nghe Tuấn nói, tôi ngẩn nguời, lắp bắp:
- Ông nói sao?
Tuấn nghiêm mặt:
- Tụi tôi muốn ông làm lãnh đạo. Ông vừa can truờng, vừa tình cảm. Mong ông nhận lời.
Tôi bối rối quá, không biết nói sao, chỉ biết ú ớ:
- Nhờ ông chuyển lời giùm tôi, cám ơn anh em. Ðã hiểu nhau, là vô cùng cảm động rồi, lại đuợc anh em thuơng mến, tôi xúc động lắm. Xin anh em tha thứ cho tôi, khi hiện giờ, tôi không thể làm chi đuợc. Xin chờ cho tôi có cơ hội về lại trại nhe.
Cầm lấy tay Tuấn, tôi muốn khóc:
- Ông cẩn thận khi về trại. Bọn gác mà biết, nó bắn ông, không tha.
Nhìn theo bóng Nguyễn Lê Tuấn len lách, chui bò qua hàng rào, mà ruột gan tôi nóng bỏng. Tôi run nguời, chỉ sợ nghe thấy tiếng la "Ðứng lại" là một anh hùng ngã xuống.
May sao, không có chi. Bóng tối đã che chở. Ðuợc thể, tối hôm sau, Thắng "ròm" chui qua, dúi vào tay tôi mấy viên thuốc đau nhức:
- Ông cầm lấy, tôi biết ông bị đau lắm!
Tôi ôm lấy bạn hiền, mà nuớc mắt ưá ra.
Tối hôm ấy, tôi phải một phen lo sợ. Vưà lúc sắp đưa Thắng về, tự nhiên, tên gác nghi ngờ, buớc vào phòng, la to:
- Ở đâu, yên đấy! Không đuợc di chuyển.
Không biết làm sao hơn, tôi đẩy Thắng chui ngay xuống gầm cái chõng tre tôi đang nằm, rồi giải tấm chăn ra, cho thòng xuống hai bên. Tôi nằm trong chăn, trợn mắt méo mồm, như đang bệnh nặng. Tên gác đi qua, nhìn tôi rồi bỏ đi. Tim tôi đập mãi như trống làng cho đến khi biết chắc tên gác đã về, tôi mới đẩy Thắng ra.
Ngày kế tiếp, vì không muốn cho anh em lây hoạ về mình, tôi quyết định cũng vuợt rào về trại cũ. Ðợi khi khuất bóng trăng, tôi chùi xuống đất, vưà bò vưà gạt kẽm gai, vào tới đất trại cũ, tôi vui mừng đi kiếm bạn. Gặp ngay Trần Ðức Thịnh, anh kều tôi vào nhà, rót cho tôi một ly trà nóng, và xác nhận:
- Có tên... lập danh sách đánh ông để trả thù cá nhân. Nguời cũ, ai cũng biết nó là ăng ten, chỉ trừ có những anh em mới, không rõ, nên mới mắc mưu nó. Bây giờ mới hiểu, họ cô lập nó rồi. Nó không dám gặp mặt ai, cứ trốn trong nhà như chó cún.
Tôi cuời:
- Thôi, kệ nó với Trời. Kẻ nào gieo ác thì sẽ gặp ác.
Rồi tôi chaỵ đi kiếm Hưá Sang, Hùng, A Cửu, Thuyết. Gặp nhau .. băng đã đánh tôi hôm nọ. Mấy anh đang ngồi chơi, thấy tôi vào thì giật mình. Tôi vẫy tay chào họ, mỉm cuời. Họ hơi gật đầu chào lại. Không muốn làm cho họ khó chịu, tôi đi chỗ khác chơi.
Bắt tay, trò chuyện một hồi, đã tới nửa đêm, tôi phải chui rào về lại K.30. Biết một đi là không có dịp gặp lại, lòng tôi nao nao.
Rồi K. 30 cũng giữ chân tôi thêm vài năm, thêm bao kỷ niệm, nhưng cũng tại đây, một lần nữa, tôi đụng với cán bộ công an coi tù. Hôm đó, đang ngồi gẩy đàn Ghita, cây đàn này là chính hồn tôi, giúp tôi viết tù ca, không thể rời, tên công an quản giáo vào đứng ở cửa phòng, chống nạnh, nói lớn:
- Anh Tiến! cho tôi mượn cây đàn!
Trời! Cây đàn ghi ta còn trọng hơn trái tim tôi nữa. Đó là linh hồn tôi, là sức sống của tôi, làm sao mà đưa cho công an, để mất luôn! Không được! Đột nhiên, bao nhiêu buồn phiền, phẫn nộ, oan ức ở đâu ùa tới, làm máu nóng của tôi nổi lên, tôi la lớn:
- Đ.M. Con c.! Đéo cho công an mượn đàn!
Rồi tôi nghiến răng móc luôn 2 sợi giây đàn, giật mạnh lên. Dân đàn đứt “bực” một tiếng, nghe như tiếng tim tôi đứt vậy. Tôi giơ cao cây đàn lên cho tên công an thấy:
- Đàn đứt giây rồi!
Tên kia quê xệ, nhưng vì bất ngờ quá, không biết phản ứng ra sao, nên bỏ đi. Tối đó, hắn kêu nhà của tôi lại họp, kiểm điểm, tính làm thịt tôi.
Ngồi họp có Trung Tá Hoàng Hữu Hệ (Quân Nhu – Pleiku), Thiếu Tá Đặng Quýnh, thiếu úy Huỳnh Văn Á (Ban 3, Không Trợ, ăng tên thứ thiệt), Quế mập, Nguyễn Hạnh và khoảng hơn mười bạn tù cùng nhà. Tên Công An Quản giáo ngồi ghế, chúng tôi ngồi trên chiếu. Chắc đã được lệnh trước, tên Huỳnh Văn Á khai hỏa:
- Báo cáo cán bộ, chúng tôi là những kẻ lầm đường, lạc lối. Chúng tôi từng phản bội Tổ Quốc, chúng tôi phạm tội trời không dung, đất không tha, may nhờ Cách Mạng khoan hồng…
Mới nghe đến mấy chữ “chúng tôi… phản bội…”, cơn phẫn nộ vì cây đàn đứt giây lại như xôi lên, tôi ngắt lời tên khốn kia, chỉ tay vào mặt nó và gằn giọng:
- Anh Á! Nếu anh có phản bội tổ quốc, nếu anh có phạm tội trời không dung, đất không tha, thì anh phải nói: TÔI PHẢN BỘI, anh không được nói chữ CHÚNG TÔI! Chúng tôi không bao giờ phản bội Tổ Quốc, chúng tôi phục vụ cho Tổ Quốc Việt Nam! Nghe rõ chưa?
Tên kia đang thao thao lập công, bị tôi chỉ đúng cổ họng, cũng nổi điên, vụt đứng dậy, gào lớn, và chỉ tay vào mặt tôi:
- Báo cáo Cán bộ! Thằng Tiến này chống đối Cách Mạng, chống đối cán bộ. Chiều nay, nó chửi cán bộ: Đ.M. Con C. Đéo cho công an mượn đàn! Thằng Tiến này là phản động nguy hiểm, cần phải tiêu diệt!
Tên Công An quản giáo kia, bất ngờ thấy tình hình không như tiên liệu, và cũng có lẽ vì bị tôi chửi tục như thế mà không làm gì được, thì lại càng quê xệ. Hắn ngước lên vẫy tay, bảo tên Á ngồi xuống nhưng tên khốn này, được thể làm già:
- Báo cáo cán bộ, thằng Tiến này cực kỳ nguy hiểm, nó chuyên viết nhạc chống đối cách mạng, rồi hát cho anh em nghe. Tên này còn chui rào, trốn sang gặp bọn phản động bên kia trại…
Tên ăng tên này càng nói càng hăng, đến xùi cả bọt mép! Nhưng nó không biết rằng nó bị phản tác dụng, vì một thằng tù mắc tội lỗi tôi tầy đình như thế mà quản giáo đéo biết gì, nên tay công an kia quát lên:
- Tôi bảo: Anh Á! Đi ra ngoài. Đi ra ngoài! Ngay!
Tên Ăng tên kia hậm hực bỏ đi. Trong này, tên quản giáo thấy bể dĩa lung tung, nên cũng phất tay ra lệnh tan hàng. Tôi không bị xây sứt gì! Nghĩ lại thấy cũng hú hồn! May mà tên công an này còn non, khoảng dưới 30 tuổi, người miền Núi gì đó, cũng không gian ác lắm. Nếu mà tên công an này gốc Thanh Nghệ Tĩnh thì giờ này, xương tôi đã mục!
Tên Huỳnh Văn Á, sau buổi kiểm điểm, đi đến từng nhà, hăm dọa lung tung: “Đ.M. từ giờ phút này, thằng Tiến đi đâu, sẽ có bước chân tao theo đến đó, nó mà hát nhạc vàng nữa, là tao cho nó chết!”
Với tôi, thoát hiểm nhờ may mắn, và đã gây thù chuốc oán với tên ăng tên này rồi, thì thôi, biết thân biết phận, không có may mắn lần nữa đâu, từ đó, làm việc đàng hoàng, buổi tối, xong việc thì nằm một chỗ, tán gẫu một lúc rồi ngủ, không dám hó hé gì, để tránh cho tên kia kiếm cớ giết mình.
Trời không tha kẻ gian ác. Tên Á được về sớm, nhưng chỉ ngày hôm sau, anh em ngớ người nhìn thấy nó còng lưng vác ba lô đi vào cổng trại tù! Chưa hiểu tình hình ra sao, thì một tên công an thường nhận thuốc lá 555 của bạn tù tôi, tửng tửng đi vào nói: “Đ.M. Tôi chưa thấy thằng lào ngu hơn ló! Thằng Á ngu hơn chó! Về nhà, thấy vợ bán nhà, đi theo giai rồi, không kiếm được chỗ ở, nại nên trại xin vào nàm chân lấu bếp! Trại đâu có thừa cơm mà cho ló ăn. Chỉ cho ở tạm một đêm rồi đuổi quách! Đ.M. Tình nguyện vào tù để có chỗ ngủ! Đúng nà ngu nhất thế giới!”
Thời gian dần trôi. Tôi được tha cùng lúc với 3 Đại Úy Quân Y: Lương Tấn Lộc, Lê Hồng Khánh, Phạm Thanh Nhân (BS Nhân, sau nhiều lần vượt biên bất thành, vợ ở Canada từ chối không bảo lãnh, đã chích thuốc tự tử!)
Về nhà, gặp Nguyễn Lê Tuấn, bán vật liệu xây dựng ở Lý Thuờng Kiệt, Tân Bình. Gặp Trần Ðức Thịnh để hai thằng cùng đi dậy học chung với nhau. Qua Mỹ theo diện H.O., gặp biết bao bạn tù: Phạm Thanh Tâm (đội 2), Mùi "rỗ", Truờng "lắc", Hùng "Rống".. Mừng mừng vui vui. Kể chuyện về trại tù như một thời gian rèn luyện tâm hồn. Từ đó, với sự tiếp tay cuả các bạn đồng tù, Nhà Văn Bích Huyền và các bạn H.Ô mà tôi liều mình đứng ra tổ chức Cây Mùa Xuân H.Ô năm 1991 và 1992, tổ chức Tù Ca năm 1993 và 1994. Qua các cơ hội này, gặp thêm bao nhiêu bạn bè, chỉ nhớ mặt, mà không nhớ tên.
Lần đông đảo nhất là lần cùng với Nam Lộc và Tổng Hội Sinh Viên tổ chức gây quỹ xây Tuợng Ðài Chiến Sĩ Việt Mỹ. Những khuôn mặt phong suơng nhưng quả cảm cuả nguời Chiến Sĩ Quân Ðội Việt Nam Cộng Hoà lúc nào cũng toát lên niềm kiêu hãnh cuả một quân đội Bách Chiến, nhưng thua vì chính trị đểu cáng.
Thôi, đành mong lá cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ thân yêu mãi mãi tung bay khắp miền thế giới. Mọi tranh chấp rồi cũng qua đi. Con nguời rồi cũng qua đi. Chỉ còn lịch sử tồn tại muôn đời.
|
|
|
|
The Following 2 Users Say Thank You to cha12 ba For This Useful Post:
|
|
|
04-26-2020
|
#66
|
|
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Join Date: Jan 2013
Posts: 37,942
Thanks: 81,070
Thanked 56,786 Times in 24,153 Posts
Mentioned: 430 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 10758 Post(s)
Rep Power: 76
|
Cuộc di tản tháng Tư, 1975 – Hành trình lưu vong
04/26/20

Ngày 28 tháng Tư, 1975:
Buổi sáng, đạp xe đến sân trường trung học Nguyễn Thượng Hiền, nằm ngay góc ngã tư Bảy Hiền, thuộc quận Tân Bình tỉnh Gia Định. Những ngày qua, dù tin tức chiến tranh trên báo chí, truyền hình đầy tin dữ, tin buồn, nhưng học sinh trung học chúng tôi vẫn còn đến trường, lớp học vẫn còn thầy cô trên bục giảng, buổi trưa ở sân chơi vẫn đông đảo tôi và bạn bè. Vài đứa đã vắng mất, tiếng lau nhau bàn tán, chắc “nó đi rồi”.
Chúng tôi nói về tin tức những người đang được người Mỹ đưa rời khỏi Việt Nam thời gian đó, khi đạn lửa chiến tranh và tin tức quân thù phương Bắc đang tiến gần về sát gần thủ đô Sài Gòn. Tôi vẫn không nghĩ đến chuyện cá nhân mình hay gia đình mình sẽ rời khỏi Việt Nam lúc này.
Buổi sáng tôi còn tụ họp với những người bạn đồng lớp 11B1. Trí óc không còn ghi được lời thầy cô giảng hay chữ viết bài vở trong sách tập. Mỗi đứa nghĩ ngợi về chuyện ngày mai, chuyện của một tương lai rất gần, chuyện gì sẽ đến?

Sân trường Nguyễn Thượng Hiền
Buổi chiều ở trong ngôi nhà trong khu cư xá không quân Tân Sơn Nhất, nơi mà tôi đã sống ít nhất 10 năm nơi đây. Tôi vừa đạp xe đi ngang qua căn nhà của cô bạn gái thương yêu tuổi ban đầu, Tường Khanh, hình như vắng lạnh. Thời đó không dễ có điện thoại riêng ở nhà hay điện thoại cầm tay như thời nay, để mà tìm nhau khi cần có nhau.
Vài hôm trước đó, tôi còn đón tìm Khanh, ở một góc phố con đường Bà Huyện Thanh Quan ngập đầy những người con gái áo dài trắng Gia Long tan trường. Vài hôm trước đó, tôi còn hứa với Khanh, anh viết sắp xong rồi, viết cho Khanh một tập thơ tình bằng mực xanh trên giấy trắng “ca rô”, để giữ lại ngày sau kỷ niệm nếu lạc mất nhau vì hậu quả của cuộc chiến này. Cô bé ở gần nhà, cô bé ở chung cùng một khu cư xá Tân Sơn Nhất này, và mẹ nàng là một cô giáo khó tính nhất của trường tiểu học Tân Sơn. Thời đó, tôi không thấy người con gái nào ở tuổi đó, ở thế giới này, có thể đẹp và dễ thương hơn Tường Khanh.

Nữ sinh Gia Long. Hình Tư liệu
Buổi chiều, tiếng phản lực cơ chiến đấu A37 gầm thét ngang đầu. Hình như phải hơn hai chiếc. Tiếng bom dội từ những chiếc phi cơ vào một nơi nào đó, không xa lắm, chỉ ở trong lòng thủ đô Sài Gòn này. Căn cứ không quân Tân Sơn Nhất báo động. Tôi thấy nhiều người quân cảnh và lính không quân dàn súng ở ngay cổng ra vào căn cứ. Chuyện gì đó, tôi chưa kịp biết ngay lúc đó.
Hơn 10 giờ khuya, Ba tôi lái xe jeep về nhà, trong lúc cả nhà đã lên giường ngủ. Ông hối hả Mẹ và anh em tôi thức tỉnh gấp, ôm vội lấy vài bộ quần áo hay tư trang cần thiết, rồi đi ngay. Đi đâu, chúng tôi không biết. Ba tôi chỉ nói, ông đưa mọi người lên phi cơ rời Việt Nam đêm nay. Tôi bàng hoàng, tôi có định đi đâu. Tôi đang còn mơ mộng một tình cảm tuổi mới lớn dường như trải dài hạnh phúc trong tim tôi những tháng gần đây.
Tôi viết vội một lá thư ngắn vài chữ, chạy qua bên nhà Thanh Hương láng giềng trước mặt nhà tôi. Gửi cho Tường Khanh giùm Thi nhé Hương. Thanh Hương là cô bạn thân của Tường Khanh, đã từng giúp trao gửi những lá thư cho tôi và Khanh từ ngày quen nhau.
Tôi mang theo một tập thơ viết tay, mà những tháng qua đang viết và làm đẹp để là món quà cho Khanh mùa hè sắp tới.
Cả nhà lên chiếc xe jeep Ba chạy vội, rời bỏ khu xóm của một đời tuổi niên thiếu anh em chúng tôi đã sống và đã lớn lên từ nơi đây. Những con chó Nhật xinh xắn nhỏ bé nuôi trong nhà, dường như biết chuyện tai ương chia cách sắp đến giữa chúng và những người chủ, đám chó phóng lên xe jeep như đòi theo. Chúng tôi thả chúng vào sân nhà. Bỏ đi. Bỏ tất cả. Ở lại là những con người, cảnh vật mình thương yêu gắn bó gần một đời. Mang theo là trái tim và nước mắt, cố cuốn gọn hình ảnh ngôi nhà, người xóm giềng, lần cuối.
Có gia đình chú Trịnh Thành Tiết nhà sát bên chung vách, tiễn tay nước mắt. Có gia đình bác Nguyễn Văn Hữu là nhà của Thanh Hương, cũng kéo nhau đứng chia tay bùi ngùi. Họ đã không thể ra đi.
Chúng tôi vào phi đạo sân bay khu quân sự không quân. Lính quân cảnh chận xét hỏi giấy. Ba tôi có giấy lệnh ký từ ông tướng chỉ huy. Chúng tôi lên máy bay, chiếc C130. Ba tôi đưa chúng tôi vào trong lòng tàu, rồi bước ra. Như bao nhiêu người sĩ quan không quân khác, ông phải ở lại với tất cả những người lính, cho đến khi có lệnh cuối, cho đến khi giờ cuối (là giờ nào thì chưa biết) xảy ra. Mẹ và anh em tôi bước vào phi cơ.
Trong lòng tàu, đã có hàng chục hay hàng trăm người đang ngồi. Nhiều khuôn mặt xóm giềng thân quen đã nhận ra. Họ cũng đều là những gia đình không quân được phép lên máy bay di tản ra khỏi Sài Gòn, trước khi một biển máu có thể xảy ra ở thủ đô này, hay trước khi căn cứ Tân Sơn Nhất sẽ thành biển lửa với đạn pháo quân thù đang bao vây khắp nơi.
Tôi nhìn qua khung cửa sổ nhỏ của chiếc vận tải cơ, buồn quá, buồn chết ngất trong tim. Trong tim, có hình ảnh một người con gái vẫn thường mặc áo dài trắng sóng bước bên nhau những buổi chiều sau giờ tan học, trên những chuyến xe buýt, trên những chiếc xe lam, từ con đường Phan Thanh Giản về đến cổng Phi Long Lăng Cha Cả.
Qua khỏi nửa đêm, chờ dừng bớt những tiếng đạn pháo chung quanh, chuyến bay của không lực Việt Nam Cộng Hòa cất cánh chuyên chở những gia đình người lính không quân di tản khỏi vùng nguy hiểm.
Ngày 29 tháng Tư, 1975:
Khoảng chừng 3 giờ rạng sáng. Phi cơ đáp xuống đảo Côn Sơn, xa tít ngoài khơi của Vũng Tàu. Nơi này đang có trại giam tù binh cộng sản của chính phủ VNCH. Tôi còn nhớ phi trường có tên Phú Hải.
Khi mọi người cùng đứng dậy để bước ra khỏi thân tàu bay, tôi bất chợt mừng rú. Tường Khanh và gia đình đang ngồi ở một góc phía sau kìa. Khanh cũng mừng quá, nàng khều Mẹ la lớn mừng vui, Thi kìa mẹ ơi!
Phút chốc đó, là một khoảng ngắn hạnh phúc trong những điều hạnh phúc nhất của đời tôi, còn mãi cho đến hôm nay.
Chúng tôi đến bên nhau. Tôi giới thiệu Mẹ tôi với Mẹ Khanh. Bà cũng là một giáo viên. Mẹ tôi thời đó dạy học ở Ngô Sĩ Liên, còn mẹ Khanh dạy học ở Tân Sơn. Khanh nói, cứ ngỡ xa anh rồi, mừng quá đi. Tôi mừng muốn khóc, trao cho Khanh cuốn tập thơ mà tôi đã mang theo. Khanh ơi, anh không mang theo hành trang nào với mình, ngoại trừ cuốn lưu bút học sinh từ cấp lớp 9 có tất cả bạn bè lớp học anh thương, và cuốn thơ này cho một người con gái anh thương. Khanh mắc cỡ quá, nhận lấy cuốn tập nhỏ có ép một nhánh lá ngay trang giữa.
Trời còn tối lắm, chung quanh chúng tôi là biển đen, chỉ nghe tiếng sóng vỗ to. Tôi và Khanh đi dạo loanh quanh ở bờ biển, nói những điều hạnh phúc của lứa tuổi vừa lớn, còn nhìn thấy cuộc đời chỉ có rất xanh, rất hồng, hay màu tím.
Khoảng 7 giờ sáng, vẫn có thêm những chuyến bay từ Tân Sơn Nhất bay ra, đổ tiếp các gia đình không quân đi di tản. Đưa gia đình đến đảo, các ông phi công không quân lại mang phi cơ trở về, quay lại đơn vị. Có thể còn thêm những chuyến bay cho những gia đình không quân đang chờ ở Tân Sơn Nhất.
Nhưng những chuyện kể nhau nghe của người đến sau, khiến mọi người lo lắng, không nhiều hy vọng cho những người còn ở lại. Kẻ thù bắn pháo nặng nề, những chuyến bay không thể đáp xuống phi đạo khi quay về từ Côn Sơn. Có những chiếc phi cơ trúng đạn nổ tan trên giữa không trung.
Khoảng 9 giờ sáng. Sân bay phi trường rất nhỏ Phú Hải ngập đầy cả chục chiếc vận tải cơ C-130, C-119, C-7, DC-6, và trực thăng. Không quân VNCH đem máy bay ra đảo để di tản, tránh đạn pháo. Sân bay nhỏ, nhiều phi công lại cất cánh bay qua Thái Lan, họ đến căn cứ không quân Utapao của Mỹ tại Thái.
Nhiều người lính không quân từ Tân Sơn Nhất đã có mặt ở đảo. Thiếu bóng dáng Ba tôi. Hỏi thăm tìm kiếm không ai biết đúng, hay những tin tức ngược chiều nhau. Một người vai Dượng của tôi – dượng Khánh là ba của Cẩm Hồng, Hùng… kể với Mẹ tôi, là ông nghe nói Ba tôi bám theo một chiếc C-7 đang rời phi đạo, nhưng lên tàu không được, rồi bị rơi trở lại…
Mẹ và anh em chúng tôi buồn lo quá.
Sau 10 giờ sáng, có xe đưa mọi người chúng tôi đến khu vực nhà nghỉ mát ở biển, nhưng tôi ở lại sân bay cố tìm đợi một chuyến bay có Ba tôi.
11 giờ. Một số sĩ quan không quân tập hợp mọi người, lập danh sách và chuẩn bị đưa ra ngoài biển nơi có tàu hạm đội hải quân Mỹ đang chờ đón chúng tôi. Những chiếc trực thăng không quân VNCH đưa một số gia đình ra biển, nhưng không thấy họ quay lại đón tiếp những người còn lại. Những chiếc vận tải cơ, thì các phi công chọn trong danh sách ưu tiên một số thân nhân, hay thân quen, lên tàu để bay qua Thái Lan.
Chúng tôi ở lại đảo Côn Sơn suốt ngày, đêm của 29 tháng 04 năm 1975. Nhưng không ai có thể ngủ được.
Tôi và Khanh lại đi dạo trên cát, trên những đợt sóng nhỏ, nói chuyện của một thế giới chưa biết lòng thù hận.
Ngày 30 tháng Tư, 1975
8 giờ sáng. Các sĩ quan không quân lại họp mọi người, phân bổ theo danh sách để chọn người được lên tàu các vận tải cơ trên phi đạo, để bay qua Thái Lan. Ưu tiên cho những gia đình đã có chồng cha bay ra được Côn Sơn ngày hôm trước. Những phụ nữ và con cái gia đình thiếu vắng người chồng, cha thì ở lại chưa biết hoàn cảnh sẽ xảy đến thế nào. Trong tình thế này, có nhiều người bất mãn ngấm ngầm, dù họ là những gia đình cùng chung một quân chủng.
Cậu Tú của Tường Khanh, nổi nóng trước sự thiếu công bằng, chưa chi đã đòi bỏ nhau của những người sĩ quan đang dùng cấp bậc của mình mà quyết định danh sách, chuyện ai được lên tàu ai phải ở lại. Ông lớn tiếng, nhưng gia đình cản ngăn.
Nhiều người khóc, những phụ nữ như Mẹ tôi chưa biết tin chồng giờ này ra sao, chưa biết thân phận gia đình mình trên đảo này sẽ thế nào. Phía bên kia núi, nghe nói trại tù đã được mở, tù binh Bắc quân đang đổ ra sau khi có tin chính thức miền Nam Việt Nam đã thất thủ, ông tổng thống một ngày đã tuyên bố đầu hàng quân thù.
Khi tiếng nói đầu hàng từ vị đại tướng tổng thống yếu hèn vang lên trên làn sóng phát thanh, tất cả mọi người chúng tôi ở đảo, lặng người chết điếng. Nhiều người lại khóc.
11 giờ sáng. Có những chiếc ca nô nhỏ đổ vào gần bờ. Họ là những thủy thủ người Phi. Họ kêu chúng tôi lội biển ra tàu nhỏ. Trời lại mưa lớn, mọi người ướt hết, nhưng vẫn gắng lội qua những cơn sóng biển để ra các chiếc ca nô đón người.
Chúng tôi, hàng trăm người đa số đàn bà và thanh thiếu niên, con cái nhỏ, được các chiếc ca nô đưa ra một chiếc tàu thương thuyền lớn mang cờ Phi Luật Tân. Tôi và Khanh lên bong tàu đứng nhìn biển, nói chuyện. Sóng lớn, mọi người mệt rủ. Khanh cũng yếu lắm, nàng bị say sóng nặng, ói mửa và chóng mặt.
Ra đến hải phận quốc tế, tàu Phi đưa chúng tôi đến một tàu chiến lớn của hải quân Mỹ. Chiến hạm thuộc hạm đội hải quân Mỹ có trách nhiệm đón vớt cứu người Việt đang bỏ nước lưu vong. Chiếc tàu này đón khoảng 1.000 người Việt chúng tôi. Họ khám xét mỗi người chúng tôi rất kỹ. Những người lính thì hoàn toàn bị tước hết tất cả vũ khí.
Tôi đưa Mẹ tôi xuống lòng tàu, sau đó lại phụ tay với gia đình Khanh. Cầu thang đi xuống bên dưới lòng tàu, là nơi chúng tôi được đưa xuống, hơi nhỏ hẹp, tôi dìu Khanh bước từng bậc thang. Trong lòng tàu, hàng ngàn người nằm san sát bên nhau, không nệm không chăn. Người Mỹ phân phối súp cháo cho chúng tôi trong bữa ăn đầu tiên trên tàu. Nhưng mỗi người chỉ được một ly (cup) cháo mà thôi.
Trở lên bong tàu, tôi chứng kiến những chiếc trực thăng của không quân VNCH bay đến, khi đáp lên sân tàu và người sĩ quan phi công Việt vừa bước ra, thì người lính Mỹ xúm nhau đẩy những thân tàu trực thăng xuống biển. Có những chiếc trực thăng không thể đáp xuống sân bay trên tàu Mỹ vì lý do gì đó, người phi công bỏ trực thăng nhảy ra, rơi xuống biển, có ca nô lính hải quân Mỹ đến cứu vớt. Người lính phi công hào hùng của không quân VNCH lên tàu, bị tước hết súng ống, chỉ còn lại bộ đồ bay. Người Mỹ phát áo quần cho họ thay.
Những lúc đó Khanh lại mệt, tôi xin Mẹ tôi hai viên thuốc say sóng cho nàng. Mẹ tôi và mẹ Khanh nói chuyện với nhau, thân nhau hơn.
Ngày 01 tháng Năm, 1975:
Buổi sáng, mọi người thủ tục vệ sinh trên bong tàu, giặt giũ áo quần bằng nước biển. Sau đó, người Mỹ ra lệnh quay trở xuống lòng tàu.
Buổi trưa lại ăn cháo, nhưng cũng có thêm cơm. Cơm nấu sống quá, khó ăn.
Buổi chiều, tàu lại đón thêm khoảng 4.000 đồng bào được đưa qua tàu này, từ chiến hạm Midway và các xà lan đón người trên biển.
Sau lúc đó, mọi người chúng tôi được phép tự do lên bong tàu đi lại.
Khi đêm xuống, tôi và Khanh lại đứng tựa dây cáp thành tàu, nói chuyện. Khanh chia sẻ nỗi lo trong tôi khi tin tức về Ba vẫn chưa có. Tôi lo cho Ba tôi nhiều, cứ sợ điều không may xảy đến. Mẹ tôi cứ khóc, mắt luôn đỏ hoe.
Ngày 02 tháng Năm, 1975:
Tình cờ, trong số mấy ngàn người tỵ nạn trên tàu, tôi tìm thấy được hai ông anh họ vai vế là anh em cô cậu ruột. Anh Trịnh Bá Tùng, là thiếu tá phó trưởng phòng quân báo bộ tư lệnh không quân, và anh rể họ Nguyễn Quang Lập là đại úy không quân. Mừng quá. Có các ông anh họ, nên Mẹ tôi có chút yên tâm.
Tường Khanh lại giúp giặt áo quần cho các em tôi Vũ, Phương. Chúng tôi có thời gian bên nhau nhiều hơn, chưa lúc nào hai đứa có cơ hội ngồi bên nhau nói chuyện nhiều như thế.
Thức ăn cũng lại là cháo trắng và cơm, cùng nước lạnh.
Khuya tối, không ngủ được, hai đứa tôi lại lên bong tàu nói chuyện. Trời gió biển lạnh, tôi cởi chiếc áo hướng đạo sinh khoác lên cho Khanh, mình thì cởi trần chịu lạnh. Bong tàu nghẹt người đứng, như không ai có thể nhúc nhích bước đi. Mỗi lần bước chen lấn, tôi nắm tay Khanh như bảo vệ nàng trong vòng vây bởi ngàn người xa lạ.
Ngày 03 tháng Năm, 1975:
Buổi trưa, tàu cho mọi người cơ hội tắm rửa bằng nước ngọt, sạch. Xong lại ăn cháo trắng nữa.
Buổi tối, tôi nhập nhóm nói chuyện với những người bạn nhỏ cùng xóm giềng, cùng là những gia đình không quân Tân Sơn Nhất. Có anh em Tuấn Anh, có Chúc, có Sĩ, có Bảo… cùng tán nhau trên bong tàu. Phạm Mai Hương, bạn tri kỷ sau này của tôi, cũng có mặt cùng chuyến đi từ Tân Sơn Nhất đến Côn Sơn, rồi đến chuyến tàu này.
Tường Khanh từ dưới bước lên, cười với đám chúng tôi. Hai đứa tôi lại rẽ riêng một góc thành tàu, nói chuyện. Tôi hôn nhẹ lên những sợi tóc Khanh bay trong gió biển. Tóc nàng, có mùi biển và mặn của chất muối. Khanh cười với tôi, hai đứa bỗng nhìn nhau thật lâu trong im lặng.
Ngày 04 tháng Năm, 1975:
Tàu cập bến Vịnh căn cứ hải quân Mỹ Subic Bay tại Phi Luật Tân. Đám thanh niên trẻ chúng tôi kéo dây tàu, giúp các phụ nữ người già chuyển đồ xuống bến. Tôi phụ gia đình tôi, phụ tiếp đồ cho gia đình Khanh. Tôi nắm tay Khanh, đưa nàng xuống bến. Khanh nói với tôi, thôi anh nghỉ đi, mệt lắm rồi, đừng phụ người khác nữa. Tôi mang tinh thần hướng đạo, người nghĩa sinh những ngày đi học, không thể không phụ giúp người khác.

Căn cứ hải quân Mỹ Subic Bay tại Phi Luật Tân
Hành lý gia đình tôi và gia đình Khanh để chung với nhau. Các ông anh họ nhập chung với gia đình tôi. Trong hoàn cảnh mới, xứ người, giữa những hỗn độn không gian và thời gian đang xảy ra, vậy mà tôi thấy hạnh phúc quá. Những lúc đó, tôi quên Ba tôi vẫn còn đang thất lạc tin tức, không biết bị kẹt lại quê nhà hay đang trên tàu biển nào, hay đang ở Thái Lan vì nhiều chuyến bay không quân đã bay qua Utapao.
Tôi không ngờ giờ phút đó là giờ phút cuối giữa tôi và Khanh trong thuở ban đầu cuộc hành trình lưu vong xứ người. Các lính Mỹ tại Subic Bay đã đùa các nhóm chúng tôi vào một bên, vào một hangar căn cứ. Lúc này, tôi mất lạc nhóm của gia đình Khanh. Sau khi làm thủ tục, được ăn uống rất ngon hơn, gia đình tôi được đưa lên phi cơ không quân Mỹ bay sang đảo Guam. Nhưng tôi hoảng hốt khi không còn trông thấy bóng dáng Khanh hay gia đình Khanh ở đâu hết.
Cuối cùng, cả gia đình tôi và hai ông anh họ được đưa đến đảo Guam, nơi có gần 100.000 người Việt tỵ nạn dần dà được chính phủ Hoa Kỳ tập trung về đây. Mỗi ngày tôi lang thang các khu trại trên đảo tìm kiếm Tường Khanh.
Tôi không tìm được Khanh, nhưng đã gặp lại Ba tôi trên đảo này. Ông đã kịp leo lên một chiếc phi cơ C-47, hình như là chiếc phi cơ cuối cùng bay ra khỏi phi đạo Tân Sơn Nhất vào trưa ngày 29 tháng 04 năm 1975 cùng một nhóm sĩ quan không quân. Họ đã đến đảo Phú Quốc, và sau đó được đưa lên tàu Mỹ ngoài hải phận quốc tế như chúng tôi.
Gia đình chúng tôi đoàn viên trong hạnh phúc. Tôi vẫn buồn, nhớ Khanh.
Ngày 20 tháng Năm, 1975:
Người Mỹ đưa chúng tôi từ đảo Guam bay đến phi trường quân sự Travis vùng phía Bắc California, rồi lên xe buýt không quân Mỹ về đến trại tỵ nạn Pendleton ở California. Xe đến trại buổi trưa. Hàng trăm người ở trại này, ra tìm đón thân nhân ở bãi xe buýt đỗ người đến. Từ trong xe, tôi bất chợt nhìn thấy Tường Khanh trong đám đông đứng tìm chờ người đó, đôi mắt nàng bỗng mừng rỡ khi nhìn thấy tôi.
Có những tiếng reo vui, nhưng hạnh phúc nhất là hai đứa tôi.
Những ngày tỵ nạn hay lưu vong xứ người, thuở ban đầu kỷ niệm còn mãi trong tôi từng phút giây, đến mãi hôm nay… còn nhớ.
|
|
|
|
The Following User Says Thank You to cha12 ba For This Useful Post:
|
|
|
04-27-2020
|
#67
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Nắm cơm .
( Viết kỷ niệm ngày VNCH TỬ TRẬN 30/4/1975)
Trong ống kính là gương mặt của một cô gái chừng mười bảy mười tám tuổi. Mái tóc khô cứng xõa dài dưới cái nón tai bèo bự hầu như che hết phần đầu. Chiếc áo bà ba đen bên ngoài thân thể bé loắt choắt chưa tới tuổi dậy thì. Cây súng CKC bắn từng phát một còn cao hơn cả thân người.
Trước mặt Quang là một nữ VC đang ngồi trên chiếc xuồng nhỏ chứa được cỡ năm người lớn . Hiện tại chỉ có hai , cầm lái là một phụ nữ không thấy mặt nhưng dáng vẻ trưởng thành sốc vác vì sở hữu một bờ lưng khỏe, chắc,đưa hẳn về hướng khẩu súng của Quang .
Người đàn bà tiếp tục chèo chống trong khi người trẻ ngồi với tư thế thoải mái không ngó ngàng gì đến hai bờ kênh , vô tư trước tám cặp mắt của toán thám sát nằm phục kích. Chắc họ đã qua lại nơi này nhiều lần, hơn nữa đây là khu an toàn giải phóng họ không có gì để sợ.
Đứa con gái đang ngồi , gầy gò như thiếu ăn lâu năm. Tuổi này chắc gia nhập quân đội giải phóng từ hồi mười bốn mươi lăm tuổi. Cô gái du kích đột nhiên cởi khẩu súng đặt dựa sườn ghe, chĩa mũi về phía bờ kênh phòng hờ trường hợp có biến. Hành động lành nghề đối với một đứa con nít .
Toàn bộ chiếc ghe và hai VC nằm gọn trong tầm ngắm của Quang cùng toán thám kích . Chỉ chờ tiếng súng đầu tiên của trung đội trưởng .
Cách Quang bốn thước là Chín . Ngắm mục tiêu hồi lâu Chín kín đáo hạ súng hất hàm nhẹ về phía Quang. Ngón tay trỏ của Quang đặt trở lại nhè nhẹ lên cò.
Tình báo kỳ nầy sai , không có phái đoàn huyện ủy nào về dự đại hội. Kinh nghiệm nhiều lần phục kích cho biết chiếc ghe đầu chỉ dò đường. Thực ra không có cá lớn cỡ huyện ủy thì dớt đỡ mấy đứa này về trình diện Ông Quận Trưởng chắc cũng được tiền thưởng.
Quang lại tập trung vào gương mặt đứa con gái đang ngồi. Theo lẽ thường cỡ tuổi này nó phải có chút da thịt , ngực nhú lên theo thân thể. Thế mà ngoài gương mặt hốc hác, đen sạm mái tóc tua tủa rễ tre , thân thể nó chẳng thấy dấu hiệu nào về sự trưởng thành thiếu nữ.
Quang chầm chậm điều chỉnh ống nhắm , tập trung vào gương mặt lát nữa sẽ nổ tung như xác dưa hấu khi viên đạn M18 sẽ xuyên qua. Đột nhiên đứa con gái nói vọng lên người đàn bà đang chèo thuyền vài tiếng Quang không nghe rõ. Chỉ thấy người đàn bà lắc nhẹ đầu và tiếp tục chèo. Đứa con gái gỡ chiếc nón tai bèo xuống đứng hẳn lên đối diện với mũi súng đã lên cò. …
Chợt đứa con gái móc từ trong túi áo bà ba đen loang muối trắng mồ hôi một gói nhỏ bằng nắm tay người lớn. Nó bốc lớp lá chuối ở bên ngoài. Nó đưa lên cho người đàn bà, chị ta lắc đầu nhẹ. Đứa con gái ngồi xuống bẻ đôi chấm vào gói nhỏ hơn trên bàn tay còn lại. Một vắt cơm nắm và gói muối pha ớt đậm màu đỏ. Đứa du kích gái đang đói…
************
Trước khi về chỉ huy trung đội thám báo này Quang là trung đội trưởng của một đơn vị trực thuộc một sư đoàn dạn dầy chiến trận ở vùng đất nổi tiếng với muỗi mòng đĩa vắt. Hồi nhập ngũ Quang đã tự nhủ lỡ mặc đồ lính thì phải hoặc xanh cỏ hoặc đỏ ngực. Nhiều thằng cùng khóa cho là Quang bị tửng vì môn học nào trong quân trường Quang cũng siêng năng . Có lần Quang nghe mấy thằng hỏi “ Mầy khùng hả Quang ? học chỉ để đủ điểm ra trường thôi, làm gì ghê vậy !” Quang cười mỉm, đậu cao khi ra trường sẽ được ưu tiên chọn đơn vị, và Quang đã biết trước mình sẽ đi đâu rồi.
Ra trường thứ hạng đậu không được như Quang mong muốn. Đơn vị mà Quang ưa thích đã đầy, thủ khoa á khoa cộng thêm mấy thằng ở tốp mười lăm đã ghi danh hết. Thế hệ của Quang toàn điên vì đây là đơn vị tuyển chọn rất kỹ mà xác suất sống sót thấp nhất trong toàn quân đội.
Quang đành chọn đơn vị thứ hai là một sư đoàn bộ binh sừng sỏ , và cũng là mục tiêu nhắm tới của mấy đứa con nít phải thay áo học trò bằng áo trận. Quang về trình diện đơn vị mới, đầu tiên chỉ làm phó đàn anh để rút kinh nghiệm. Không kể sĩ quan hay mấy ông thượng sĩ già trong đơn vị, những người lính dạn dày sương gió cũng là những ông thầy có rất nhiều điều học hỏi.
Dần dà Quang trưởng thành, cứng cỏi trên trận địa . Quang chỉ huy lính dưới quyền bài bản và bắt đầu nhận được sự ngưỡng mộ của lính . Có những lúc Quang như thằng điên nghe tiếng súng địch ở đâu là cắm đầu xung phong lên mặc cho sĩ quan chỉ huy chửi như bắp rang trên máy. Lính thấy Quang nổi cơn khùng cũng đồng loạt điên máu xung phong cảm tử. Chiếm xong mục tiêu ngồi thở dốc Quang mới nhận ra sự ngu xuẩn của mình. Nhiều người lính nhìn ngưỡng mộ cũng có người khen “ Ông thầy ngon quá !! “ .
Sợ muốn rớt tim ra ngoài nhưng Quang đâu dám thổ lộ tâm sự . Chỉ biết mỗi lần nghe tiếng nổ và ngửi thấy mùi thuốc súng đầu óc Quang bị kích thích đến nỗi không còn biết suy nghĩ gì nữa, cứ xung phong trước mặt rồi ra sao thì ra. Sợ quá hoá khùng ….
Tới giờ này Quang vẫn chưa bị sứt mẻ gì ngoài một viên đạn xuyên đùi, hai miếng B40 nhỏ bằng nửa móng tay lồi lên thành hai cục ở bên ngực phải ( lành rồi thỉnh thoảng chúng lại nổi lên bắt ngứa ).
Hồi còn ở đơn vị này mỗi lần hành quân may mắn lắm mới đem đuoc trung đội thiếu ( mười tám mạng ) về nguyên vẹn . Lính nói Quang mát tay không sát lính. Cũng mong như thế còn hơn các trung đội trưởng khác trở về hậu cứ phải nhức đầu với mấy bà quả phụ ( Quang biết mình sẽ không chịu nổi ) . Bị thương thì OK, nặng một chút cũng là dịp để nghĩ dưỡng ở hậu cứ gặp mặt gia đình. Miễn đừng trùm bông sô . “Cẩn thận dùm con nha mấy cha “
**********
Quang không biết nhậu tửu lượng yếu , nhưng hành quân về hễ lính bày tiệc Quang không từ chối . Riết rồi tửu lương cũng tăng lên ,còn bữa nào gục tại bàn thi lính sẽ khiêng về đắp mền . Tỉnh lại thấy lính lo chu đáo nhiều lúc Quang rất cảm động. Tình huynh đệ chi binh còn đậm đà hơn cả anh em ruột thịt.
Những người lính thám báo trong đại đội được tuyển chọn từ các trung đội nghĩa quân và DPQ . Họ là người địa phương biết tường tận đường đi nước bước , từng gia đình. Có khi du kích phía bên kia là bạn thời thơ ấu trong xóm. Hết nhiệm vụ họ lại xách súng trở về nhà chừng mười lăm phút đi bộ. Nhiều khi khó phân biệt được nhiệm vụ của một quân nhân hay một dân sự, vì sự khác biệt duy nhất là khẩu súng .
Ở đơn vị này Quang thỉnh thoảng tưởng như đang sống giữa một gia đình sinh toàn con trai. Ra trận hoặc đi kích còn lệnh lạc , chỉ huy . Về nhà quăng hết chẳng phân biệt quan hay lính.Ở sư đoàn tác chiến, hệ thống hành quân rõ ràng , cộng thêm tình huynh đệ chi binh giữa quan và linh dù không nói ra nhưng vẫn có một giới hạn nhất định . Tuỳ thuộc vào cảm tình của lính trong cung cách chỉ huy đối xử với họ, đôi khi quyết định phần nào sự sống chết . Lính thương thì dám nhảy ra đỡ đạn cho ông thầy , lính ghét bỏ mặc chỉ huy cho VC xâm nhập cắt cổ ( từng xảy ra ở những đơn vị khác ). Linh dưới quyền sau một thời gian e dè xem xét ông quan búng ra sữa đã đổi cái nhìn hoàn toàn khác .
Những lần hành quân giải vây cho một tiền đồn hoặc đánh vào cứ điểm của VC, lính của Quang xung phong vào mục tiêu không e dè chậm chạp . Chỉ chờ tiếng hét “ lên “ là cả quan lẫn lính chẳng còn biết mạng sống của mình sẽ ra sau ,cứ nhằm những bóng đen trước mặt mà bắn. Cụ thể họ lao vào như thiêu thân gặp lửa đến nỗi nhiều địch quân bị bắt sống với nét mặt kinh hoàng không kịp nổ một phát súng .
Những lần xung phong như vậy, lính hai bên nổ súng không kịp nhìn mặt. Khi trúng đạn cái bóng phía trước giật nẩy người lên bật ngả ra phía sau hai tay giang cao , y như người lính giãy đành đạch chạy lụp xúp bên cạnh Quang mươi phút trước . Chết mà không biết mình bị bắn bởi thằng nào mặt mũi ra sao. Những xác chết được sắp xếp cho chôn tập thể hoặc trực thăng chở về hậu cứ trả lại cho gia đình chôn cất .
.Những tù binh bị bắt sống hốc hác thùng thình trong bộ quần áo xanh lá cây đậm, đặc trưng của quân phục VC.Toàn là con nít mười lăm mười sáu tuổi vừa đủ sức cầm vững cây súng trong tay. Trong chiến trận những đứa con nít nầy cũng hùng hổ hung tợn như điên cuồng xông vào đối thủ đang tấn công họ.
Bây giờ tàn chiến trận còn sống nhưng ở trong tay đối phương , họ sợ hãi. Bao nhiêu lần họ được học những giờ chính trị rằng lính Ngụy là những tên giết người không gớm tay sẵn sàng mổ sống tù binh để ăn gan mật . Còn súng trong tay còn anh hùng, giờ bị trói lại họ như những con cá nằm trong thớt.
Quang ít dịp nhìn tận mặt những đứa con nít như thế. Đang đánh nhau không thấy rõ , chỉ biết nả đạn theo quy luật chiến tranh “ bắn chậm thì chết “ , ai nhắm giỏi và bóp cò trước sẽ thọ hơn.
Nhiều lúc nhìn những đứa bé bên kia Quang tự hỏi liệu có đủ can đảm đâm lưỡi lê vào những lồng ngực nhô xương sườn như thế này không . Rất may từ đó đến giờ Quang chưa phải đối diện với chuyện như thế. Chiến trận kết thúc sớm hơn trước khi hai bên phải đánh xáp lá cà .
Có lần đám tù binh ngồi trước mặt ngoại trừ hai người lớn khoảng trên dưới ba mươi, còn lại toàn con nít la hoảng khi một người lính của Quang rút lưỡi lê đi về phía họ. Mấy đứa con nít mặt xanh như tàu lá chuối, khóc hu hu la hoảng :
- Bẩm quan xin đừng giết con, con đầu hàng rồi
Người lính đang bước tới chưng hửng :
- Mày nói gì vậy thằng nhỏ ?
- Dạ xin đừng đâm lê con, con lạy ông
Người lính bật cười :
- Đâm mày làm cái gì, giết mày thì tao đã bắn ngay từ ngoài kia rồi..Đưa tay đây !!
Người lính thiện nghệ thọc lưỡi lê giữa hai bàn tay bị trói chặt cắt đứt
- Đưa ra phía trước
Người lính ra lệnh , người tù binh sợ hãi rụt rè làm theo . Đám còn lại giờ đã hiểu rón rén liếc nhìn e dè. Người lính cười , đưa lưỡi lê dọa như sắp sửa cắt cổ, khiến cả đám nhóc tì la rú . Người lính cười ha hả :
- Nhát như tụi bây mà cũng ra trận đánh nhau với tụi tao thì làm sao thắng được ?
Anh rút gói thuốc lấy ra một điếu , mồi , đưa cho đứa gần nhất :
- Hút đi rồi chuyền cho mấy thằng kia…
Đám tù binh toàn lính chính quy dường như vẫn chưa tin được ,run rẩy đưa cả hai tay bị trói đón điếu thuốc hút lấy hút để.
Quang chứng kiến chuyện từ đầu đến cuối. Anh ngó lơ cho người lính dưới quyền mình đốt thuốc rồi đưa tù binh để mọi chuyện xảy ra cách tự nhiên . Nếu anh nhìn thấy rõ nét những gương mặt thất sắc nầy ngoài chiến trường không chắc anh và đồng đội anh đủ can đảm để nổ súng. Toàn là một đám con nít…
*************
Đứa con gái nuốt vội miếng cơm nắm trong miệng rồi lấy bình nước ở ngang hông đưa lên môi làm một ngụm . Tất cả đang diễn ra rõ mồn một trong ống ngắm của Thiếu úy Quang. Nếu anh nổ súng bây giờ, cả toán sẽ làm theo và hai người nữ du kích không có cơ hội nào sống sót.
Đây là lần đầu tiên anh nhìn thấy gương mặt rõ từng nét của kẻ thù. Cái cử chỉ nhai cơm nắm chấm muối ớt vội vàng của đứa con gái chỉ ra rằng nó đang đói lắm. Một phát súng nó sẽ bật ngửa ra phía sau mặt nát bét. Nó sẽ không kịp chụp lấy khẩu súng dựa vào bệ ghe để bắn trả. . Người du kích lớn tuổi hơn cùng số phận. Mạng sống của hai con người vốn không quen biết gì với tám lính thám sát sẽ chấm dứt bởi những họng súng đang chĩa vào họ.
Đột nhiên Quang run tay. Anh không kiểm soát được nhận thức của mình giữa nhiệm vụ trung đội trưởng thám sát và sự xúc động của một người anh. Hình ảnh đứa con gái suy dinh dưỡng trên chiếc ghe ọp ẹp nhắc anh nhớ lại đứa em gái út ở nhà .
Chẳng có gì giống nhau giữa hai đứa ngoại trừ em anh cũng ở tuổi này. Nó được ăn uống đầy đủ được đi học, được hưởng mọi thứ nên không gầy gò, thiếu sức sống . Nó lại bình yên giữa thành phố bên cạnh mẹ với đầy đủ yêu thương che chở. Chẳng ai sẽ làm hại nó, chẳng ai muốn lấy mạng nó bằng việc xiết cò súng . Cũng chẳng có mũi súng nào chĩa vào nó …
Chỉ cần một cái siết cò, mọi chuyện sẽ kết thúc, đứa con gái không còn phải chịu đói , toán thám kích sẽ trở về nhà nghỉ ngơi sau nhiệm vụ với chiến công kèm theo tiền thưởng. Sẽ có những bữa nhậu nhẹt quên đời, và chỉ vài ngày sau sẽ chẳng còn ai nhớ tới hai người du kích bỏ xác giữa giòng sông vào một buổi xế như hôm nay. Nắm cơm sót lại sẽ rơi xuống nước nuôi cá. Tám người lính thám sát sẽ nhận nhiệm vụ mới sau vài ngày nghỉ phép.
Nhưng Quang không thể siet ngón tay được. Có một cái gì ngăn anh lại, đồng đội gần anh nhất nhướng mắt nhìn anh tỏ vẻ khó chịu. Làm đi anh Quang , anh còn chờ gì nữa ? . Quang chỉ khẽ lắc đầu anh biết giải thích gì đây ?, chờ chút chờ chút, con cá mập chưa xuất hiện chờ chút…
****************
Chiếc ghe của hai du kích đã vượt khá xa gần đến gốc khuất. Kinh nghiệm cho Quang biết sẽ chẳng có cá mập nào xuất hiện nữa , chỉ có thế, hai du kích nữ. Mười hai phút đã trôi qua từ lúc nhìn thấy chiếc ghe do thám. Tin tình báo lần này trật lất …
Quang nhớ tới đứa con gái vẫn thường đi học ngang nhà anh mà nhiều lần anh rất muốn tìm cách nói chuyện. Cô gái mười chín tuổi đang học lớp mười hai ở một trung học lớn nổi tiếng . Má anh cũng bằng lòng và đã từng gợi ý nếu anh muốn bà sẽ tìm cách gặp gỡ cha mẹ cô gái để đi tới.
Nhưng Quang chưa dứt khoát. Lấy vợ khi vẫn còn là một sĩ quan nhí , lại ở vị trí tuyến đầu trong trận chiến như thế này không nằm trong chương trình tương lai của anh. Lỡ chẳng may một viên đạn hoặc mảnh pháo vô tình cắt đứt động mạch chính trên thân thể anh ? cô gái cũng có vẻ ung chịu vì cứ nhìn thấy Quang cô lại bẽn lẽn cuống quít vân vê tà áo. Chờ chiến tranh chấm dứt em oi…
Chưa bao giờ Quang tự vấn về cuộc chiến mà anh đang là một phần tử trong đó. Quốc gia anh đã sinh ra, lớn lên học hành đang gặp nguy khốn. Tổ quốc yêu cầu và con cái đứng lên cầm súng để bảo vệ. Đủ tuổi đủ sức khỏe Quang hưởng ứng, cầm lấy vũ khí, ra trường cứ nhắm quân thù mà bắn, hoàn toàn không cần biết địch thủ tên gì bao nhiêu tuổi sinh quán tại đâu, gương mặt như thế nào ? bắn để mà sống và bắn để bớt đi nguy cơ tổ quốc sẽ lọt vào tay địch. Nhiều lúc lật ngửa mặt xác chết còn có phân nữa vì phần còn lại đã nát bét Quang chắt lưỡi . Con nít nhà ai …? San mày lại ở trước họng súng của tao ? tao đâu có muốn bắn vì giết mày không đáng !! tao thích một đối thủ dày dạn xứng đáng , để chạm mặt với kẻ thù như hai giác đấu trong đấu trưởng La Mã đồng tài đồng sức . Đánh nhau với con nít như thế này không cần đến M16 vì hai tay trần Quang biết mình có thể chấp ba đứa . Những đứa trẻ còi cọc . Lính tráng gì như thế này: ra trận với cái nón cối làm bằng giấy bồi ép cứng, chân mang dép râu hoặc giầy vải, thùng thình trong bộ quần áo mỏng manh phần phật trong gió. Trang bị như thế mà đòi ra trận chống chọi với bom B52, với đạn pháo 105, 155… và những người lính dày dạn kinh nghiệm u đầu lỗ trán là cái chắc.
Quân đội của anh thiện chiến can đảm , đánh nhau không biết sợ. Nhưng giỏi cở nào mà bị buộc vào thế phòng thủ thì kéo dài đến trăm năm sau cũng chẳng thắng được. Giá như anh cùng đồng đội được xung phong đánh thẳng vào đầu não địch ở ngoài kia thì chắc cuộc chiến này đã chấm dứt lâu rồi
Trong khi đó địch thủ của anh thoải mái hơn, họ toàn quyền quyết định mọi chuyện trên chiến trường .Rút lui, tụ tập ,bồi dưỡng , vạch ra mục tiêu mới để tấn công, hoàn toàn dựa vào những lợi thế của mình.
Biết như thế nhưng những người ở cấp bậc như anh và lính dưới quyền làm gì được ?
**************
Chiếc ghe đã mờ khuất từ sau khúc ngoặc . Hai mạng người còn nguyên .Cô du kích còi cọc loắt choắt không biết rằng đã giữ được mạng mình cùng với đồng đội chỉ vì đang đói. Ít nhất được sống thêm một ngày nữa, và thân thể gầy gò vẫn còn cơ hội làm đầy bao tử mình bằng vài gói cơm nắm…
Quang uể oải trườn người nhè nhẹ về phía sau, những người lính dưới quyền cũng làm theo. Họ phải thận trọng vì vẫn chưa thoát khỏi khu vực nguy hiểm. Khoảng năm mươi thước, Quang dừng lại . Anh điếng người nhìn ra dòng sông giờ đặc nghẹt ghe tam bản với khoảng tám tới mười lính ngụy trang mỗi ghe và tiếng nói chuyện như chỗ không người . Cả toán thám sát thu người hết sức,một tiếng thở một tiếng động nhẹ cũng không nghe thấy . Lính thám sát nằm như chết trong bụi rậm mặc dù đã ngụy trang thật kỹ. Cầu trời khấn phật cho địch (cũng ngụy trang kín mít ) không phát hiện ra họ đang nằm dí trên bờ.
***************
Tám người lính đi như chạy , người kế bên sát Quang hỏi nhỏ :
- Thiếu úy, làm sao ông biết được chuyện nầy vậy ? tình báo đâu có cho biết ?
Quang ậm ừ, mồ hôi còn vã ra trên trán. Nhờ vào nắm cơm chấm muối ớt, nhờ vào thân thể bé loắt choắt suy dinh dưỡng của một đứa con gái lẹt đẹt như con nít, và nhờ vào một tình cảm không định hình rõ rệt chợt xuất hiện trong lòng Quang đã đưa cả trung đội thoát khỏi sự tàn sát của tiểu đoàn 482 địa phương lừng danh
Nguoiviettudo
|
|
|
|
The Following 4 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
04-30-2020
|
#68
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Truyện ngắn hay : ANH LÍNH NGỤY MAY MẮN.
Vào dịp cuối năm 1994, một buổi họp mặt các cựu tù nhân chính trị được tổ chức ở San Diego. Xướng ngôn viên của buổi lễ cho biết : “Khi tôi xướng tên trại nào, nếu quý anh là trại viên của trại đó, xin đứng dậy và tự giới thiệu tên của mình để các anh em khác được biết”. Nhiều trại cải tạo ở miền Bắc được lần lượt xướng tên như “Phong Quang”, “Yên Báy”, “Vĩnh Phú”, “Thanh Cẩm”, “Lý Bá Sơ”, “Nam Hà”, “Phú Sơn” v.v Trại nào cũng có năm bảy anh đứng dậy và giới thiệu tên của mình. Khi xướng tên trại Nam Hà, tôi đứng dậy và có thêm bốn anh nữa , trong đó có một anh, tự giới thiệu tên của mình là Lê Trung Đạo. Tôi lẫm nhẫm Lê Trung Đạo, Lê Trung Đạo…sao tên nghe quen quá, hình như anh ấy ở chung đội với tôi thì phải. Khi phần giới thiệu các anh em trại Nam Hà chấm dứt, tôi đi đến bàn của anh Đạo, đứng đối diện và nhìn kỹ anh ấy. Tôi nhận ra anh Đạo ngay. Tôi ôm chầm lấy anh, và anh ấy cũng ôm tôi trìu mến. Tôi thì thầm bên tai Đạo : “Em còn nhớ anh không? ” Đạo trả lời ngay: “Anh Uyển, mà sao em có thể quên được, thật vui mừng được gặp lại anh. Em trông chờ ngày này đã lâu lắm rồi!”
Khi cùng sống trong cảnh đọa đày nơi trại Nam Hà, phân trại C, tôi và Đạo nằm gần nhau. Ra đồng, bắt được con cua, con cá, tôi và Đạo cùng chia sẻ với nhau. Đạo là một Thiếu Úy Cảnh Sát Đặc Biệt, mới ra trường, không biết làm Trưởng G hay H gì đó..mà bị đày ra cải tạo ở miền Bắc.Anh còn quá trẻ, khoảng 24, 25 tuổi. Tôi xem anh như một người em của tôi và tôi rất quý mến anh. Đạo chưa lập gia đình. Anh chỉ còn một mẹ già đang sống ở Vĩnh long. Vì vậy, từ ngày bị đưa ra Bắc, Đạo chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân từ trong Nam gởi cho anh. Anh sống hiền hòa, vui tính, nên anh em trong đội ai cũng mến anh. Đạo xem tôi như một người anh trong gia đình, anh tâm sự với tôi : “Đời em chẳng còn gì nữa, chỉ có một người mẹ, mà từ ngày bị đày ra Bắc, đã trên 5 năm rồi em chẳng có tin tức gì của mẹ em. Không biết bà còn sống hay đã ra người thiên cổ”
Đạo nắm tay tôi và cảm động nói: “Giờ đây em chỉ có anh là người duy nhất thương mến em, cho em chút an ủi để sống qua ngày!”
Như có một động lực nào thúc đẩy, Đạo tâm sự với tôi : “Anh ạ,mình phải sống chứ anh, mà muốn sống, dù là cuộc sống thấp nhất, cũng phải có một ước mơ gì đó để mà mộng tưởng, để tiếp sức cho mình. Các anh em ở đây , dĩ nhiên ai cũng mơ ước sớm được trở về với gia đình. Ngoài xã hội thì kẻ này mơ trúng số, kẻ kia mơ nhà cửa , ruộng vườn v.v. Nhưng sống nơi địa ngục trần gian này, anh em mình mơ ước điều gì đây? Tất cả đều nằm ngoài tầm tay của mình. Em chợt nhớ lại một câu chuyện cổ tích của Pháp, tựa đề là “Un Peu De Soleil Dans L’eau Froide” kể lại câu chuyện một ông lão nghèo khổ, sống cô đơn một mình trong căn lều nhỏ bé, trống trước, trống sau. Bổng một bà tiên hiện ra và cho ông một điều ước. Bà tiên cứ nghĩ, thế nào ông lão nghèo nàn này cũng sẽ ao ước có một căn nhà, hoặc ao ước có nhiều tiền bạc..v..v. Nhưng bà tiên vô cùng ngạc nhiên, khi ông lão nghèo khổ ấy chỉ xin “Một Nụ Cười”
Đạo như chợt tỉnh, ông lão bất hạnh trong câu chuyện cổ tích, đã chỉ cho Đạo một mơ ước, mà dù trong hoàn cảnh nào cũng có thể đạt được, đó là một nụ cười. Không cần phải là nụ cười của giai nhân, mà chỉ cần một nụ cười thân ái của ai đó, chân thành trao cho anh, vì yêu mến anh, có thế thôi.
Cuộc sống tù đày cứ kéo dài triền miên trong đói khổ, vô vọng. Nhưng khi nghĩ đến một nụ cười, Đạo thấy tâm hồn mình có chút an ủi, nhẹ nhàng. Hằng ngày , Đạo ước mơ nhận được nụ cười. Đêm đêm Đạo cũng ước mong trong giấc mơ, anh sẽ gặp được một nụ cười. Nhưng buồn thay, những giấc mơ đến với Đạo chỉ là những cơn ác mộng mà thôi.
Nhưng thật kỳ diệu, từ ngày Đạo ôm ấp ước mơ có được một nụ cười, anh thấy cuộc đời của anh có chút ý nghĩa, vì dù sao anh cũng có một ước mơ, để mà thương, mà nhớ, mà mong chờ.
Một hôm, đội được dẫn đi gặt lúa, khi đi ngang qua cổng cơ quan, Đạo thấy nhiều chiếc áo vàng đứng ở đó. Nhìn lướt qua, Đạo chợt thấy một nữ cán bộ nhìn anh mỉm cười. Anh không tin ở mắt mình, anh nghĩ rằng có thể cô ta cười vu vơ gì đó, chứ đâu phải cười với anh. Anh quay lại nhìn một lần nữa, vẫn thấy cô ta nhìn anh và mỉm cười.
Từ ngày ấy, mỗi khi đội đi ngang qua cỗng cơ quan, Đạo đều bắt gặp nụ cười của người nữ cán bộ dành cho anh. Vì vậy khi đi lao động, Đạo luôn luôn đi cuối hàng để dễ đón nhận nụ cười của cô nữ cán bộ. Đạo cũng cười đáp lễ với cô ta. Đạo bắt đầu thấy cuộc đời của mình, có một chút gì thi vị, đáng sống. Khi ăn, khi ngủ, nụ cười đó luôn luôn theo anh, cho anh niềm an ủi, và chút lạc quan để sống. Anh em trong đội đều biết mối tình mắt nhìn mắt và trao đổi nụ cười của Đạo và cô nữ cán bộ.
Không những Đạo nhớ đến nụ cười, anh còn nhớ đến đôi mắt như muốn nói với anh muôn ngàn lời, anh nhớ đến người con gái ấy. Ban đầu anh nghĩ rằng cứ giã bộ vui vẻ cho qua ngày. Nhưng trong tâm trí anh, luôn luôn nhớ đến cô gái ấy và anh nhận ra rằng anh đã yêu cô ta. Đạo nhớ lại ngày xưa Elvis Presley đã hát một bài hát nỗi tiếng là bài Don’t Gamble With Love nay thật đúng như trường hợp của Đạo. Bây giờ Đạo không còn cho rằng lao động là khổ sai nữa, mà anh trông chờ mỗi buổi sáng được đi ngang qua cỗng cơ quan, để đón nhận nụ cười của người nữ cán bộ.
Một buổi chiều khi đi lao động về,nghe các anh em Công Giáo tập hát bài “Đêm Đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời”, Đạo mới biết, đêm nay là đêm Noel. Khi cửa phòng giam đóng lại, anh em Công Giáo vội vã thiết trí một ngôi sao Giáng Sinh và hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh” ở vách tường cuối phòng. Họ nắm tay nhau ca hát, đọc kinh, cầu nguyện. Đạo nằm mơ màng, lơ đãng nhìn về cuối phòng, chung quanh hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh”, Đạo tưởng tượng như có những bóng đèn màu chớp sáng. Anh mơ hồ nghe như có tiếng nhạc bài Silent Night dịu dàng thoảng đi trong gió…Anh thiếp đi trong giấc ngủ yên lành.
Vào một buổi sáng chúa nhật, chúng tôi được gọi ra sân để nhận quà của thân nhân từ trong Nam gởi ra. Thường thì 80 đến 90 phần trăm anh em đều nhận được quà. Riêng Đạo thì chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân. Nhưng thật bất ngờ, hôm nay cán bộ lại kêu tên Đạo lên nhận quà, ai cũng ngạc nhiên và mừng cho Đạo. Anh nhận một gói quà bình thường, nhưng cách gói quà , khác với những gói quà từ trong Nam gởi ra. Đạo sững sốt nhận gói quà, đem về phòng, cẩn thận mở ra. Một mãnh giấy nhỏ nằm trên những gói đồ ăn, anh đọc vội hàng chữ “Trìu mến gửi anh Đạo – Em : Kim Chi”. Với mấy chữ ngắn gọn đó, Đạo biết ai gởi cho anh món quà tình nghĩa này. Anh ôm gói quà vào lòng. Anh không ngờ người nữ cán bộ có nụ cười dễ thương đó, lại dám liều lĩnh gởi quà cho anh. Hai hàng nuớc mắt chảy dài xuống má, đây là những giọt nước mắt hạnh phúc mà từ lâu anh không hề có.
Trại Nam hà, Phân trại C, nơi chúng tôi đang ở, phía sau là con đường làng. Trại chỉ ngăn cách với bên ngoài bởi những bụi tre thấp và hàng rào kẽm gai. Dân chúng đi ở ngoài, chúng tôi có thể thấy họ. Thường vào buổi chiều, sau khi ăn cơm xong , chúng tôi hay ra ngồi chơi ở sân sau đó, nhìn người qua lại. Một hôm, chúng tôi thấy cô cán bộ Chi đi lui, đi tới ở ngoài hàng rào, rồi thình lình quăng vào trong một cái gói nhỏ. Chúng tôi biết cô ấy gởi gì đó cho Đạo, chúng tôi mang vào cho anh. Đạo không biết Chi gởi gì cho anh, nhưng anh cảm động lắm. Anh em hiếu kỳ đứng quanh giường của của Đạo, để xem cô Chi đã gởi gì cho anh: đó là một gói xôi và một con gà vàng rộm. Đối với tù nhân, đói triền miên như chúng tôi, thì gói xôi gà này là cao lương mỹ vị bậc nhất trên thế gian này. Đạo rất hào phóng, anh chia đều xôi, gà cho tất cả 32 anh em trong đội, mỗi người được một muỗng xôi và chút ít thịt gà. Có người ăn ngay, nhưng cũng có vài anh em để đó, hít hít mùi thịt gà cho đỡ thèm.
Đạo thấy thương Chi quá, vì yêu anh, nàng đã gan liều làm những việc như vậy, vì nếu bị phát giác, nàng ở tù như chơi. Đạo càng thương Chi khi nghĩ đến tương lai : một cán bộ công an yêu một sĩ quan cảnh sát ngụy..thì đời nào có thể sum họp được. Anh thở dài !
Vào một sáng chúa nhật, một anh trật tự đến phòng chúng tôi, bảo anh Đạo chuẩn bị ra có người thăm nuôi. Chúng tôi rất ngạc nhiên, vì từ bao năm nay, Đạo thuộc diện con mồ côi, chưa hề có ai gởi quà cho Đạo, nói gì đến chuyện thăm nuôi.Thế mà hôm nay, lại có người thân nào đó đến thăm Đạo. Chúng tôi mừng cho Đạo. Khoảng 9 giờ sáng, anh được cán bộ dẫn ra nhà thăm nuôi. Chúng tôi hồi hộp chờ Đạo trở vào để xem anh nhận được những quà gì của thân nhân đem đến.
Nhưng chúng tôi chờ mãi…đã ba , bốn giờ chiều rồi, vẫn chưa thấy Đạo trở vô trại. Thường một trại viên được gặp mặt thân nhân khoảng 15, 20 phút, tối đa là nửa giờ. Thế mà , Đạo ra nhà thăm nuôi đã hơn bốn, năm tiếng rồi mà chưa thấy vô. Chúng tôi bắt đầu lo lắng cho Đạo, không biết chuyện gì đã xảy ra cho anh, lành hay dữ. Và từ đó, chúng tôi không còn biết tin tức gì về Đạo nữa.
Hôm nay gặp lại Đạo, tôi đem chuyện ấy ra hỏi Đạo, anh đã kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây:
“Anh nhớ không, ngaỳ chúa nhật hôm đó, em được dẫn ra nhà thăm nuôi, nói là có thân nhân đến thăm. Em vô cùng ngạc nhiên vì em đâu có thân nhân nào từ trong Nam có thể ra thăm em. Bước vào nhà thăm nuôi, em thấy Chi và một ông Thượng Tá công an ngồi ở đó.Chi vội vã đứng lên giới thiệu : “Đây là cậu Du của Chi, đang công tác ở tỉnh Thái Bình, em nhờ cậu ấy đến thăm anh.” Đạo bối rối nhìn Chi, nhìn ánh mắt, nụ cười của Chi. Chi mặc đồ công an, trên cổ áo có đeo quân hàm Thiếu Úy. Chi biết Đạo ngõ ngàng, thắc mắc nên cô nói ngay : “Anh đừng lo, em bảo anh làm gì thì cứ làm theo, chớ có hỏi han gì hết”. Chi dẫn Đạo vào một căn nhà ở gần nhà thăm nuôi, nhà không có ai cả. Chi bảo tôi cởi bộ áo quần tù ra, và mặc ngay bộ đồ công an đã để sẵn ở đó; ngoài áo quần, có cả nón, cặp da và giấy chứng nhận đi công tác miền Nam. Tôi như trên trời rớt xuống, nhưng không có thì giờ để hỏi Chi, việc gì đang xảy đến cho tôi. Khi tôi đã mặc xong bộ đồ công an, Chi nhìn tôi mỉm cươì , rồi kéo tôi ra ngỏ, bảo tôi leo lên một chiếc xe Jeep nhà binh đậu sẵn ở đó., và chạy ra ga xe lửa Phủ Lý. Chi bảo tôi cứ ngồi trên xe, Chi vào mua vé xe lửa đi về Sàigòn. Khi đưa tôi lên xe lửa, Chi ân cần căn dặn: “Không nên về nhà, cũng đừng liên lạc với mẹ, mà tìm một người bà con nào đó ở tỉnh khác xin trú ngụ vài ngày, rồi tìm đường vượt biên. Tốt nhất là đi đường bộ qua ngã Campuchia”. Chi đưa cho tôi một gói giấy và nói: “Đây là ít tiền để anh tiêu dùng, nhớ là phải vượt biên ngay nhé!”. Chi cầm tay tôi và chân thành nói : “Em là vợ của anh, anh đừng quên em!”. Tôi ôm Chi vào lòng, nước mắt ràn rụa. Chi cũng khóc trên vai tôi. Xe lửa từ từ lăn bánh, hình ảnh Chi cô đơn đứng một mình trên sân ga, nhỏ dần, nhỏ dần.. Tôi thấy nhiều lần Chi đưa tay lên lau nước mắt. Trong tim tôi, mối tình mà Chi dành cho tôi quá sâu đậm, đã chiếm trọn cuộc đời tôi. Tôi vỗ vỗ vào trái tim của mình “Đạo, Đạo, mày phải sống xứng đáng để đền ơn đáp nghĩa cho Chi nghe chưa”
Khi xe lửa dừng lại ở ga Bình triệu, Sàigòn, tôi không về nhà tôi ở Vĩnh Long, mà đến nhà dì tôi ở Cần Thơ xin trú ngụ.Chồng của dì tôi là một Đại úy Công Binh Việt nam Cộng Hòa, trước năm 1975, ông phục vụ ở Tiểu Đoàn 24 Công Binh Kiến tạo, mới được trả tự do. Gia đình dì, dượng tôi đang âm thầm chuẩn bị vượt biên. Dì, dượng tôi vui vẻ chấp thuận cho tôi cùng đi theo. Tôi đã đưa gói tiền mà Chi trao cho tôi, cho dì tôi để bà tiêu dùng. Mở gói ra xem, dì bảo tôi : “Tiền đâu mà cháu có nhiều vậy?” Tôi trả lời ngay : “Của vợ con cho đó!”
Vào một đêm tối trời, ghe máy chở cả nhà ra cữa biển Đại Ngãi, vì tàu lớn đang đậu ở đó. Sau 3 ngày và 4 đêm, tàu của chúng tôi đã đến hải phận Thái Lan, được tàu tuần duyên của Thái Lan đưa về trại Sikiew. Trong cuộc phỏng vấn thanh lọc, nhân viên Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc hỏi tôi rất ít. Tôi nghĩ là họ có đầy đủ hồ sơ cá nhân của ngành Cảnh Sát Đặc Biệt. Họ chỉ hỏi tôi là làm Trưởng G hay Trưởng H, tôi trả lời. Người nhân viên đó lấy trong tập hồ sơ ra một tấm ảnh, anh nhìn tôi rồi gật đầu.Thế là tôi vượt qua cuộc thanh lọc. Mấy tháng sau, họ chuyển tôi qua trại Pulau Bidong ở Mã Lai, để chờ chuyến bay đi định cư ở Mỹ.
Tôi mau chóng gởi thư cho má tôi ở Vĩnh Long, báo tin tôi đã bình yên đến trại Pulau Bidong ở Mã Lai, đang chờ chuyến bay để đi định cư ở Mỹ. Khoảng 2 tuần sau, tôi vui mừng nhận được thư hồi âm của má tôi, và một bất ngờ thú vị đến với tôi là có cả thư của Chi nữa! Má tôi đã viết cho tôi : “Đạo con, má rất vui mừng nhận được tin con đã đến nơi bình yên. Má cho con biết là Chi đang ở đây với má. Chi đã kể cho má nghe hết mọi chuyện. Má rất hạnh phúc có được một con dâu hiếu thảo như Chi, má mừng cho con”
Đạo run run mở thư của Chi ra đọc: “ Anh Đạo yêu quí của em, nghe anh đã đến đảo và đang chờ chuyến bay để đi Mỹ, má và em mừng quá anh ơi. Khi anh đi về Nam chưa đầy một tháng, họ đuổi em ra khỏi ngành công an. Em đã về Vĩnh Long ở với má, em thay anh phụng dưỡng, săn sóc má, anh yên tâm ! “
Với lời lẽ chân tình, mộc mạc, tôi uống từng chữ, từng lời trong bức thư ngắn gọn của Chi, tôi áp bức thư vào ngực và đi vào giấc ngủ.
Năm 1982, tôi được đi định cư ở Mỹ. Khi có thẻ xanh, tôi đã làm hồ sơ bảo lãnh Chi. Trong thời gian ở với má tôi ở Vĩnh Long, không biết Chi hỏi thủ tục bảo lãnh ở đâu mà nàng ra Thái Bình, nhờ người cậu Thượng Tá Công An của nàng, làm một giấy hôn thú của tôi và Chi, có đầy đủ chữ ký và khuôn dấu đỏ xác nhận của chính quyền địa phương.
Năm 1987 khi tôi được nhập quốc tịch Mỹ, tôi đã bổ túc hồ sơ bảo lãnh. Chi đã nhanh chóng được phỏng vấn. Lúc này, những trường hợp gian dối chưa xảy ra nhiều, nên việc chấp thuận cho chồng bảo lãnh vợ tương đối dễ dàng nếu có đầy đủ giấy tờ chứng minh.
Vào một ngày se lạnh ở miền Nam Cali, tôi và vài bạn bè thân quen đến đón Chi ở phi trường Los Angeles. Tôi ôm Chi vào lòng, vì quá cảm động, tôi chỉ thốt lên được một tiếng “Em!” Chi cũng vậy, nàng thổn thức trên vai tôi “Anh!”. Chỉ 2 tiếng “Anh” “Em”, nhưng đã gói trọn cuộc tình mà chúng tôi nghĩ là không bao giờ có thể sum họp được. Tạ ơn Trời Đất !
Đạo xây qua người đàn bà ngồi bên cạnh anh, và giới thiệu với tôi : “Thưa anh, đây là Chi, vợ em” Chi bẽn lẽn cúi đầu, che dấu nụ cười đã đem lại sức sống và hạnh phúc cho Đạo.
Tôi đã được nghe , được biết nhiều mối tình ly kỳ, éo le lắm. Nhưng nếu nói đến một mối tình thật lãng mạn, mà người con gái đã dám hy sinh sự nghiệp và cả tính mạng mình cho người yêu, thì không thể không nói đến mối tình của nàng Kim Chi và chàng Trung Đạo.
Bửu Uyển
30-04-2020
|
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
04-30-2020
|
#69
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jan 2011
Posts: 14,587
Thanks: 26,981
Thanked 36,817 Times in 10,957 Posts
Mentioned: 21 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4327 Post(s)
Rep Power: 65
|
Quote:
Originally Posted by cha12 ba
cám ơn lời khen khích lệ từ ông anh  :handsh ake:
|
Cho một dĩa cơm tấm tàu hủ ky với một ly sinh tố nha ông bạn củ của bà Ngọc Diệp cơm tấm .
Truyện hay ủng hộ công sưu tầm của huynh .
 :handshake :
|
|
|
05-03-2020
|
#70
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Tự sự tháng 4 của một người lính già
Mỗi năm cứ đến tháng 4 là Lão (nick name của nhân vật) thấy buồn, trăn trở, suy nghĩ chuyện xưa, chuyện nay…
Cách đây 45 năm, những ngày cuối tháng 4, 1975 Lão vừa đúng 30 tuổi, còn đầy nhiệt huyết, đã cùng với đồng đội, dù bất mãn, bất phục, không cam lòng, cũng phải buông súng đầu hàng theo lệnh của vị Tổng thống 3 ngày, từ 28 đến 30 tháng 4. Thật tình mà nói thời điểm đó, Lão không có nhận định, phân tích nào rõ rệt về tình hình chiến sự, chính trị đang xảy ra chung quanh. Lão theo tàu công tác tuần tiểu rồi chở người di tản từ Vùng I vào Saigon không ghé qua Vùng II để Lão có thể về đón vợ con đi theo. Trên bờ, dưới biển, khối người di tản như bị đẩy xuôi bởi cơn nước lũ, cuốn trôi đi không cưỡng lại được. Tháng 4, từ Vùng I ra Phú Quốc rồi trở lại Sai Gon, Lão chứng kiến vô số người chen lấn tìm cách lên tàu ra khơi, vượt thoát ra nước ngoài nhưng Lão thì gần như dửng dưng, ngoài cuộc. Đơn giản Lão tự lý giải: năm 1954 đất nước chia đôi, nhiều người di cư vô Nam, thân nhân còn ngoài Bắc, chỉ cách con sông Bến Hải chưa đến 200 mét mà suốt 20 năm họ không hề được gặp lại nhau, nay đi nước ngoài một mình thì chừng nào mới gặp lại được mẹ, vợ, con và người thân? Trong chiến tranh nếu mình bị phía bên kia bắt làm tù binh, họ tra tấn để khai thác tin tức, nay hết chiến tranh rồi chắc bị nhốt một thời gian là cùng. Về sống với gia đình khi không còn chiến tranh là điều mà ai cũng mong muốn, cho dù có cực khổ cũng chấp nhận. Chiến tranh trên đất nước tội nghiệp này suốt 20 năm, bao nhiêu người cả hai miền Nam, Bắc đã nằm xuống, nhiều người đã bỏ mất một phần thân thể ngoài chiến trường, cha mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha; nay không còn chiến tranh, lẽ nào họ còn hận thù? Dù gì cũng là người Việt Nam với nhau. Chắc cũng có nhiều người lúc đó đã thật thà, đơn giản nếu không nói là ngây thơ, nghĩ như Lão.
Sau 2 tuần miền Nam hoàn toàn mất, Lão nhận giấy gọi đi trình diện học tập nhưng thực tế là đi tù. Lão nghe có người nói, miền Nam không thua ở chiến trường mà thua dinh Độc Lập, ở Washington DC. Là một người lính, Lão thấy có chút an ủi, như được rửa chút mặt mũi để cam lòng khăn gói vô tù. Trong tù, Lão có dư thời giờ để nghiền ngẫm về lý do miền Nam mất một cách tức tưởi. Ngày đi lao động, tối bụng đói meo, nằm gát tay lên trán, trằn trọc suy nghĩ. Những khi có dịp, năm ba đứa bạn tù ngồi xúm lại bàn tán chuyện những ngày tháng 3 tháng 4. Đứa thì đang đánh bất phân thắng bại với địch nhưng có lệnh rút quân; đứa chưa đánh đã rút; đứa đánh đến viên đạn cuối cùng đành phải để cho chúng bắt làm tù binh; trách lãnh đạo, trách người bạn “đồng minh” Hoa Kỳ đã phủi áo ra đi. Nhiều “tư tưởng lớn” gặp nhau trong những buổi “hội thảo nhỏ” này. Kết quả “thu hoạch” được sau những buổi hội thảo “ngoài luồng”: “Miền Nam mất vì nhiều lý do, trong đó có “đồng minh” Hoa Kỳ.
Ra tù, Lão nghe có một số người chê quân đội miền Nam hèn không đánh đến viên đạn cuối cùng đã đầu hàng nay đổ lỗi cho Hoa Kỳ để chạy tội. Lão nghĩ: Ừ, thì chúng tôi hèn nhưng rồi đánh được bao lâu? 2 tháng, 3 tháng? Hết viên đạn cuối cùng rồi sao nữa? Lúc đó anh đang ở đâu? Làm gì? Lão tự nhủ: mình chỉ là một quân nhân cấp bậc nhỏ, biết được bao nhiêu chuyện chiến lược, quân sự, chính trị trong nước cũng như thế giới nên không phê phán kiểu “giậu đỗ bìm leo?” Ai muốn chứng tỏ mình là quân sư, là “rồng nằm”, “rồng ẩn” (ngọa hổ, tàng long) trong thời chiến; nay mất nước, không còn chiến tranh thì muốn thành “rồng bay”, “rồng lộn” thì cứ thỏa chí, cứ “phán” như Thánh cho thiên hạ biết đến thì mặc họ. Lão ngã nón đi chỗ khác.
Chuyện nói Mỹ phản bội, có người không đồng ý. Vâng, thì mỗi người một nhận định. Bạn bè bắt tay hứa hẹn, anh giúp tôi cùng đánh kẻ thù nguy hiểm kia để hai ta cùng được sống yên ổn, hòa bình. Nay anh bỏ tôi đi bắt tay chơi với thằng đàn anh của nó trong khi anh biết làm như vậy là tôi chết chắc! Anh vì lợi ích gia đình nên phải làm thế. Tôi hiểu, tôi không đổ tội hay lên án anh nhưng cái nguyên nhân (khiến tôi phải thua đến mất nước) thì không thể không nói. Đạo lý giang hồ, tôi nói đó là hành động phản bạn, bội tín, tức phản bội, sai hay sao?
Được phóng thích về với gia đình, Lão chứng kiến đất nước trở lại thời kỳ đồ đá. Giải phóng miền Nam nhưng thực sự thì họ lại cướp của cải vật chất miền Nam mang về Bắc, cướp nhà chiếm đất, đuổi người dân miền Nam lên vùng kinh tế mới phá rừng, làm rẫy để kiếm ăn khiến cho người dân miền Nam đang có đời sống ấm no, đầy đủ nay trở thành tay trắng?
Người dân miền Nam tìm đủ mọi cách để vượt biên, vượt biển đi tìm tự do. Từ ngữ giải phóng nghe đểu cáng, dối trá muốn văng tục. Giải phóng tại sao trong lúc giao chiến đồng bào đều bỏ chạy về phía quốc gia? Khi đất nước “thống nhất” và được “giải phóng” rồi thì tại sao đồng bào liều mạng bỏ chạy ra nước ngoài tìm đất sống?
Qua tin tức từ nhiều nguồn, Lão biết được sau khi ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, miền Nam tuy đã mất nhưng rãi rác nhiều nơi có hàng ngàn người bất phục, hàng chục tướng tá, hàng trăm sĩ quan các cấp khác và binh sĩ tự sát, nhiều người tiếp tục chiến đấu, rốt cuộc họ bị phe thắng trận bắt tra tấn, xử tử. Hàng trăm ngàn người khác trong các trại tù “cải tạo” đã chết dần, chết mòn vì bị ngược đãi, hành hạ, thiếu ăn, thiếu thuốc, lao động khổ sai, họ đã chết trong các trại tù khắp cả nước nhưng thế giới đã làm ngơ? Con số tử vong kể trên cùng với hơn nửa triệu người bỏ mình trên đường vượt biên, vượt biển sau khi cộng sản cướp miền Nam đâu có ít hơn nếu ngày đó ông Dương Văn Minh đừng tuyên bố đầu hàng, đánh “ta-pi” một trận, đàng nào cũng chết nhưng họ chết oanh liệt hơn, không chết thê thảm trong đau đớn, tủi nhục.
Và, giá như sau khi quân miền Bắc thắng miền Nam, họ đối xử với quân cán chính miền Nam được một phần của tướng S. Grant, liên bang miền Bắc đã đối xử với quân của tướng Robert E. Lee liên bang miền Nam trong cuộc chiến tranh Nam – Bắc của Hoa Kỳ năm 1865 thì đất nước VN của Lão nay khác biết là bao nhiêu? Hàng trăm ngàn nhân tài của miền Nam, ở tuổi đóng góp xây dựng đất nước tốt nhất sau khi chiến tranh chấm dứt, đã bị hủy diệt, chôn vùi bởi sự hận thù ngu xuẩn, phi nhân của đám quan quân bên thắng trận.
Từ nước ngoài nhìn về quê hương, Lão chua xót thấy bánh xe lịch sử của đất nước Lão đang từng ngày quay ngược chiều.
– Cách mạng là nhằm xóa bỏ cái cũ, cái xấu để thay cái mới, cái tốt hơn nhưng bọn cộng sản trên đất nước VN của Lão đã làm ngược lại.
– Đấu tranh xóa bỏ giai cấp thì họ lại tạo nhiều tầng lớp giai cấp thống trị, bốc lột, tư bản đỏ.
– Giải phóng để không còn người bóc lột người thì họ lại tạo ra một đám quan quân, chính quyền, đảng viên, côn an không chỉ tham nhũng, đàn áp, bốc lột mà còn ăn cướp công khai có văn bản.
– Miền Nam đang phát triển, mặc dù trong thời kỳ chiến tranh nhưng kinh tế, mức sống người dân đã không thua kém các nước trong vùng như Thái Lan, Singapore, Malaysia, Nam Hàn nay đã bị thụt lùi hàng 100 năm so với họ.
– VN của Lão chưa có thời nào tuổi trẻ phải đi lao động, đi làm điếm ở nước ngoài để kiếm sống. Cũng chưa hề có chuyện người nước ngoài vào VN mua vợ và cũng chưa bao giờ nghe chuyện người dân VN ra nước ngoài trộm cắp để bị họ khinh rẽ như dưới thời “đỉnh cao trí tuệ”, “ưu việt” của cái xã hội chủ nghĩa bánh vẽ này.
– Miền Nam đang có một nền văn hóa khai phóng, đạo đức và nhân bản nay đã suy đồi ruỗng nát, phi đạo đức, từ trò đến thầy và cả một hệ thống giáo dục đâu cũng thấy phong bì, mua bán bằng cấp; phụ huynh đến trường bắt cô giáo quỳ; thầy cô phạt học trò uống nước giẻ lau bảng; nữ sinh từng đám đánh nhau, lột trần truồng trên đường và người qua đường thì “vô tư” đứng xem.
Người dân VN cả nước bị cộng sản lừa từ thời kháng chiến chống Pháp cho đến hôm nay. Những người lính như Lão, làm tròn bổn phận của một công dân, chiến đấu tự vệ để bảo vệ lãnh thổ, tự do cho mình và đồng bào mình, rõ ràng là cuộc chiến đấu có chính nghĩa nhưng lại bị thua trận đến mất nước chỉ vì kẻ thù thì dối trá, đồng minh thì bội ước, người dân thì thật thà đến ngây thơ nên không ít người đã tin chúng, tiếp tay chúng. Thù trong, giặc ngoài thì chính quyền, quân đội VNCH của Lão chịu sao nỗi? Hận thù, ân oán cá nhân có thể gát bỏ hoặc thời gian có thể nguôi ngoai chìm dần vào quá khứ nhưng tội ác của kẻ bán nước, đang diễn ra từng ngày, dân tộc Lão đang có nguy cơ bị Hán hóa, diệt vong thì làm sao Lão quên và không hận? Tất cả những oan nghiệt, tai họa đó đã ập xuống đất nước Lão vào ngày 30 tháng 4 năm 75. Vậy ngày này phải là ngày Quốc hận mới chính xác, không lý do gì Lão phải tránh né, đánh đồng hay ngụy biện bởi một nhóm chữ khác.
Có lúc Lão cũng tự hỏi: mình nghĩ nhiều quá như vậy để làm gì?
Ở cái tuổi “thất thập cổ lai hy” lại đang ở nước ngoài, Lão không dám mong làm được điều gì to lớn để góp một tay với đồng bào trong nước, Lão chỉ mong gìn giữ cộng đồng Lão đang sống ở đây, không cho lá cờ máu hiện diện; ngăn chận không cho những tên cộng sản theo chân người Việt tị nạn để nằm vùng chui rúc, len lõi như những con vi trùng, vi khuẩn phá nát, gây chia rẽ cộng đồng … Lão xem đây là một bổn phận mà những người thế hệ thứ nhất như Lão nên làm.
Những người thuộc VNCH xưa như Lão, có một trời kỷ niệm gắn bó, tha thiết với quê hương đất nước, am hiểu lịch sử đấu tranh của dân tộc; hiểu những gian trá, hiểm ác của đối phương, biết bạn biết thù; hiểu tại sao người dân miền Nam Việt Nam đã thua trong cuộc chiến tranh năm 1975; hiểu tại sao người dân trong nước đang đấu tranh hôm nay nên Lão cần phải truyền đạt lại cho con cháu Lão biết. Chúng cần phải hiểu tại sao chúng có mặt ở đây? phải biết rõ nguồn gốc, lịch sử dân tộc của mình. Và quan trọng là chúng biết phải nên làm gì cho quê hương đất tổ, hôm nay và mai sau. Nếu Lão không làm những chuyện này thì con cháu Lão lấy gì làm vốn liếng, hành trang nếu chúng muốn tiếp nối công việc dang dỡ của cha, ông. Với khả năng và sự thành đạt của chúng ở nước ngoài, chúng có thể tiếp tay hữu hiệu cho công cuộc đấu tranh của đồng bào quốc nội trong lãnh vực ngoại vận. Và, sau này khi chế độc cộng sản không còn, chúng có thể về mà xây dựng lại đất nước, chứ không phải bây giờ.
Ngày Lão bỏ nước ra đi, lòng cũng mang ít nhiều hoài bảo mong có ngày trở lại. Mới đó mà nay đã 45 cái 30 tháng 4! Thời gian trôi mau như “bóng câu qua cửa sổ” không khỏi ngậm ngùi. Tuổi trẻ nhìn về phía trước, tuổi già nhìn ngược lại phía sau. Lão chợt bâng khuâng thấy nhớ bạn đồng ngũ, nhớ em thơ và mẹ già “một mái đầu hoa trắng tiễn đưa…” lúc Lão ra đi nay người đã không còn nữa. Bất chợt Lão nhớ hai câu thơ trong bài Tống Biệt Hành của Thâm Tâm:
Ly khách ven trời nghe muốn khóc
Tiếng đời xua động tiếng hờn căm!
San Jose, CA 30-4-2020
Hồ Hải.
|
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
05-03-2020
|
#71
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Sài Gòn xưa của tôi .
Chiều nay, một chiều nhạt nắng… Ngồi nghĩ nhớ mông lung, rồi đọc thơ Du Tử Lê và nghe nhạc Phạm Đình Chương trong Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn, thấy mình trở về lại thành phố xưa với bạn bè và bao kỷ niệm.
Do đó có bài viết sau đây gởi đến ai kia còn giữ trong ký ức và tâm cảnh những hình và sắc và cả âm tiếng của Sài Gòn ngày trước.
Ôi, Sài Gòn của tôi xưa.
Phải rồi Sài Gòn với các đại lộ Bonard-Lê Lợi, Charner-Nguyễn Huệ, Catinat-Tự Do những năm cuối 50 đầu 60 của thế kỷ trước là thành phố của một thời tuổi trẻ.
Thuở ấy, mình tóc còn xanh, vừa mới chân ướt chân ráo từ Huế vào Sài Gòn, thấy cái gì cũng lạ. Phố xá, nhà hàng lộng lẫy, phần lớn mang tên Tây.
Vài năm sau, có sự thay đổi: tên Việt thay thế tên Tây -vẫn giữ lại tên những danh nhân thế giới, dù danh nhân ấy là người Pháp, như Calmette, Pasteur, Alexandre de Rhodes…
Những đường phố mang tên Tây, đa số là quan chức Pháp, được thay thế, như: Bonard – Lê Lợi; Charner – Nguyễn Huệ; Galliéni – Trần Hưng Ðạo; De la Grandrière – Gia Long; Catinat – Tự Do; Lacaze – Nguyễn Tri Phương…
Tuy nhiên, nhiều năm sau đó, theo nhà văn Nguyễn Ðạt, dân Sài Gòn vẫn nói: Ði bát phố Bô-na, Catinat; đi mua hàng ở thương xá Charner…, luôn là gọi tên Tây, cho 3 đường phố đẹp bậc nhất của Sài Gòn.
Một bạn ở lứa tuổi trẻ hơn một chút, gần đây viết comment trên báo sau khi đọc bài của Phạm Công Luận: “Những cái tên như đường Lê Lợi, rạp hát Vĩnh Lợi (tuy khán phòng không lớn lắm nhưng sang), Thương xá Tax, Mini Rex A, B nơi để tuổi ô mai đôi khi “cúp cua” xem phim đầy nét dễ thương …
Và nhất là nhà sách Khai Trí. Những ai sống ở Sài Gòn trước 75 ít nhất đôi lần ghé vào đây.
Kho tàng kiến thức đúng như tên gọi. Phố Lê Lợi với nét kiến trúc nhà cửa đặc trưng không thể lẫn lộn… Nó đã trở thành một phần văn hóa của đời sống.”
Thuở ấy, khi mới đặt chân tới Sài Gòn, như đã nói, Nguyễn thấy cái gì cũng đẹp cũng mê.
Mê hàng me xanh trên phố Catinat, mê ly nước mía Viễn Ðông và ly kem Mai Hương.
Ðã bao sáng bao chiều dạo bước trên đường Bonard, Catinat, một mình hay với người yêu. Ði để ngắm cảnh ngắm người chứ chẳng có mục đích gì đặc biệt.
Mới vào Sài Gòn, trong túi đâu có tiền nong gì nhiều. Cho nên Nguyễn chỉ đi bát phố, thỉnh thoảng gặp Ðinh Cường đi với Tô Mặc Giang. Hai chàng e cũng rách như mình thôi. Rách là chỉ bề ngoài nhưng tâm hồn thì đầy thơ và mộng tưởng.
Những ngày tháng bông lông thế mà vui. Mãi tới hơn năm sau đi dạy học có tiền mới dám ngồi cà phê ở Kim Sơn, ăn kem ở Mai Hương, uống bia ở La Pagode, Continental, cùng với người yêu ăn suông ở nhà hàng Thanh Thế ngay phía sau Kim Sơn.
Những sáng Chủ Nhật hai đứa dắt nhau vào hẻm Casino ăn món Bắc: Bún chả, bánh cuốn, bún riêu, phở… Ôi tuyệt vời.
Bonard là phố quen thân nhất. Ở đây mình gặp lại Quách Thoại và Minh Ðăng Khánh sau lần đầu tiên ở Huế.
Thoại thì gầy xanh, còn Minh Ðăng Khánh vẫn béo tốt, yêu đời.
Phố Bonard… Phố Charner với những kiosques bán hoa và đồ lưu niệm, đặc biệt có quán cơm Bà Cả Ðọi cũng là nơi hấp dẫn.
Ôi những nơi ấy đã từng bao lần in hình bóng của Nguyễn và bạn bè.
Nói tới Bonard mà không nói tới nhà sách Khai Trí là điều thiếu sót không thể tha thứ.
Ðây là địa điểm dừng chân của bao người trẻ mê chữ nghĩa.
Ði dạo phố Bonard thế nào cũng phải vào Khai Trí để nghỉ chân, mua sách và đọc sách cọp.
Sách nhiều vô số mà ông chủ Nguyễn Hùng Trương cũng như các nhân viên không bao giờ có thái độ bất nhã với người yêu sách.
Không khí ở đây thật thoải mái, dễ chịu. Khai Trí xứng đáng là trọng điểm văn hóa của một thời.
Trên đường Tự Do cũng có một nhà sách lớn là nhà sách Xuân Thu nhưng không đông khách bằng.
Bên ngoài nhà sách Khai Trí là một dọc những sạp hàng bán đồ linh tinh, sửa bút máy, đồng hồ, khắc chữ lưu niệm.
Nguyễn đã có lần đưa Sương Trúc từ Quy Nhơn vào chơi, tới đây khắc tên trên bút máy. Ôi, làm sao quên được.
Trên đường về, ngồi trong taxi, hai đứa nắm tay nhau. Làm sao quên buổi chiều tiễn đưa Sương Trúc lên xe lửa về lại Quy Nhơn.
Tại sân ga đường Lê Lai gần đó, Sương Trúc đã trao tặng Nguyễn cuốn Một Thời Ðể Yêu Một Thời Ðể Chết, bảo anh hãy giữ làm kỷ niệm.
Bên kia đường đối diện với Khai Trí là một loạt những cửa tiệm, kiosques sách. Mình cũng đã từng dạo qua nơi đây, xem sách, gặp bạn bè.
Còn nhớ ngồi với Tạ Ký ở Thanh Bạch ăn cánh gà chiên, uống bia. Tạ Ký kêu hai ly đá lạnh, thả vào đấy ít cọng hành lá.
Một lát, lấy hành ra chấm muối tiêu, ăn, uống bia, sướng rên mé đìu hiu (chữ của Duyên Anh).
Sát gần với Thanh Bạch là cinema Vĩnh Lợi. Nói tới những rạp chiếu bóng thời cuối thập niên 50 đầu 60, ngoài Lê Lợi phải kể đến Vĩnh Lợi, Eden, Majestic, Ðại Nam… Một thời tuổi trẻ của Nguyễn ở đó.
Mùa Hè, có hôm Nguyễn coi tới ba phim ở ba rạp khác nhau. Chính ở Ðại Nam, mình gặp lại DU ngày nào. DU đang ngồi bán vé, thấy Nguyễn mua vé xem phim với người yêu, bèn hỏi đi với ai thế.
Ðôi mắt DU vẫn đẹp như ngày xưa, hồi ở Vỹ Dạ. Ôi, mắt em xanh như đêm dài…
Ðêm thỉnh thoảng theo bạn bè tới phòng trà nghe nhạc. Cho tới bây giờ còn nhớ tiếng hát Lệ Thanh ở Mỹ Phụng và Bạch Yến ở Tự Do. Bích Chiêu hồi ấy với Nỗi Lòng và Cao Thái trong ca khúc Mexico…
Làm sao quên được. Dung ơi, anh làm sao quên góc đường Tự Do và Bonard, ở chỗ tiệm Givral ngày nọ. Thuở ấy, cách đây đã ngoài năm mươi năm, chiều Thứ Bảy, nghỉ dạy vừa từ Mỹ Tho về, anh thường tới ngồi uống bia dưới mái hiên nhà hàng Continental chờ em đi taxi từ phía Nhà Thờ Ðức Bà tới.
Rồi sau đó anh và em vào passage Eden chơi, tay trong tay ra bến Bạch Ðằng rồi đi ăn và đi nghe nhạc phòng trà Tự Do hay Mỹ Phụng cho tới khuya.
Ôi, ước chi bây giờ anh lại được về chờ em ở một nơi nào đó của Sài Gòn, dưới những hàng me xanh mướt hương mưa trên đường Tự Do, hay trên bến Bạch Ðằng dọc theo hàng cây bông sứ, và em sẽ tới cùng anh.
Chiều nay… Một chiều phai nắng, ngồi một mình bên ly vang đỏ, nghe lại khúc hát xưa. Ôi, hồn tôi ở đó, như từ bao giờ…
Tim Nguyển.
|
|
|
|
The Following 4 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
05-04-2020
|
#72
|
|
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Join Date: Jan 2013
Posts: 37,942
Thanks: 81,070
Thanked 56,786 Times in 24,153 Posts
Mentioned: 430 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 10758 Post(s)
Rep Power: 76
|
Quote:
Originally Posted by wonderful
Sài Gòn xưa của tôi .
Còn nhớ ngồi với Tạ Ký ở Thanh Bạch ăn cánh gà chiên, uống bia. Tạ Ký kêu hai ly đá lạnh, thả vào đấy ít cọng hành lá.
Một lát, lấy hành ra chấm muối tiêu, ăn, uống bia, sướng rên mé đìu hiu (chữ của Duyên Anh).
|
  :haf ppy:  :hands hake:
cái món đặc biệt này...làm sao quên... 
 :handshake :
|
|
|
|
The Following User Says Thank You to cha12 ba For This Useful Post:
|
|
|
05-05-2020
|
#73
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Cái tình của hai thằng bạn thân .
Tôi và Duy là một đôi bạn thân. Đúng thế, hai thằng chúng tôi chơi với nhau từ khi còn bé tí và lúc nào cũng như hình với bóng. Nhà hai đứa cũng ở gần nhau nên chúng tôi thường hay đi học cùng nhau, ra về cùng nhau và làm cái gì cũng cùng nhau. Mỗi khi có chuyện gì buồn là hai thằng lại tỉ tê tâm sự với nhau, hay thỉnh thoảng lại đèo nhau đi trên chiếc xe đạp đến một quán ăn nào đó để ăn mừng trận bóng vừa thắng. Nói chung là, thân không thể nào thân hơn được nữa.
Năm lớp Mười, tôi và Duy may mắn được học chung với nhau. Trong lớp, tôi có để ý một cô bạn. Cô ấy tên Linh, một người rất xinh và học khá. Tôi chưa bao giờ thấy tim mình đập rộn ràng mỗi khi gặp một người con gái khác. Nhưng khi đứng trước Linh, tim tôi đã như thế. Nói làm sao nhỉ, hình như là tôi đã thích Linh. Tôi luôn giả vờ tìm đủ mọi cách để tiếp cận với cô ấy, khi thì quay sang hỏi bài, khi thì mượn cái này cái kia. Thấy đối phương đã bắt đầu cười và nói chuyện với mình, tôi càng có thêm hi vọng một ngày nào đó, tôi và Linh sẽ trở thành một cặp.
Tôi đem chuyện kể cho Duy nghe. Nó nhìn tôi, cười nói
- Mày thích Linh thiệt sao? Hay chỉ là say nắng?
- Tao đã suy nghĩ kĩ rồi. Là thích, thiệt !
- Liệu Linh có thích mày không?
- Làm sao tao biết. Nhưng tao sẽ cưa cô ấy?
- Thế thì chúc mày thành công. Haizza ! – Duy thở dài – Xem ra mày đã bỏ bạn bè mà trói buộc cuộc đời vào một đứa con gái rồi.
- Thằng khỉ này – Tôi cốc đầu nó một cái
Cứ thế, tôi và Duy ngồi đùa giỡn và nói về Linh suốt cả một buổi chiều hôm ấy. Trong lòng tôi thì cứ nao nức ngày mai mau đến đi, để tôi có thể nhìn mặt của Linh nhiều hơn nữa.
Sáng hôm sau, vừa vào đến lớp, tôi đã thấy Linh ngồi đấy, hình như là đang học bài thì phải. Tôi nhìn Duy, nó liền đưa cho tôi cái nháy mắt đầy khích lệ. Tôi vờ tiến gần đến chỗ của Linh, ngồi xuống và bắt chuyện.
- Cậu đang học gì thế?
Linh ngước lên nhìn tôi, nở một nụ cười, nói
- À, tớ đang ôn lại vài công thức Toán thôi. Mà này, cậu có hiểu mấy cái bài toán thầy dạy hôm qua không, giảng lại cho tớ nhé !
Môn Toán thì đúng thật là sở trường của tôi rồi. Có được cơ hội, tôi mau mắn lật sách và giảng lại cho Linh hiểu những bài toán mà thầy giáo đã dạy hôm qua, vừa được có tiếng là tốt bụng, vừa ghi điểm cộng trong lòng của Linh. Linh vừa nghe tôi giảng, vừa gật gật cái đầu trông rất đáng yêu. Ôi, tôi tình nguyện làm người giảng bài cho Linh cả đời này !
Sau khi đã giảng xong, Linh cười với tôi và nói " Cảm ơn cậu nhé, Phong". Bỗng dưng trong tim tôi thấp thoáng những cảm xúc thật là hạnh phúc.
Và sau đó, tôi lại càng tiếp xúc nhiều hơn với Linh. Chúng tôi có số điện thoại của nhau và thường hay gọi điện trao đổi bài vở, hẹn đi ăn kem hay dạo mát ở đâu đó. Cũng vì thế mà khoảng thời gian của tôi lúc trước dành cho Duy đã bị san sẻ một phần nào cho Linh. Tôi cũng cảm thấy có gì đó "tội lỗi" với Duy nhưng bản thân không nỡ từ chối những lần Linh hẹn tôi đi chơi. Tôi với Linh tuy đã đi chơi riêng với nhau, trở nên thân thiết hơn nhưng mối quan hệ của cả hai vẫn chỉ là bạn bè, không hơn không kém.
Một buổi chiều nọ, sau giờ học thêm Hóa, tôi rủ Duy cùng đi trà sữa. Nó đồng ý. Thế là hai chúng tôi ghé vào một quán trà sữa ở gần trường. Vẫn như mọi khi chúng tôi đi chung với nhau, đề tài nói chuyện của hai đứa bao giờ cũng là thể thao, game, học hành và chuyện tình cảm..bla bla... Được một lúc thì Duy đi vệ sinh. Trong khoảng thời gian ấy, bỗng điện thoại của Duy reo lên. Có một tin nhắn mới. Nhìn vào màn hình điện thoại là số của Linh. Tôi tò mò mở tin nhắn ra xem. (Thật ra thì chuyện chúng tôi xâm phạm đời tư của nhau cũng không còn là quá lạ. Bởi chúng tôi thân đến mức cho phép đối phương có quyền bước vào cuộc sống riêng của nhau.)
Dòng tin nhắn chỉ vỏn vẹn vài dòng "Cậu đang làm gì thế?"
Tôi hơi bất ngờ. Bất ngờ là vì trên lớp, hiếm khi nào thấy Duy và Linh nói chuyện với nhau, dù là một câu ngắn. Cả hai cứ như người xa lạ, vậy mà giờ Linh nhắn tin hỏi thăm Duy ư?
Đợi Duy đi ra, tôi đem chuyện hỏi cậu ấy. Duy nhìn tôi, khuôn mặt hơi ngạc nhiên
- Là Linh nhắn cho tao à?
Tôi không nói, chỉ gật.
- "Cậu đang làm gì thế?" – Duy nhìn màn hình điện thoại, đọc lại dòng tin nhắn của Linh. – Haizza – Duy thở dài – Suốt ngày cứ nhắn tin cho mình thế này !
Tôi hơi đổi sắc khi nghe Duy nói
- Mày nói gì, suốt ngày Linh nhắn tin cho mày sao?
Duy gật một cái rồi nói
- Linh thường hay nhắn tin cho tao, lúc thì hỏi han về chuyện học hành, lúc thì tán gẫu những chuyện trong lớp. Vậy thôi !
- Nhưng mà trên lớp, tao có thấy mày nói chuyện với Linh đâu? – Tôi nói
- Tao cũng chả biết, là Linh có số điện thoại của tao trước. Mà nè, đừng nói là mày đang ghen đấy nhá !
Nghe Duy nói, tôi hơi "nhột" trong lòng, nhưng cũng đủ bình tĩnh để đáp lại với nó
- Ơ. Ghen cái gì chứ? Chẳng có lí do gì mà tao phải ghen cả
- Biết thế thì tốt, chỉ sợ mày ghen thì tao khổ à. Hahaha
Cuối cùng thì ngày Valentine đã đến. Nhưng chẳng phải đợi đến ngày này tôi mới bắt đầu chiến dịch tỏ tình của mình. Một tuần trước, tôi đã hẹn Duy sang nhà và nghĩ ra cách bày bỏ tình cảm với Linh. Nhưng hai thằng con trai mà hợp lại thì chỉ có nước nghĩ ra những cách phá hoại mà thôi. Thôi thì một món quà kèm theo một bức thư tay vậy.
Sáng, tôi đã cùng Duy đến lớp thật sớm. Mở của lớp bước vào, không một bóng người, chỉ có lác đác vài cái cặp trên bàn nhưng chủ nhân thì đã đi tọt xuống sân rồi. Vậy thì tốt quá rồi còn gì. Tôi mở cặp mình ra, lấy cái hộp quà xinh xắn màu xanh lá cây và bức thư tỏ tình được viết một cách ngay hàng thẳng lối đem để dưới hộc bàn của Linh. Xong tôi quay lại chỗ ngồi của mình, hồi hộp đợi Linh vào lớp.
- Phong này
Tiếng Duy gọi tôi. Quay đầu lại nhìn, tôi thấy mặt thằng bạn đang ngạc nhiên hết cỡ. Trên tay nó lúc này đây là một hộp quà nhỏ, nhưng được gói kĩ càng và khá đẹp.
- Chuyện gì thế !
Duy nhìn tôi, khuôn mặt nó vô cảm
- Có ai đó tặng quà cho tao
- Sao cơ – Tôi trố mắt lên, đầy rạng rỡ – Thật á. Ôi vậy là có người để ý mày rồi đấy, thích nhỉ.
Nói xong, tôi liền lao xuống bàn của nó, giục nó mở hộp quà ra xem. Đó là một chiếc đồng hồ khá đẹp và đầy kiểu cách, chắc là đắt tiền lắm.
- Wahh, đẹp quá. – Tôi trầm trồ khen – Vậy đúng là có cô nào lớp mình tương tư mày rồi.
Bỗng lúc này có một bức thư được gấp lại làm hai trong hộp quà rơi ra. Tôi và Duy nhanh chóng mở nó ra xem.
"Duy à, tớ thích cậu. Tớ đã lấy hết can đảm của mình để nói ra điều này. Nếu cậu thích tớ, hãy trả lời tớ nhé ! Kí tên : LINH"
Sao? Là Linh ư? Tôi như không tin vào mắt mình, ngực thì đánh từng nhịp một rõ nhanh. Linh thích Duy thật ư? Không thể nào? Người tôi yêu thích bạn thân của tôi?
Tôi thẫn thờ quay sang nhìn Duy. Nó đang cúi mặt xuống, không nói gì. Trong tôi lúc này mơ hồ một cảm giác gì đó, không thể nói thành lời được. Tôi không biết đây có phải sự thật không, nhưng đã rõ ràng như thế, thì không phải như thế nào nữa. Duy ngước lên nhìn tôi, miệng nó mấp máy không nên lời
- Phong..Phong à, mày nghe tao nói
Tôi im lặng, không nói gì cả. Mà tôi cũng chẳng biết Duy sẽ nói những gì đây. Nhưng chưa đợi Duy nói ra những gì nó muốn nói thì tiếng láo nháo xa gần ở dãy hành lang lớp đã vang lên lúc một lớn hơn, và đâu đó đám bạn lớp tôi đã bước vào. Không có gì hơn, tôi chỉ nghe một tiếng thở dài từ tận trái tim mình. Cảm giác tổn thương vô cùng.
Tôi lặng người quay về chỗ của mình. Duy bước theo tôi. Không hiểu sao lúc này đây, tôi chẳng thể nào dám nhìn thẳng vào mắt thằng bạn của mình. Có một cái khoảng cách nào đó, vừa xa xăm, vừa cách trở giữa hai đứa tôi. Duy ngồi xuống cạnh tôi, buông lỏng:
- Chiều nay mày sang nhà tao. Chúng ta sẽ nói chuyện rõ ràng. Tao không thích sự hiểu lầm này.
Nói xong, Duy về chỗ. Tôi vẫn ngồi đó, bơ phờ như một kẻ mất hồn. Tâm trạng tệ chưa bao giờ thấy. Suốt buổi học hôm đó, đầu óc tôi cứ quay mòng như chong chóng. Có lúc, tôi lén đưa mắt mình nhìn sang Linh, sang Duy. Nhưng điều đó lại làm tâm trạng tôi xấu hơn nữa.
Chiều hôm ấy, tôi gặp Duy đúng hẹn. Hai đứa vẫn như thường, đạp xe đến quán trà sữa quen thuộc. Suốt đường đi, không có một lời nói nào xuất phát ra từ hai cái miệng mà thường ngày vốn dĩ nói rất nhiều. Sự im lặng càng làm mọi thứ trở nên đáng sợ hơn. Sau khi gọi hai ly trà sữa ra, chúng tôi bắt đầu nói chuyện với nhau trong một bầu không khí không mấy thoải mái
- Tao nghĩ là mày đang ghen, Phong à ! – Duy nói trước – Nhưng mà mày đừng hiểu lầm như thế, chỉ tổ làm mọi chuyện rối mù lên thôi.
- Có gì đâu mà hiểu lầm. Mọi thứ đã rõ thế cơ mà. – Tôi nói, nhưng mắt lại nhìn ra đường.
- Tao không hiểu mày đang nghĩ gì nữa. Mày có phải bạn tao không vậy.
Tôi im lặng.
- Tao biết mày thích Linh, nhưng chỉ vì món quà và bức thư Linh tặng tao mà mày nghĩ tao là một thằng đi cướp những thứ của bạn mình sao. Tao nói lại cho mày biết, tao chưa hề thích Linh bao giờ. Mày hiểu chứ.
Giọng nói của Duy mỗi lúc một lớn, gương mặt nó trở nên bất lực trong việc giải thích mọi chuyện cho tôi. Tôi cũng chẳng phải là một đứa không biết chuyện mà thành ra thế, "nhưng Duy à, tao xin lỗi mày. Chỉ vì tao quá thích Linh mà bản thân tao mới thế." – Tôi muốn nói lắm những lời này cho Duy nghe, nhưng can đảm của tôi trốn chạy hết rồi.
- Phong à, mày có hiểu những gì tao nói không. Từ trước tới giờ tao với mày chưa từng giận nhau chuyện gì mà.
- Tao biết. Mà thôi, bỏ qua hết đi. Duy này, từ giờ tao sẽ không thích Linh nữa đâu. Linh là của mày đấy.
Tôi không hiểu sao lúc ấy bản thân mình lại nói ra những thứ chứng tỏ tôi là một kẻ tự ái cao đến thế. Duy sửng sốt nhìn tôi, nó gắt gỏng
- Mày nói gì vậy. – Nó thở dài – Đừng lôi tao vào chuyện tình cảm của mày chứ. Mày thích Linh, nhưng Linh lại thích tao. Ôi trời ơi, sao thế này.
Duy đập bàn một cái rõ to làm những người khách xung quanh cũng quay lại nhìn. Có lẽ mọi thứ đã đi quá xa rồi. Tôi không biết phải dừng những chuyện này lại như thế nào đây.
- Tao xin lỗi mày, Duy ạ !
- Xin lỗi cái gì, thằng khỉ này ! Tao chỉ muốn mày biết là tao không thích Linh, không hề thích Linh của mày đâu, nên dù cho cô ấy có thích tao đi nữa thì tao hi vọng mày sẽ có cách để dứt ra được cái tình cảm ấy. Chúng ta không thể ép buột bất cứ ai thích chúng ta được cả. Và cũng đừng vì chuyện này mà làm mất đi tình bạn bấy lâu nay giữa tao với mày !
Duy nói một hơi dài nhưng chẳng thấm vào đầu tôi chữ nào hết. Lựa chọn nào sẽ là đúng để kết thúc cái mớ rắc rối này đây?
Thế rồi những ngày sau đó, tôi và Duy không còn đi học chung nữa. Mà không, là do tôi đang né tránh Duy. Mỗi buổi sáng, nó đều gọi điện cho tôi, bảo là đang đứng trước sân nhà đợi nhưng tôi cứ viện lí do là ba chở đi học để Duy không đợi tôi nữa. Trên lớp, Duy luôn đến chỗ tôi ngồi nhưng tôi lại vờ gục đầu xuống bàn ngủ. Tan trường, hoặc là tôi lẫn vào đám đông để chạy ù về nhà thật nhanh, hoặc là tôi sẽ trốn vào một góc sân trường, đợi Duy loay hoay tìm tôi mãi rồi về trước, sau đó tôi mới về.Tôi không hiểu bản thân mình vì cớ gì mà làm như thế. Sau khi tỏ tình với Linh, cô ấy đã nhắn tin nói hết mọi việc cho tôi nghe, rằng cô ấy thích Duy, cô ấy chỉ xem tôi là bạn. Cảm giác hụt hẫng khi đọc những dòng tin nhắn từ chối tình cảm của người mình yêu thương thật là đau. Và cảm giác người mình yêu thương lại yêu đứa bạn thân tri kỉ của mình thì lại càng đau hơn nữa.
Nhưng trốn tránh thì cũng không thể giải quyết được những hiểu lầm và xóa bỏ đi sự ích kỉ, nhỏ nhen của tôi. Sau những ngày suy nghĩ thấu đáo, tôi đã hẹn Duy ra để nói hết những gì mình muốn nói.
- Tao xin lỗi mày, là tao sai – Tôi cúi mắt, chẳng dám nhìn vào đôi mắt của Duy.
- Mày có biết là mấy ngày qua, tao buồn thế nào hông. Có một thằng bạn thân mà nó cũng trốn tránh mình...
Tôi lặng một lúc, rồi nói
- Có lẽ tao đã quá ích kỉ khi đặt nặng tình cảm với Linh hơn tình bạn thân với mày. Nhưng giờ tao đã nghĩ kĩ rồi...
- Mày nghĩ thế nào cơ.
- Linh không phải là người con gái duy nhất. Nhưng mày lại là thằng bạn thân duy nhất của tao.
- Thằng khỉ này – Duy cốc đầu tôi một cái, cười rạng rỡ.
Trên trời mây trắng đang bay bồng bềnh, tựa như những gánh lòng của tôi đã được trút bỏ hết. Rồi ngày mai, trước nhà tôi lại lấp ló cái quả đầu của nó, rồi hai đứa lại sải dài bước chân trên những con đường đến trường..
|
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
05-09-2020
|
#74
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Chiếc lá cuối cùng.
“Ông vua truyện ngắn” người Mỹ, O. Henry (1862-1910), đã để lại cho hậu thế gần 400 truyện ngắn. Điểm đặc sắc trong truyện ngắn của ông là những tình tiết bất ngờ, có lúc khắc nghiệt hoặc oái oăm. Nhiều lúc lại khôi hài, dở khóc dở cười, để rồi kết thúc khiến người đọc hoặc thích thú nhưng không quá sướng thỏa, hoặc bâng khuâng nhưng không quá nặng nề.
Chúng tôi chọn truyện “The Last Leaf” được tác giả viết từ năm 1907 vì nhiều lý do. Quan trọng hơn cả là tính cách thời sự của truyện với bệnh viêm phổi cũng tựa như dịch COVID-19 mà chúng ta đang phải gánh chịu. O. Henry viết về bệnh viêm phổi tại Greenwich Village ngày đó:
“Vào tháng mười một thì Trời phái một ông khách lạnh lùng mà các ngài bác sĩ thường gọi là Bệnh Viêm Phổi đến khủng bố khu Greenwich. Ông thò cái bàn tay lạnh ngắt, sờ chỗ này một chút, vỗ chỗ kia một phát. Khu vực phía đông bị ảnh hưởng nặng nề với khá nhiều người bệnh, nhưng bước chân của ông khách chậm dần khi bước vào cái mê cung chật hẹp rêu phong của khu Greenwich…”
Khu Greenwich Village, Manhattan, thuộc thành phố New York, là một khu phố cổ theo kiểu Hòa Lan từ thế kỷ thứ 18. Nơi đây hội tụ nhiều họa sĩ nghèo như Sue và Johnsy sống trong một khu nhà trọ.
“Ông khách Viêm Phổi” không phải là hạng người mà bạn thường gọi là “ông bạn già hào hiệp”. Cô Johnsy liễu yếu đó thật ra không phải là đối thủ xứng tay của lão già thô bạo, nhưng lão vẫn đập cô ta tận tình. Vì vậy cô gái nằm xụi lơ, bất động trên chiếc giường sắt, mắt nhìn vào bức tường gạch của căn nhà kế cận xuyên qua khung cửa sổ nhỏ.
Ông bác sĩ đã từng nói với Sue: "Tôi sẽ ráng hết sức làm những gì mà khoa học có thể làm được. Nhưng hễ khi nào bệnh nhân của tôi bắt đầu nghĩ tới chiếc xe chở quan tài và đám đô tùy thì tôi trừ đi một nửa cái hiệu quả của thuốc men”.
Hàng ngày nằm trên giường bệnh nhìn qua khung cửa sổ Johnsy chứng kiến những chiếc lá “thường xuân” (ivy) ngày một rụng nhiều. Cô nhủ thầm, khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống là sẽ là lúc cô lìa đời.
Ở Greenwich còn có lão Behrman là một họa sĩ già ngoài 60 với bốn mươi năm cầm cọ mà chẳng vẽ được một bức tranh nào cho ra hồn. Cả đời lão khao khát vẽ được một kiệt tác. Biết chuyện Johnsy bị bệnh viêm phổi rất nặng và bệnh tật khiến cô tuyệt vọng nên lão quyết định âm thầm thức suốt đêm mưa gió bão bùng để vẽ chiếc lá trên tường.
Chiếc lá giống như thật. Và ngày hôm sau, khi nhìn qua cửa sổ, chiếc lá cuối cùng, tác phẩm của Behrman, vẫn đang ngạo nghễ sau một đêm mưa gió. Johnsy bắt đầu nghĩ lại, cô bắt đầu hi vọng và muốn được sống, được sáng tạo.
Johnsy đã trở về từ cõi chết nhưng lão Behrman lại chết vì bệnh viêm phổi sau đêm sáng tạo kiệt tác chiếc lá cuối cùng để cứu Johnsy. Sue lặng lẽ đến bên Johnsy báo cho bạn về cái chết của Behrman và tiết lộ bí mật về chiếc lá cuối cùng.
Giày dép, quần áo Behrman ướt sũng và lạnh như đá. Không tưởng tượng ra được ông ấy đi đâu, làm gì trong một đêm gió mưa khủng khiếp như vậy. Sau đó họ tìm thấy chiếc đèn lồng vẫn còn cháy sáng, một chiếc thang được kéo lê ra từ trong kho, mấy chiếc cọ còn dính sơn và một hộp sơn pha trộn hai thứ màu xanh và vàng.
“Và Johnsy à, bạn thử nhìn ra ngoài cửa sổ kia, nhìn vào chiếc lá cuối cùng trên bức tường đó. Bạn không cảm thấy ngạc nhiên là tại sao nó chẳng lung lay động đậy gì trong cơn gió? Bạn ơi, nó chính là cái tác phẩm lớn của lão Behrman trong đêm chiếc lá cuối cùng lìa cành!”.
(“Look out the window, dear, at the last leaf on the wall. Didn’t you wonder why it never moved when the wind was blowing? Oh, dear, it is Behrman’s great masterpiece—he painted it there the night that the last leaf fell.”)
Chuyện chỉ có vậy nhưng sao đọc đến đoạn kết người ta cảm thấy ngỡ ngàng pha lẫn tiếc nuối!
O.Henry (1862-1910)
|
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
05-19-2020
|
#75
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Trái Me ở Sàigòn
Giữa thời buổi “ôn dịch” corona này; hãy “anti” nó bằng cách tự bảo vệ mình và người thân, bằng hạn chế tiếp xúc, hạn chế đến chỗ đông người như hàng quán, siêu thị… hãy tăng sức đề kháng cho mình và gia đình bằng cách ở nhà nấu canh chua me ăn; nhấm nháp mứt me, ô mai me; uống… đá me; đọc những bài viết về… me.
Nếu có “lai rai” hãy chọn “mồi” là các món được chế biến từ… me, và được dùng với… nước mắm… me!
Tôi yêu Sài Gòn – luôn luôn và mãi mãi – như bao người Sài Gòn khác; đơn giản là vì tôi sinh ra và lớn lên tại Saigon trước 1975 – được thụ hưởng nền văn hóa bản sắc cùng với cách sống, hành xử nhân văn nhân ái của Sài Gòn.
Tôi tự hào là người Sài Gòn “chánh hiệu” vì ba mẹ tôi – đã thành người “thiên cổ” từ lâu – cũng là người Sài Gòn.
Sau này, khi làm việc với nhiều chuyên gia nước ngoài: Anh, Pháp, Mỹ, Ðức, Nhật, Bắc Âu… tôi hãnh diện nói với họ trong những bữa ăn hoặc lúc uống cà phê: “Je suis un Saigonais pur” hoặc “ I am the real Saigonese”.
Ba mẹ nuôi tôi, nhà trường dạy tôi nhưng Saigon ấp ủ tôi. Tôi với Sài Gòn quá nhiều kỷ niệm êm đềm và đẹp biết bao…
Thời gian qua đi với nhiều biến động dữ dội nhưng trong ký ức và tâm khảm tôi – những lưu luyến về Sài Gòn vẫn hiện lên rõ ràng bất chấp thời gian.
Một trong những ký ức đó – bình dị lắm thay – là… me, và những hàng me của Sài Gòn.
Tôi “có duyên” với me từ lúc còn là “con nít”, bởi hồi nhỏ tôi hay bị “sảy” – nó nổi thành từng ‘dề’ trên lưng trên cổ gây ngứa ngáy đau rát rất khó chịu.
Ngứa lắm, đến nỗi phải “gãi”; gãi “sướng” đến độ rách da gây nhiễm trùng thành ghẻ và mụn nhọt.
Ba tôi dẫn tôi đi khám bác sĩ ở công ty Shell nơi ba làm việc, uống cả “chậu” thuốc Tây mấy tháng trời vẫn không hết.
Mẹ tôi – hổng biết nghe ai – nhờ người hái me non – về rửa nước sạch rồi nấu lên pha nước cho tôi tắm. Ðược vài lần thì giảm rồi hết hẳn; tôi “biết ơn” me từ đó.
Lớn lên một chút – vào Trung học đệ nhất cấp trường Taberd – sau giờ tan học về nhà, tôi thích đạp xe tà tà dọc theo các con đường Tự Ðức, Hồng Thập Tự, Lê Văn Duyệt (1) để được đi dưới những hàng cây me rợp bóng mát và lượm những trái me chín rụng xuống – hồi xưa gọi là me “dốt” – ngon “hết biết”.
Ði học – mỗi tuần được cha mẹ cho có 5 đồng (một chai xá xị hồi 1972/1973 chỉ có 1 đồng tiền xu) – chỉ để mỗi ngày mua ô mai me – một xấp 5 miếng tròn tròn dẹp dẹp như đồng bạc cắc – mà nhấm từng chút một: mặn mặn, ngọt ngọt, chua chua – “khoái” làm sao !
Không chỉ vậy, me lưu “cảm tình” với tôi từ những món ăn – tôi không giấu giếm mình là người “ham ăn… ngon”: canh chua cá lóc mà không nấu với me thì không phải là canh chua chánh hiệu.
Me làm cho tô canh chua có vị thanh, dịu, chua một cách… “ngọt ngào”, “đằm thắm”.
Tôi không là bác sĩ, dược sĩ nhưng tin rằng canh chua me có tác dụng “giải cảm”; có lẽ bởi tôi cảm thấy… “sảng khoái” và “quá đã” sau khi “thưởng thức” canh chua me.
Bây giờ tôi không tìm đâu ra món ăn dân dã mà mẹ tôi làm những tháng năm khó khăn những năm đầu sau 1975.
Mỗi trưa đi học về, tôi phải đạp xe lên chợ nhỏ Văn Thánh nơi mẹ tôi dãi nắng dầm mưa bán đủ thứ bí, bầu, rau, củ, quả, đậu, tương, cà, mắm, muối… để dọn hàng về.
Về đến nhà thường là hơn 1 giờ trưa. Mẹ tôi bằm ba rọi xong để một khúc mắm cá lóc vào giữa hai lớp ba rọi bằm lớp trên lớp dưới; ướp tiêu, hành, tỏi, ớt rồi đem chưng lên.
Lúc mùi thơm điếc mũi dậy lên, bà sắp cải con, rau húng, dưa leo, đậu rồng và – đặc biệt – thêm vài lát me sống bỏ hột xắt xéo.
Tô mắm cá lóc chưng với ba rọi bằm được bắt xuống còn nghi ngút khói cùng với nồi cơm vừa chín tới.
Mỗi “và” cơm với miếng mắm lóc kẹp ba rọi bằm kèm với đậu rồng, cải con, dưa leo và cắn nhẹ một miếng me sống là … từng giọt mồ hôi… ròng ròng trên mặt tôi vì quá ngon – ăn không kịp thở !
Me còn làm cho nhiều món ăn bình thường trở thành đặc sản có tiếng. Hột vịt lộn quá bình thường, nhưng hột vịt lộn xào me làm mọi người múc, húp xì xụp!
Rồi còn cua rang me! Trời đất! Không có nhiều quán ăn có món này bởi chế biến cho đúng điệu không dễ chút nào.
Order món này là phải chờ lâu một chút, chờ cho dịch vị tiết ra sự thèm thuồng; rồi khi món được bưng ra phải chờ thêm một tí để nguội bớt – cũng là để chút ít nước miếng nuốt ngược vào chờ đợi – rồi sau đó là… húp hà xì xụp.
Tết mà thiếu mứt me thì còn gì để nhấm mà tán dóc? Cái ngọt ngọt chua chua giòn giòn của mứt me làm giảm cái ngấy của bánh chưng bánh tét; giảm cái ngọt đường của các loại mứt khác.
Mứt me uống trà cũng được, nước ngọt cũng xong, và nhấm nháp với tí rượu bia cũng OK.
Các “fans” của lứa tuổi “teen” chắc phản ứng mạnh nếu không có ô mai me trên đời.
Không có ô mai me thì làm sao có thể suốt ngày ôm “ai phôn”, “ai pát” để chít chát?
Bún riêu mà không có nước me dốt giằm thì coi như “trớt quớt”; khô cá khoai nhấm với gỏi lá sầu đông mà không có nước mắm me thì không phải là “gu sành điệu”
Và điều mà tôi nhớ đến me nhiều nhất là chuyện tình của tôi: me đồng hành với tôi khi tôi lên lớp 12 – khi trái tim bắt đầu biết… rung rinh sau mỗi chiều tan học – cứ mãi đạp xe phía sau tà áo dài trắng của người con gái Trưng Vương, mà quên cả đường về nhà!
Không gì đẹp hơn bóng hình người con gái “vóc hạc xương mai” trong tà áo dài trắng thong thả nhẹ nhàng đạp chiếc “mini” (2) dọc theo con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm có hàng me cao rợp bóng.
Càng đẹp hơn khi vào mùa Hạ hàng me có đầy hoa phượng đỏ thắm cộng sinh bên trên, xào xạc cành lá đong đưa cùng với tiếng ve sầu réo rắt.
Cái đẹp của cô nữ sinh Trưng Vương áo dài trắng đạp xe tan trường về nhà, dọc theo hàng me cao tỏa rộng cành lá xanh tươi điểm những chùm hoa phượng đỏ thắm đó, đẹp biết bao nhiêu thì càng tương phản với cái ngây ngô lọng cọng của thằng con trai mới lớn – là tôi – ngu ngơ lẽo đẽo theo sau dõi theo dáng hình của nàng mà không biết phải làm gì, không dám “dọt” xe lên để bắt chuyện; chỉ biết đạp xe theo sau chầm chậm, chầm chậm… rồi cố sức tăng tốc đạp theo mỗi khi nàng “bương” xe vượt qua ngã tư đèn xanh đèn đỏ; để rồi phải dừng lại, xuống xe; và:
“… có người yên lặng buồn trông …
nhìn theo hun hút bóng xe … em …” (3)
Tất cả chỉ vì xe đạp của tôi bị “tuột” sên, đôi khi vì pê đan “rớt”!
Chỉ có hàng me hiểu tôi và thông cảm cho cái ngu ngơ dại khờ của tôi.
Hàng me còn an ủi tôi bằng… vài trái me rụng và… một chùm lá me rơi lõa xõa trên đầu.
Bao nhiêu ngày như vậy, tôi không nhớ. Chỉ biết sau mùa Hạ đó là bao nhiêu biến động, là các chiến dịch đánh tư sản X1, X2, X3, rồi đổi tiền, đi kinh tế mới, vượt biên, chiến tranh…
Tất cả ào ạt đổi thay, tôi dấn bước vào đời, em biền biệt nơi nao?
Chỉ mong em được yên ấm và hạnh phúc, để mình tôi với hoài niệm của một tình yêu “câm nín”, về con đường có lá me bay… chiều chiều tôi lại đạp xe… theo nàng!
Tôi vẫn yêu Sài Gòn, dẫu rằng Sài Gòn giờ đây – theo tôi – không còn thơ, không còn đẹp như xưa, không còn những tà áo dài trắng, không còn “xe đạp mini ơi” và những hàng me cũng không còn nhiều và rợp mát như xưa.
Tôi vẫn yêu Sài Gòn, vì Sài Gòn có những con đường và hàng me của riêng tôi.
Những hàng me chứng kiến những rung động đầu đời của tôi, những hàng me biết tôi “yêu” mà không dám nói.
Trịnh Công Sơn có “Hạ trắng”. Riêng tôi – tôi nhớ hoài mùa Hạ với… me và hàng me Sài Gòn.
Thu Duyên.
|
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
05-22-2020
|
#76
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Truyện ngắn: Mẹ chồng.
Khi tôi chuẩn bị sanh đứa con thứ hai cũng là lúc chúng tôi bảo lãnh bà mẹ chồng qua đoàn tụ.
Bà vốn là dân Nam kỳ thứ thiệt, quê ngoài miệt vườn Mỹ Tho, bao nhiêu năm được nuôi nấng bởi phù sa trù phú nên tâm hồn bà mang nặng hương sắc sông nước miền Tây.
Ðầu tiên là chuyện ăn nói, bà có giọng nói sang sảng, to như trống làng ngày hội.
Có lần tôi đang ở trong phòng ngủ, nghe bà đang to tiếng với chồng tôi ở dưới nhà bếp. Tôi lo sợ không biết có chuyện gì xảy ra khiến bà phải lên tiếng la mắng. Tôi bèn ra cửa lắng nghe, mới biết bà đang nói chuyện rất… bình thường và vui vẻ.
Vì đứa con gái đầu lòng của tôi tên Camila, bà gọi theo tiếng Anh không rành rẽ, nên gọi nó là Cam cho gọn.
Ðến khi sanh thằng con trai, bà bảo vợ chồng tôi đặt tên gì trong khai sanh thì tùy, nhưng tên ở nhà để bà gọi là Bưởi để nhớ cây bưởi sai trái ở sân nhà bà bên Việt Nam.
Mấy đứa bạn của tôi vừa cười vừa nhảy lên như giẫm phải ổ kiến lửa:
– Trời ơi! Cái tên vừa quê mùa vừa cải lương thần sầu!
Tôi chống chế:
– Thì chị tên Cam, em tên Bưởi, nghe cũng… ý nghĩa lắm chớ, dạt dào hương vị cây trái quê nhà!
Chúng lại bảo:
– Tên Cam nghe còn… đặng, gợi nhớ dòng thác Camly thơ mộng, lãng mạn. Còn cái tên Bưởi, nói mày đừng buồn, rặt mùi… Hai Lúa!
Nghe vậy, tôi quên ngày bà theo vợ chồng tôi vào bệnh viện khi tôi chuyển bụng, rồi bà mừng vui, hối hả về nhà nấu cho tôi nồi thịt kho tiêu.
Và đêm đêm khi con tôi thức giấc, bà là người đầu tiên chạy vào phòng phụ tôi dỗ dành con nhỏ.
Vậy mà tôi quên dễ dàng như quên một chiếc lá rơi bên đường, tôi giận bà vì cái tên… Bưởi đến mấy ngày!
Bà là người nấu ăn trong nhà, trăm lần như một, ngày nào cũng có rất nhiều thức ăn dư thừa vì nấu quá nhiều.
Bà lại bỏ chúng vào những hũ nhựa để trong tủ lạnh. Dù tôi có nhiều lần nhắc nhở, bà gật gù nhưng rồi đâu cũng vào đấy.
Thức ăn vẫn dư ra ê hề, dần dần cái tủ lạnh ngập đầy những hũ to hũ bé. Chồng tôi nói vui rằng, nếu có một con ruồi bay vào tủ lạnh, thì nó sẽ bị… lạc đường!
Mà ngay chính bà, người tự tay bỏ những đồ ăn dư vào đó, khi cần tìm một món gì, bà cũng… ngơ ngác, không biết nó nằm trong hũ nào, nói chi đến con ruồi.
Khi nào hết chỗ trong tủ lạnh thì lại vứt bỏ những thức ăn cũ vào thùng rác. Riết rồi tôi cũng chẳng muốn nhắc bà thêm nữa. Nói ra thì sẽ bị cho là “mỏ nhọn”, mà nếu ghìm ở trong lòng, thì e rằng sẽ mang tiếng là “nhỏ mọn!”
Giống như nhiều người lớn tuổi khác, bà có niềm vui xem phim Tàu khi rảnh rỗi.
Bà thường xem vào buổi tối khi con Cam thằng Bưởi đã vào giường ngủ say (vì ban ngày bà còn lo nấu nướng dọn dẹp nhà cửa).
Nói có Chúa làm chứng, trong đời tôi chưa bao giờ xem phim Tàu được mười phút, chẳng hiểu tại sao, có lẽ vì cái giọng thuyết minh nghe nhão nhẹt và chói tai chăng? (thành thật xin lỗi quý vị nào mê phim Tàu).
Bà xem triền miên hết tập này qua tập khác, hết đêm này qua đêm khác rất hào hứng say mê.
Cho dù xứ Tàu có hơn một tỷ dân, có sản xuất ra nhiều trường quay và đạo diễn làm phim, cũng không thể nào đáp ứng nổi tốc độ xem phim của bà.
Thế là trong lúc chờ đợi có phim mới, bà chuyển qua xem cải lương Việt Nam.
Lại xin Chúa làm chứng một lần nữa, từ hồi cha sanh mẹ đẻ, tôi chưa bao giờ xem trọn vẹn một tuồng cải lương nào.
Hồi ở Việt Nam đầu thập niên 80s, chương trình Tivi còn nghèo nàn, nhà nước chiếu cái nào thì xem cái nấy, không có nhiều kênh để lựa chọn như bây giờ, hình như có hai tuồng cải lương tôi xem được… một nửa, đó là tuồng “Tiếng Trống Mê Linh” do Thanh Nga diễn vai chính, và tuồng “Ðời Cô Lựu” của cô đào Bạch Tuyết.
Ðôi lúc rảnh rỗi, bà thường tâm sự với tôi về những kỷ niệm của bà với cải lương.
Thuở xưa, anh trai của bà là một quận trưởng ở Mỹ Tho, lại quen biết với ngôi sao cải lương Thành Ðược.
Cứ mỗi lần về Mỹ Tho biểu diễn, Thành Ðược lại lái xe hơi đến gia đình bà chơi, cho cả chục vé hạng nhất, tối tối bà lại được cắp theo ô trầu tháp tùng mẹ của bà đi coi cải lương.
Bà thích nhất tuồng “Ðời cô Lựu” mà bà đã xem rất nhiều lần vẫn không thấy chán. Mà lần nào cũng vậy, vừa xem hai mẹ con vừa khóc ròng, mang theo mấy cái khăn mùi-xoa cũng chưa đủ.
Bây giờ bà cũng chỉ tìm những tuồng cải lương nổi danh một thời để xem lại, vì bà cho rằng đám diễn viên cải lương trẻ bây giờ ca không hay, mà diễn cũng không tới nữa.
Không biết bà có lãng tai hay không, nhưng bà rất thích xem phim Tàu hoặc cải lương với volume khá to.
Một đêm kia, tôi chợt thấy ánh trăng phủ đầy trên giường ngủ. Tôi bước ra cửa sổ, mới hay rằng hôm ấy có trăng mười sáu, đẹp dịu dàng và sáng tươi cả bầu trời.
Những ngọn cây trong đêm thêm huyền hoặc dưới ánh trăng tươi, mây im lặng, lững lờ trôi để tôn vinh ngày trăng tròn. Ðẹp quá!
Trong tôi cảm xúc dâng trào, ngồi xuống bàn lấy giấy viết ra tìm vần thơ, thì bỗng nghe văng vẳng tiếng… sáu câu vọng cổ của Thành Ðược ở ngoài phòng khách.
Tôi lắng nghe thì đến lượt cô đào cải lương chi bảo Bạch Tuyết nức nở, rên rỉ đau thương ở cảnh bà hội đồng gặp lại người chồng sau hơn hai mươi năm tù tội oan uổng.
Thế là bao cảm hứng thơ thẩn của tôi tiêu tan như cơn mưa rào bất chợt đổ xuống đường xua tan bụi bặm của thành phố.
Thật là bực mình! Có lẽ “sự nghiệp văn chương” của tôi, vì bị “phá đám” thường xuyên, nên cứ mãi mãi lềnh bềnh, vật vờ như những đám lục bình trôi trên sông Tiền sông Hậu mà thôi.
Trưa Thứ Sáu, chồng tôi gọi phone cho tôi ở chỗ làm:
– Chút nữa em nhớ đón mấy đứa nhỏ nghen. Mẹ bị đau bụng, anh đang đưa mẹ vào bệnh viện .
Tôi xin nghỉ sớm, đón hai đứa nhỏ về nhà, bắt tay vào việc cơm nước.
Trên counter của nhà bếp, tôi thấy để sẵn một con cá, giá, cà chua, rau ôm, bạc hà đã rửa sạch sẽ, chắc mẹ chồng tôi đã chuẩn bị từ sáng.
Tôi bèn nấu món canh chua và cá kho tiêu.
Thằng Bưởi nhất định không chịu ăn nếu không có bà nội đút như mọi ngày.
Tôi phải vừa dỗ dành, vừa… hăm dọa nó mới ăn được một ít. Còn con Cam vừa ăn miếng đầu tiên đã phán ngay một câu xanh rờn:
– Mẹ nấu canh chua không ngon như… bà nội !!
(Không lẽ tôi phải giãi bày phân bua với đứa con nít, rằng tôi là gái Bắc kỳ, món canh chua nào phải sở trường của tôi!? Mà thiệt ra, chẳng có món nào là sở trường của tôi cả!)
Ðến giờ tắm cho chúng nó thì đúng là một kinh nghiệm… đau thương.
Hai đứa vừa chơi vừa đánh nhau chí chóe trong bồn tắm ngập đầy bọt xà phòng.
Tôi vừa la hét vừa lấy khăn lau chùi “hiện trường”, thì thằng Bưởi cởi trần như nhộng chạy ra khỏi phòng tắm, tôi phải rượt theo nó khắp nhà, cuối cùng mới tóm được nó ở nhà bếp để mặc quần áo vào. (Tôi không thể nào hiểu nổi bà mẹ chồng tôi đã tắm cho chúng nó như thế nào!)
Rồi cũng đến lúc lùa chúng nó vào phòng ngủ. Sau khi nằm yên ấm, chúng yêu cầu tôi kể chuyện cổ tích như bà nội vẫn thường làm.
Hai đứa nằm im nghe kể xong, vẫn là con Cam tài lanh nhanh nhẩu:
– Mẹ kể sai rồi! Cô Cám không chết! Cô Cám không chết! Tại vì cô Cám và bà mẹ ghẻ đã ăn năn hối lỗi nên được cô Tấm và nhà vua đón về ở chung trong lâu đài. Bà nội kể như vậy mà?!
Thiệt là hết chỗ nói! Quý vị nào đã từng đọc cổ tích Việt Nam thì xin làm chứng cho tôi. Rõ ràng là Cám bị Tấm trả thù bằng cách đun nồi nước sôi, lừa Cám xuống hố rồi dội cho chết tươi không kịp ngáp (ai bảo cô Tấm hiền lành phải xem lại nha!).
Chưa hết, Tấm còn lột da Cám rồi lấy xác Cám ướp làm mắm “biếu” bà dì ghẻ, bà ăn xong lăn đùng ra tắt thở (ai bảo Tấm nhân hậu vậy cà?!).
Thế mà bà mẹ chồng tôi lại dám cả gan sửa đổi cổ tích, tôi cũng bó tay!
Tôi bỗng nổi sùng, giận cá chém thớt:
– Thôi, hai đứa ngủ đi. Cả ngày hôm nay mẹ mệt muốn phát điên vì chúng mày rồi!
Vừa lúc ấy có tiếng phone reng. Bên đầu dây kia là tiếng của bà:
– Bác sĩ nói mẹ bị ngộ độc thức ăn, phải ăn thức ăn lỏng trong vài ngày để họ kiểm tra lại cái bao tử của mẹ xem có vấn đề gì không? Hai đứa nhỏ ngủ chưa con?
Tôi méc bà: (cháu hư tại…bà mà!)
– Chúng nó hư lắm bà ạ. Cơm không chịu ăn, lại nghịch phá, bây giờ lại chưa chịu ngủ nữa.
– Mẹ biết vậy nên mới phone về thăm hai đứa. Thôi, con mở speaker để mẹ kể chuyện cho tụi nó ngủ .
Hai đứa nghe tiếng bà thì rú lên mừng rỡ, rồi ngoan ngoãn nằm xuống giường đắp mền nghe bà kể chuyện.
Tôi tắt đèn, khép cửa, đi xuống lầu dọn dẹp nhà cửa. Khi tôi trở lại phòng thì hai đứa đã ngủ say sưa tự lúc nào, mà tiếng của bà vẫn đều đều trong speaker:
“Kể từ đó, Sơn Tinh và công chúa Mỵ Nương sống với nhau tràn đầy hạnh phúc.
Thủy Tinh vẫn tiếc nhớ cuộc thi năm xưa, hàng năm cho nước dâng cao lên, gây nên những trận lũ lụt khắp nơi…”
Tôi chợt nhận ra giọng nói của bà đã yếu hẳn, không còn to vang như trống đình ngày xưa nữa. (Vậy mà bấy lâu nay tôi vô tình, có hay biết gì đâu!).
Một cảm giác vừa quen, vừa lạ xâm chiếm lòng tôi, để trái tim tôi dịu dàng dâng lên một tình thương mến.
Tôi nhớ đến mẹ ruột của mình. Nếu giờ này bà đang ở bệnh viện, chắc bà cũng sẽ thương nhớ đám cháu nội cháu ngoại ở nhà, cũng cảm thấy buồn và lạnh lẽo trên chiếc giường trắng tinh vô hồn nơi bệnh viện.
Tôi cũng chợt nhớ ra rằng, gần năm năm qua, kể từ khi bà qua đây đoàn tụ với gia đình tôi, tôi chưa hề nấu cho bà một món gì, kể cả nồi cháo, vì bà dành làm hết mọi việc cơm nước cho vợ chồng tôi thảnh thơi đi làm.
Tôi lặng lẽ đi xuống bếp, lấy ra miếng thịt thăn ngon nhất. Sáng mai, trước khi đưa con Cam thằng Bưởi đi thăm bà nội, tôi sẽ dậy sớm để nấu cho bà nồi cháo thịt bằm, ít gạo, nhiều nước, thả đầy hành hoa và rắc chút tiêu trắng… đúng như sở thích của bà.
Kim Loan.
|
|
|
|
The Following 4 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
05-23-2020
|
#77
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Trạm Cuối Cuộc Đời Bên Mỹ.
Đây là một bài mới tác giả viết về tâm trạng của con cái khi phải đưa cha mẹ già vào nursing home. Tác Giả tham dự VVNM năm 2015, được giải danh dự trong năm đầu (2016) và giải “Vinh danh tác phẩm” (Á khôi) năm 2017. Ông là một chuyên viên về hưu, đang định cư tại Orange County..
Sống ở Mỹ khá lâu nên tôi ít nhiều cũng bị ảnh hưởng tư tưởng của người Mỹ nên không có ý định nhờ vả con cái khi tuổi về chiều. Một ngày nào đó khi thấy mình không còn khả năng để tự lo cho mình được nữa tôi sẽ vào sống trong các “Boarding care” để có người chăm sóc, nếu tệ hơn sẽ được hưởng những phúc lợi dành cho người cao niên và được bảo vệ bởi hệ thống an ninh xã hội Mỹ. Ở Mỹ có “Nursing Home” được trang bị đầy đủ phương tiện, kỹ thuật và nhân sự chuyên môn để chăm sóc những người không còn khả năng tự lo cho mình, có “Hospice Service” chăm sóc vật chất lẫn tinh thần cho các bịnh nhân không thể sống hơn sáu tháng, giúp họ ra đi trong yên bình và giúp gia đình họ vượt qua giai đoạn khó khăn nhất.
Nhưng tư tưởng lạc quan nầy đã hoàn toàn thay đổi từ khi tôi thật sự đối diện với tử thần và nếm mùi bịnh viện sau khi trải qua một cơn bạo bịnh phải nhập viện trong 10 ngày. Tuy đã được thoát chết, vết thương mổ xẻ đã lành, nhưng những đau đớn về thể xác và vết thương tâm thần mà bịnh viện để lại vẫn còn hằn sâu trong ký ức không bao giờ lành. Từ đấy tôi bắt đầu thấy sợ bịnh viện, sợ luôn cả nursing home vì đây chẳng qua chỉ là một hình thức khác của bịnh viện, bịnh viện của người già.
Từ tâm trạng sợ hãi nầy tôi liên tưởng đến 4 năm hãi hùng mà nhạc mẫu tôi phải trải qua trong nursing home trước khi bà mất. Từ đấy những quảng cáo đẹp về nursing home với hình ảnh những cụ già vui chơi hạnh phúc được thay thế bằng những hình ảnh đau khổ của nhạc mẫu tôi và của những cụ già ngồi xe lăn ủ rủ, nghiêng ngả, cong queo, nhễu nhão, những gương mặt mếu máo, những ánh mắt vô thần.
Chúng tôi may mắn được sống chung với cha mẹ vợ vì bà xã tôi là con gái út. Lúc còn khỏe ông bà nhạc của tôi quán xuyến hết mọi chuyên trong nhà để vợ chồng tôi được rảnh tay lo chuyện ngoài xã hội. Hai con tôi gần gũi với ông bà ngoại nhiều hơn với cha mẹ chúng. Đi học về vừa đến cổng nhà là đã réo gọi ông bà ngoại. Tuy nuôi con nhưng thật ra tôi chưa biết thay tã hay cho con bú! Kể cả tiếng Việt chúng nói đều nhờ ông bà dạy từ ngày chúng bập bẹ tập nói.
Nhưng cuộc sống hanh phúc chấm dứt từ khi nhạc mẫu tôi ngã bịnh. Năm 78 tuổi, sau chuyến du lịch Việt Nam về, mẹ nằm suốt trong phòng, than mệt. Ngoài bịnh tiểu đường loại 2 mãn tính, mẹ thường xuyên bị nhiễm trùng đường tiểu, đau cột sống, ho kinh niên và sau đó khám phá ra bị ung thư phổi. Từ đấy bà ra vào bịnh viện như đi chợ. Thiếu bàn tay của mẹ, gia đình tôi rối loạn lung tung, con cái đi học trể, cơm nước thất thường, nhà cửa bề bộn. Vợ chồng tôi phải tập lại từ đầu cách quán xuyến gia đình, nuôi con, thêm nuôi mẹ già trong bịnh viện. Bố cũng yếu chỉ hụ hợ chuyện lấy thơ, đổ rác, đóng cổng là đã than mệt rồi.
Bác sĩ ung thư khuyến cáo không nên mổ xẻ hoặc trị liệu gì cho mẹ vì ung thư đã di căn đến não.. Hơn nữa tuổi mẹ đã quá cao lại bị bịnh tiểu đường nên vết mổ không lành. Hãy để cho thiên nhiên quyết định vận mệnh của mẹ. Tôi dấu nhẹm lời bác sĩ bảo rằng mẹ chỉ sống tối đa là sáu tháng. Mẹ được cho về nhà với lời khuyên “thích ăn cái gì cho bà ăn cái nấy”. Nhưng “còn nước còn tát” chúng tôi không chịu thua, chạy chửa bịnh cho mẹ bằng thuốc nam. Ai bày thuốc gì ở đâu tôi cũng tìm cho được. Khi lái xe mắt tôi cũng láo liên nhìn bên lề đường, dọc theo các hàng rào tìm cây cỏ “Dandelion” để hái lá cho mẹ ăn. Nghe nhà ai có cây nha đam chúng tôi cũng tìm đến xin hay mua cho bằng được. Bà xã tôi cầu nguyện cho mẹ hàng ngày không xao lãng.
Như được một phép nhiệm mầu, bịnh ung thư của mẹ tôi thuyên giảm dần dần và sau mấy tháng khối u trong phổi tự nhiên biến mất.. Bác sĩ gia đình rất vui bảo “đừng thắc mắc, hảy cứ tin là như vậy đi”. Nhạc mẫu tôi thì tin là mình đã hết bịnh thật, còn vợ chồng tôi thì gần như kiệt lực, mong sao phép lạ sẽ kéo dài. Bịnh ung thư không thấy trở lại, nhưng bịnh đau cột sống làm mẹ đau đớn không ăn ngủ được nên sinh ra khó tính. Mẹ lại quên trước quên sau. Mẹ không còn kiểm soát được tiêu tiểu nữa nhưng nhất định không chịu mang tã. Bố cũng già mệt mõi, suốt ngày ngủ trong phòng. Ông bà lại không biết tiếng Mỹ, không dùng điện thoại, nên khi vợ chồng tôi đi làm lúc nào cũng phập phòng lo sợ.
Bác sĩ gia đình đề nghị nên cho mẹ vào nursing home để dễ bề chăm sóc. Vợ chồng tôi đồng ý ngay nhưng gặp sự phản khán quyết liệt của nhạc mẫu tôi. Suốt đời mẹ không bao giờ xa gia đình nửa bước nói chi chuyện cách ly vĩnh viễn! Đối với mẹ, mất gia đình là mất tất cã. Chúng tôi nể mẹ nên không dám nói chuyện nursing home nữa, chỉ sợ làm mẹ buồn ảnh hưởng đến sức khỏe.
Nhưng sức khỏe của mẹ càng lúc càng tệ. Sau lần cấp cứu cuối cùng vì bị ngất xỉu, bác sĩ đề nghị phải đưa thẳng mẹ vào nursing home, vì theo ông, đó là cách tốt nhất để bác sĩ có thể theo dõi bịnh tình và giữ an toàn cho mẹ.
Ngày đầu tiên vào nursing home không ai nỡ bỏ mẹ một mình nên quấn quít bên bà cho đến tối rồi cũng phải ra về. Đó là ngày đầu tiên trong cuộc đời mẹ phải sống lẻ loi một mình bên những người xa lạ. Tôi còn nhớ rõ gương mặt thẫn thờ của mẹ nhìn theo con cháu đang bỏ bà mà đi. Tôi không dám nhìn mẹ lâu hơn vì tôi thấy mẹ khóc, một điều rất lạ đối với nhạc mẫu tôi vốn là người đàn bà can cường và cứng rắn. Bố thấy tội nhiệp đòi mỗi ngày chở bố vào nursing home để ông chăm sóc cho mẹ. Được mấy tuần rồi tôi cũng chịu thua vì chuyện đón đưa hàng ngày thật là bất tiện. Còn nếu để bố đi xe bus nếu có chuyện gì xảy ra thì ai lo cho bố đây!
Từ ngày mẹ vào nursing home vợ chồng tôi thở phào nhẹ nhõm, không còn phải lo lắng như khi xưa khi bỏ mẹ ở nhà. Chúng tôi yên tâm là mẹ được theo dõi và chăm sóc 24/7. Tan sở vợ chồng tôi chở bố vào thăm mẹ, thấy mẹ sạch sẽ thơm tho, giường nệm trắng tinh, kẻ qua người lại tấp nập vui vẻ lắm. Yên tâm chúng tôi dần dần xao lãng việc thăm viếng. Cả hai cháu cũng không còn đòi đi thăm ngoại nữa, nhiều khi phải bắt chúng mới chịu đi. Chúng không thích cái mùi trong nursing home.
Từ ngày sống trong nursing home mẹ hoàn toàn thay đổi, trở nên trầm lặng, ít nói, khác hẳn với mẹ trước đó “quậy” tưng bừng trong bịnh viện. Mẹ chịu mang tã, nằm yên trên giường, không có ý kiến chuyện chung quanh, không đòi hỏi gì, không còn than phiền đau lưng nhức gối, hay càu nhàu vì thiếu ngủ, mất ăn như lúc ở nhà. Sau nầy mới biết bà đã được cho dùng thuốc an thần và thuốc đau nhức nồng độ cao nên lúc nào bà cũng ở trạng thái lờ đờ lim dim ngủ. Có lúc tỉnh táo, mẹ chỉ nhìn qua khung cửa sổ với đôi mắt vô thần. Hỏi mẹ có đau đớn gì không, mẹ lắc đầu. Hỏi có thích ăn uống đồ ăn Việt Nam không mẹ lắc đầu, tuy tôi biết là mẹ rất ghét đồ ăn Mỹ nhất là khẩu phần cho bịnh nhân tiểu đường và cao máu nhạt nhẽo không sao nuốt nỗi. Mẹ chịu đưng, sống âm thầm không một lời than thở.
Cho đến một hôm mẹ nắm tay nhà tôi, nước mắt rưng rưng mẹ van xin:
- Mẹ muốn chết con à. Con xin người ta cho mẹ chết đi!
Bà xã tôi sững sờ, ôm mẹ năn nỉ:
- Mẹ đừng nói kỳ vậy, phải ráng lên chớ, con biết phải làm sao bây giờ?
Rồi vợ tôi cũng khóc. Tôi chỉ đứng nhìn. “Chúng tôi biết phải làm sao bây giờ”?
Vợ chồng tôi đều nghĩ rằng đã tìm được giải pháp tốt nhất cho mẹ rồi. Mẹ thì đã “ráng” quá nhiều, ráng đến mõi mòn, đến kiêt quệ nên muốn bỏ cuộc. Đã bốn năm dài đăng đẵng mẹ sống nơi đây như cái xác không hồn.
Có lúc chúng tôi vào thăm mẹ vào giờ ăn trưa thấy mẹ ngồi gục đầu trên xe lăn như một em bé ngoan, mắt nhắm nghiền, đợị đến phiên mình há mồm được đút cho ăn. Mẹ không còn thiết tha gì nữa.
Những tháng cuối cùng mẹ nằm trên giường đưa mắt nhìn con cháu, không cử động hoặc nói năng gì. Hình như có điều gì u uẩn trong lòng mà mẹ không nói được hay mẹ có tâm sự gì nhưng muốn giấu kín trong lòng.
Một buổi sáng sớm, tôi nhận được cú điện thoại từ nursing home báo tin là mẹ chúng tôi đã mất đêm qua. Bà mất lúc nửa đêm nên không ai hay biết cho đến sáng ngày hôm sau. Bà âm thầm ra đi không một lời từ giã, không một giọt nước mắt tiển đưa. Chắc mẹ cô đơn lắm lúc trút hơi thở cuối cùng. Suốt đời mẹ lo cho chồng, cho con, cho cháu, ngày mẹ ra đi chỉ có một mình, trong cô đơn. Có ai biết rằng không phải mẹ chỉ cô đơn trong giây phút ra đi mà mẹ đã chết từ lâu rồi, kể từ ngày mẹ bước chân vào ngưỡng cửa nursing home, một nhà tù không cần đóng cửa. Tôi chợt hiểu được tại sao mẹ đã khóc ngày đầu tiên đến nursing home. Ngày ấy mẹ chấp nhận bản án tử hình không văn tự vì muốn hy sinh cho con cái. Ngày ấy mẹ đã khóc lời vĩnh biệt các con cháu rồi.
Chúng tôi vội vã vào nursing home vừa kịp lúc nhìn mẹ lần cuối cùng trước khi người ta phủ kín mặt mẹ với tấm trải giường màu trắng rồi mang xác mẹ đi. Mọi người đứng nhìn theo chết đứng, ngỡ ngàng, đớn đau, nhưng không ai khóc thành lời. Chúng tôi đã biết là ngày nầy sẽ đến với mẹ, và hôm nay nó đã đến.
Cái chết của nhạc mẫu nhắc tôi nhớ lại chuyện cổ tích về chuyện người tiều phu đẩy xe chở mẹ vào rừng cho thú hoang ăn thịt vì bà đã quá già. Tôi có khác gì người tiều phu đó, đã đưa nhạc mẫu tôi vào nursing home để chết. Đến một ngày nào sẽ đến lượt con tôi chở tôi đi như vậy sao?
Tôi lại nhớ đến chuyện con voi già biết mình sắp chết, nó âm thầm đi vào cái “nghĩa địa voi” là cái hang động cho voi đến để chết. Nó âm thầm gục chết một mình bên cạnh những đống xương voi già đã chết trước nó. Tôi chợt nghĩ nếu con người làm được như con voi già thì con cháu không phải cực khổ vì cha mẹ già, không phải khổ tâm vì mặc cảm là đã làm một hành động bất nhân, bất hiếu, như tâm trạng hối hận của tôi bây giờ đối với nhạc mẫu của tôi.
Nursing home. Cái trạm cuối của cuộc đời mấy ai tránh khỏi!
Bạn đã chọn cho mình cách đến chưa?
Chín Cali.
|
|
|
|
The Following 4 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
05-24-2020
|
#78
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Truyện ngắn: Mẹ Chồng… hắc ám.
Hôm nay đi chùa Liên sẽ về sớm hơn mọi ngày, nàng nói với tôi:
– Chiều nay vợ chồng em cần đi xem vài địa điểm apartment nữa để chọn chỗ thuê mướn cho vừa ý vừa túi tiền chị ạ.
Chúng em đã hỏi vài chỗ, thuê căn hai phòng cũng hơn một ngàn một tháng quá đắt với chúng em.
Nhìn vẻ mặt Liên thoáng lo buồn tôi càng thương cảm nhưng chỉ biết an ủi suông:
– Chúc em chọn được căn vừa ý nhé. Thôi thì tuy tốn tiền mà ở riêng tinh thần thoải mái hơn ở với mẹ chồng…
Liên là bạn vai em, chúng tôi gặp nhau và quen biết nhau ở chùa. Mỗi Thứ Bảy cuối tuần tôi thường đi lễ chùa và Liên cũng thế. Thỉnh thoảng nàng hay than thở về bà mẹ chồng khó tính khó ưa.
Liên mới sang Mỹ được chừng 5 năm, có hai đứa con, nàng làm nail, chồng tên Hải làm thợ hàn trong hãng xưởng.
Vợ chồng con cái đang ở chung với cha mẹ chồng thì đùng một cái bà mẹ chồng tuyên bố “đuổi” gia đình Hải ra ở nơi khác.
Liên đã vừa khóc vừa kể:
– Mẹ chồng em hắc ám lắm chị ơi, hồi đó bà phản đối không cho anh Hải về Việt Nam cưới em. Bởi vậy bà ghét em, chê em con nhà nghèo, bà nghi ngờ em đi làm dấm dúi gởi tiền về Việt Nam cho cha mẹ anh em.
– Nhưng bà cũng đã cho vợ chồng em ở chung 5 năm nay rồi còn gì?
– Ôi, ở chung cũng cực khổ trăm bề, muốn ăn muốn ở gì theo ý mình đâu có được, bà kiểm soát, chỉ dạy em đủ thứ nghe mà bắt mệt. Nhưng tụi em chưa sẵn sàng tiền bạc để ra ở riêng thế mới khổ chứ.
Tâm hồn tôi cũng bị ngả nghiêng theo chiều gió, tôi trách bà mẹ chồng của Liên:
– Làm cha mẹ phải đỡ đần cho con cháu, giận gì thì giận nỡ lòng nào đuổi con cháu ra khỏi nhà cái rụp vậy. Bà mẹ chồng của em đúng là…hắc ám.
Liên bùi ngùi:
– Em thật vô phước gặp bà mẹ chồng kiểu này. May mà còn có chồng thương em…
Tôi thuơng cảm cho Liên và cũng thấy ghét bà mẹ chồng của nàng dù chưa gặp mặt lần nào.
Cuối cùng thì vợ chồng Liên đã ra ở riêng, họ thuê căn apartment hai phòng giá $1,200 một tháng. Ngoài tiền thuê nhà, còn tiền gởi hai con, Liên gởi con cho bác người Việt ở ngay bên cạnh, cũng may bác hàng xóm thông cảm hoàn cảnh vợ chồng Liên nên lấy giá rẻ hơn nhiều so với nơi khác.
Từ ngày ra ở riêng Liên ít đi chùa, có khi cả một hai tháng tôi không gặp Liên, có lẽ nàng bận rộn làm việc nhiều hơn và lo chuyện nhà nhiều hơn.
Lúc trước ở chung với nhà chồng, có cha mẹ là có thêm người, thêm tay chân đỡ đần chuyện nhà cửa con cái nên vợ chồng Liên mới rảnh rang.
Tuy không gặp Liên thường xuyên nhưng tôi nghĩ gia đình Liên đang sống yên vui nơi ở mới là tôi cũng vui theo.
Một Thứ Bảy tôi đi chùa như thường lệ, lúc giờ ăn trưa có một bác tìm hỏi đúng tên tôi, bác giới thiệu là mẹ chồng của Liên và đưa tôi một tấm thiệp mời:
– Nè cô, con Liên dặn dò tôi trao tận tay cô tấm thiệp mời ăn tân gia.
Tôi ngỡ ngàng nhìn tận mặt bà mẹ chồng… hắc ám, đó là một bà mẹ quê nét mặt hiền lành chất phác, vậy mà qua những lời Liên kể tôi đã hình dung ra một “ác phụ”, một “bà chằn” đối xử tàn tệ với con dâu. Tôi thật sự ngạc nhiên:
– Ủa bác… là mẹ chồng của Liên??
– Tôi ít khi đi chùa, trừ khi dịp lễ lớn như Phật Ðản, Vu Lan, cô không biết tôi là phải, hồi nào tôi mắc ở nhà lo cơm nước chồng con rồi phụ trông cháu.
Lâu nay con Liên cũng bận rộn quá chừng nhưng nó vẫn nhớ đến cô.
Tôi ngạc nhiên lần nữa:
– Vợ chồng Liên đã mua được nhà rồi sao? mới hôm nào cô ấy còn than thở với cháu là tiền thuê nhà, tiền gởi con và đủ thứ tiền khác hao tốn lắm mà, làm sao vợ chồng Liên để dành tiền nhanh thế?
– Ðúng vậy đó cô, để vợ chồng nó ra ở riêng mới biết lo….
Bà mẹ như gặp được chỗ để thở than:
– Cô ơi, có cha mẹ nào mà không thương con thương cháu mình? Ban đầu thằng Hải con tôi đòi cưới vợ ở Việt Nam tôi có phản đối vì chẳng biết rõ gia đình người ta thế nào, nhưng đã lấy nhau, trở thành con cái trong nhà tôi cũng ráng đùm bọc chúng, cho ở chung và trông con cái cho vợ chồng nó đi làm hầu tiết kiệm được tiền sau này mua nhà mua cửa và lo cho con, nhưng có dư đồng nào là hết đồng đó.
Cô coi, con Liên mới theo chồng sang Mỹ được 5 năm mà nó mang con về Việt Nam thăm cha mẹ nó tới 3 lần, tiền bạc nào chịu cho thấu.
Thằng chồng thương vợ không dám nói gì, tôi khuyên nhủ thì bị con dâu giận hờn chê trách tôi ích kỷ nhỏ nhen không muốn nó về thăm cha mẹ….
Tôi đã hiểu phần nào câu chuyện và tin những lời người mẹ này kể. Một chuyến về thăm Việt Nam của 3 mẹ con Liên tiết kiệm lắm cũng phải tốn năm, bảy ngàn, vung tay hơn nữa là tốn chục ngàn như chơi.
Nếu cha mẹ Liên ở Việt Nam biết hoàn cảnh tiền bạc Liên không dư dả gì mà về Việt Nam liên tục như thế chắc gì họ đã vui?
Thà rằng cứ thăm hỏi qua điện thoại, qua thư từ, biết tin nhau mạnh khỏe bình an là vui rồi.
Thay vì thường xuyên về Việt Nam, Liên có thể gởi biếu cha mẹ tiền vẫn nhẹ nhàng đỡ tốn kém hơn rất nhiều..
Bà mẹ kể tiếp:
– Tôi đành đoạn… đuổi chúng ra khỏi nhà. Quả thật sau hai năm ở riêng dù phải trả tiền nhà, tiền gởi con nhưng vợ chồng nó biết lo làm ăn, tiết kiệm, để dành được một món tiền nhỏ, vợ chồng tôi phụ thêm vào cho chúng tiền để pay down mua một căn nhà.
– Bây giờ mẹ chồng nàng dâu đã thông cảm nhau rồi hả bác?
Bà mẹ tươi cười:
– Chắc con dâu đã hiểu ra tấm lòng tôi, mỗi ngày thấy nó thân với tôi một chút tôi cũng mừng, nó còn nói phải chi con không về Việt Nam mấy chuyến là có tiền down nhà từ sớm rồi.
Hồi đó mỗi lần về Việt Nam chơi là một hai tháng, đã không kiếm được tiền một hai tháng, lại mất việc khi trở lại Mỹ, tiệm nail cũ không nhận vì đã mướn người khác, nó lại phải tìm việc nơi khác và làm lại từ đầu.
Tôi tiếc rẻ giùm cho Liên:
– Hèn gì nghèo là phải, mỗi lần Liên đi chùa thường hay cầu khấn trời Phật phù hộ kiếm được chỗ làm tử tế là thế. Nhưng làm chưa ấm chỗ lại xin nghỉ về Việt Nam thì chủ nào chịu nổi.
– Tôi trông hai cháu nội cho vợ chồng nó đi làm. Bây giờ con Liên đã yên ổn một chỗ làm, nó siêng làm lắm, không mấy hồi mà trả hết nợ nhà, có căn nhà của chính mình mà ở là sướng nhất phải không cô?
– Dạ, bác nói đúng.
Bà mẹ cởi mở:
– Chừng đó, không mắc nợ nhà nợ xe gì nữa, rủng rỉnh tiền bạc thỉnh thoảng vợ chồng con cái thằng Hải con Liên có về Việt Nam thăm bên vợ ai cấm cản làm chi…
Tôi khen:
– Bác… càng nói đúng..
Bà nhìn tôi với vẻ biết ơn vì đã lắng nghe và hiểu nỗi lòng của bà. Trút xong tâm tình bà mẹ chồng… hắc ám của Liên vui vẻ nhắc nhở tôi:
– Cô nhớ đến chung vui tân gia với chúng tôi nha, căn nhà nó mua tôi ưng hết sức, vợ chồng con cái nó ở tha hồ thoải mái. Căn nhà là tổ ấm mà cũng là của cải vốn liếng, chứ đi thuê mướn nhà trả tiền tháng nào là bay mất tiêu tháng đó.
Tôi cầm tấm thiệp mời, chẳng cần biết căn nhà cũ mới thế nào nhưng đã hình dung ra một căn nhà ấm cúng của vợ chồng Liên.
Bà mẹ chồng Liên chào tạm biệt và hẹn tái ngộ.
Tôi thấy bà mẹ chồng…hắc ám này thật hiền hòa dễ thương mà hôm nay mới gặp lần đầu tôi đã nhiều cảm mến. Tôi thầm nói với theo bóng dáng bà đang khuất dần phía xa:
– Bác ơi, bác là bà mẹ chồng tuyệt vời của cô Liên đấy.
Nguyễn Thi Thanh Dương
|
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
05-24-2020
|
#79
|
|
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Join Date: Jan 2013
Posts: 37,942
Thanks: 81,070
Thanked 56,786 Times in 24,153 Posts
Mentioned: 430 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 10758 Post(s)
Rep Power: 76
|
Tên Việt trên Đất Mỹ
05/24/20
Cũng như đêm cuối cùng của Đường Tăng trằn trọc không sao ngủ được, chờ ngày mai vào yết kiến Như Lai để lên kiếp Phật. Cụ Phúc đêm nay cũng vậy ! Ngày mai cụ tuyên thệ vào quốc tịch Mỹ.
ảnh minh họa
Cụ nằm trăn trở nghĩ đến cả mười năm trời dằng dẵng, từ khi đủ năm để hợp lệ nạp đơn đến những đêm đứa con trai đi làm về chở cụ đi học lớp luyện thi vào quốc tịch ở văn phòng USCC .
Cụ nghĩ nó như con thoi giữa 2 thế hệ. Trong tuần đưa cụ đi học tiếng Anh, bắt cụ phải trả lời điện thoại " hello " chứ nói " tôi nghe đây " làm sao Mỹ hiểu được . Cuối tuần đưa con đi học tiếng Việt, mắng con gọi xe " fire truck" là " xe lửa " , phải nói là " xe cứu hỏa " hay " xe chữa lửa " chứ. Nhiều lúc cụ thấy phải chi mà thằng chắt đi học tiếng Anh, còn cụ đi học tiếng Việt thì mới đúng theo lý tự nhiên của trời đất.
Thoạt đầu cụ tưởng cả lớp luyện thi vào quốc tịch này , đầy những cụ tuổi gần đất xa trời , học để giết thì giờ, cho bớt nỗi buồn xa xứ. Vậy mà ngày bà cụ Ngà thi rớt , cả lớp xôn xao lên như ngày Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam . Thực ra thì bà này rớt cũng đáng đời lắm .
Đời thuở nào ông quan tòa hỏi tổng thống Mỹ là ai, bà cụ lại trả lời là Nguyễn văn Thiệu thì đậu làm sao được ?
Sinh nhật người nào trong lớp, bà cũng làm cho một cái bánh gà-tồ rồi bắt các cụ vây quanh hát " Happy Birthday ". Cụ không biết đến ngày chết thì người ta có hát "Happy Deathday " không, bởi vì cụ nhớ bên quê nhà những ngày kỵ giỗ mới thật là quan trọng . Con cháu tụ họp ăn uống 2, 3 ngày liền. Chứ ngày bước vào trần thế khổ ải này, người ta phải dày công tu hành để thoát ra khỏi vòng luân hồi, thì mừng rỡ ngày sinh để làm gì ?
Vậy mà thời gian thấm thoát qua đi, rồi cũng đến ngày cả lớp đi thi. Các cụ sáng sớm đã ngồi đầy ra ngoài phòng đợi của sở di trú trong tòa đô sảnh thành phố .
Cụ nghĩ ngày xưa đi thi Hương , thi đình cũng chỉ nhộn nhịp đến thế là cùng . Con cháu đem theo cho nào là bánh trái, nước uống , cả ghế xếp để ngả lưng , như thi vào quốc tịch đến mấy ngày trờị Bây giờ trí nhớ các cụ kém cỏi , học được tiếng Mỹ chữ nào , vài bữa lại quên hẳn đi không biết phát âm làm sao .
Cho nên đi thi, cụ nào cũng viết chi chít , như xâm mình trên tay , các câu trả lời phiên âm ra tiếng việt. Thằng cháu cụ Tốc thì cứ nhắc đi , nhắc lại Ngoại nhớ ngày lễ quan trọng nhất của Mỹ không phải là Tết, mà là ngày Độc Lập nha !. Cụ lại kéo tay áo lên lẩm bẩm kiếm chữ IN ĐẺ BÊN ĐÀNG . Bà cụ Ngà hỏi với qua " có phải là ngày Tây về nước không , cụ Phúc ? ". Cụ đành thở dài, biết ông tòa muốn đánh rớt thí sinh nào thì chỉ cần bắt hát bài quốc ca Mỹ là thí sinh đó rớt ngaỵ .
Vậy mà Giời phù hộ, cả lớp đậu hết . Cụ còn nhớ ngày ăn mừng tân khoa , cụ nào cũng hí hửng như những đứa trẻ con vừa lên lớp, cầm vẫy lá cờ Mỹ để chụp hình lưu niệm. Bà cụ Ngà hôm ấy đẹp hẳn ra, mặc cái váy đầm thay cái quần đen vừa nói "Con gà tui lội sông" (congratulations), vừa high-five , vừa "hug" mọi người .
Cụ thấy mọi người như trẻ ra dến cả chục tuổi. Có thể là vì cái ôm nồng nàn da thịt của bà cụ Ngà làm cụ thấy trong người đổi thay như cả một mùa xuân hừng hực kéo nhau về. Có thể là vào quốc tịch mới, làm người ta tưởng như đổi thành một kiếp người khác , trở lại cái tuổi tập ăn tập noí, nên hồn nhiên như một đứa trẻ thơ.
Thế mà đêm nay cụ lại trằn trọc . Một phần là vì cụ cứ nghĩ đến ngày mai ở tòa đô chính , ông thị trưởng thành phố tổ chức nghi lễ tuyên thệ vào quốc tịch riêng cho cộng đồng người Việt , để đánh dấu một chặng đường gần phần tư thế kỷ tàn cuộc chiến tranh của người Mỹ tại Việt Nam .
Ông chủ tịch mấy hôm nay hăm hở nhắc nhở bà con mặc đồ cho đẹp để lên truyền hình . Mọi người học thuộc lòng câu "I am proud to be American " để khi báo chí radio người Mỹ phỏng vấn thì tỏ ra cộng đồng người Việt mình mau hội nhập hơn các cộng đồng sắc tộc khác .
Cụ cứ nghĩ tới lúc trước cử tọa cả nghìn người, có thống đốc tiểu bang, nghị sĩ , dân biểu quốc hội, quan chức các ngành , người ta gọi tên cụ lên khán đài nhận bằng công dân Mỹ , là cụ lại xốn xang trong người. Chả vì cụ ngang bướng giữ cái tên cúng cơm của cụ. Tên họ trong tờ khai sinh cụ là Dư Quí Phúc .
Ỏ trại tỵ nạn, cụ đã bao nhiêu lần cãi gàn cãi bướng với mấy người thông dịch viên là tên cụ phải có dấu mới là tên của cụ Tiếng Việt một chữ có hằng chục nghĩa nếu không bỏ dấu. Thí dụ như LO có thể là lờ, lợ, lờ, lơ, lộ, lô, lố, lồ, lồ, lo, lọ ,lò, ló, lõ .. . Vậy mà có ai nghe cụ đâu , người ta cứ điền vào tên trước họ sau .
Cho đến hôm cụ còn nhớ mãi ngày nhà thờ First Bapstist Church bảo trợ gia đình cụ đến thành phố này . Hôm ấy chủ nhật, nhà thờ đông đảo chật cứng đến nỗi người ta phải đứng lan ra ngoài hành lang. Ông mục sư trịnh trọng giới thiệu gia đình cụ mới dịnh cư .
Cứ mỗi lần tả cảnh gian khổ gia đình cụ trải qua, cả nhà thờ lại xướng ầm lên Alleluja có nghĩa là ngợi khen chúa. Cuối cùng ông mục sư nói dõng dạc giới thiệu cụ: Please welcome , Mr. Phuc Du Cái giọng ông oang oang lên "Phuc Du !" Cả nhà thờ đang xôn xao bỗng im lặng như chiếc xe lủa thắng gấp lại rồi lấy trớn lao tới cười nghiêng, cười ngửa . Ông mục sư ngơ ngác sửa lại gọng kiến, nhìn xuống tờ giấy viết tay rồi đọc lại tên cụ lần nữa Phuc Du Lần này đến phiên ông mục sư gấp người lại làm đôi, cười sặc sụa chảy cả nước mắt nước mũi ra . Cụ Phúc chân ướt chân ráo, tưởng đó là phong tục địa phương chào đón mình đứng bụm hai tay đưa lên trán bái tứ hướng để cảm ơn sự ưu ái của nhà thờ .
Sau này ông mục sư cho người đến đề nghị cụ đổi tên gọi để lấy lại sự nghiêm trang . Một là cụ lấy hẳn tên Mỹ như John, Peter, Larrỵ..cho dễ gọi Hoặc phiên âm tên cụ tiếng Việt Ông Phúc Dư ra tiếng Mỹ là Mr. Foot Joy . Cụ bực lắm , tên cụ từ Việt Nam là Quí Phúc , nghĩa là ơn phước quí báu của trời phật ban cho , sang đến đây thì lại thành ...Túc Hân , là bàn chân hân hoan.
Cụ bỏ xứ sở ra đi, mất hết chỉ còn một cái tên Việt là cái di sản gốc gác của cụ mà đành phải mất luôn sao . Từ đó cụ không đi nhà thờ Tin Lành nữa, nhưng tên cụ thì cứ tạm thời giữ vậỵ Cụ đi tỵ nạn vài bữa, khi nào quốc gia thanh bình thì cụ lại dắt các con cháu về. Thà làm cụ Phúc nước Việt , hơn làm cụ Túc nước Huê Kỳ.
Ngày mai cụ tuyên thệ vào quốc tịch Mỹ. Thế mà cụ Phúc lại trằn trọc đêm nay không sao ngủ được. Cũng bởi vì mấy hôm trước các cụ tân khoa bàn về chuyện tiếp tân mừng ngày nhập tịch Mỹ. Bế tắc từ đầu chỉ vì các cụ phải chọn món ăn cho buổi tiệc . Món ăn nào đãi khách vừa thích hợp với quốc tịch mới , vừa có bản sắc dân tộc .
Ông Hai Bò lên tiếng ngaỵ Ông này tên việt nam là Cao Văn Tự, trong giấy tờ viết là Tu Cao. Mỹ đọc là " two cows " nghĩa là 2 con bò . Từ đó có tên Hai Bò . Vốn là dân thông dịch viên cho Mỹ ở căn cứ Long Bình , sang bên này ông bán bảo hiểm nhân thọ . Cụ nào mà được ông kéo riêng ra góc phòng đều sợ run lên như tử thần đến, vì ông Hai Bò cứ thúc dục luôn "cụ thử nghĩ coi cụ còn sống được bao lâu, trời gọi ai người nấy dạ . Thú chết để da, người ta chết để tiếng .
Mấy cụ qua đây ăn phút tem ( Food Stamps)thì có tiếng gì mà để, chi bằng mua cái bảo hiểm nhân thọ , đến khi chết để lại cả bạc triệu cho người ta xây một cái chùa hay nhà thờ có phải là tên tuổi mình khắc vào bia đá nghìn năm, bất tử với đời không ". Tưởng ông dọa chết thì cóc ai thèm mua, thế mà từ ngày cụ Hanh mua cái bảo hiểm nhân thọ đầu tiên, Hai Bò bỗng đắt khách như tôm tươi.
Chả vì cụ Hanh mới đoàn tụ gia đình vài năm nay. Mấy đứa con qua từ năm 75 , nhà cao cửa rộng , ngày cụ đến phi trường không thấy đứa nào ra đón . Thằng Tư thì đùn cho chị Ba , vợ thằng Bảy thì nói nhà nó có lầu cao , sợ ổng già đi chỏng gọng, té bể đầu . Hôm ấy, cụ Hanh lủi thủi đi với bà Mỹ USCC về ở cái phòng trong khu housing Mỹ đen. Hôm nghe Hai Bò dụ mua bảo hiểm nhân thọ, lại chịu lấy bằng phút-tem, cụ Hanh mua ngay .
Vài hôm tin đồn cụ có cái bảo hiểm bạc triệu, mấy đứa con bỗng có hiếu hẳn ra , tranh nhau mời cụ về nhà ở. Chồng con Năm Thúy đánh lộn với thằng Tư chỉ vì tội không để cho nó báo hiếu nuôi ông già vợ . Ngày nào cụ muốn ăn thức gì , đám con rối rít đi mua về ăn không hết . Có điều hơi lạ là... không đứa nào mua sâm cao-ly để cụ uống cho khoẻ người , sống thọ thêm ra.
Thỉnh thoảng trái gió trở trời , cụ mới ho hen cảm cúm nằm trên giương vài ngày là cả nhà xúm lại bàn chuyện làm cái di chúc sao cho hợp lệ với thủ tục tiểu bang , để lãnh tiền bảo hiểm mà không phải đóng nhiều thuế.
Thấy cụ Hanh chỉ mua cái bảo hiểm nhân thọ mà được con cái hậu đãi, đi học mặc áo vest, tay cầm mô bai thì các cụ ngộ ra rằng tội gì ở xứ cờ hoa này mà không làm triệu phú . Sống trên đời mà không mua bảo hiểm nhân thọ, xuống âm phủ biết có hay không, bèn ùn ùn theo năn nỉ Hai Bò để được giá rẻ. Chết được bonus một cái hòm cẩm lai của nhà táng xác tặng quảng cáo .
Hai Bò bỗng dưng trở thành ân nhân của hội bô lão , nên khi Hai Bò nói bất cứ cái gì , mọi người đều lắng nghẹ Hai Bò trịnh trọng xoa 2 tay vào nhau . " Cái tradition của người Mỹ từ trước đến nay, party mà có tính cách dân tộc là phải có barbecue . Barbecue là chữ ghép bởi 2 chữ "Barbaric" and "cuisine" có nghĩa là cách nấu ăn cách mọi rợ . Ám chỉ một sinh hoạt văn hóa bán khai của người da đỏ ngày trước . Họ mới là người Mỹ chính hiệu con nai vàng. Tuy những người da trắng đến đây, dùng vũ lực cướp hết đất đai của người da đỏ để lập nên Hiệp Chủng Quốc , người Mỹ luôn luôn nhắc nhở con cháu họ ông tổ Mỹ là người da đỏ bằng cách ăn barbecue . Do đó chúng ta trở thành công dân Mỹ, uống nước nhớ nguồn : " drinking water remember origin hole ". Tôi xin đề nghị món ăn barbecue "
Cụ Can't Do đứng lên khua tay phản đối . Tên thật cụ là Đỗ Thành Cẩn. Viết theo lối Mỹ thì họ tên lẫn là Can T. Do . Bà cô dậy Anh ngữ thấy cụ chả bao giờ chịu làm homework , bèn đọc luôn là "Can't Do". Cụ là người duy nhất không mua bảo hiểm của Hai Bò vì bà xã cụ còn sồn sồn. Cụ chỉ sợ có bảo hiểm nhân thọ thì nhiều khi chết sớm vì lâu nay cụ Can't Do không còn hăng hái trong chuyện phòng the, mà vợ cụ còn xuân xanh lắm.
Ngày xưa bán bánh cuốn ngoài chợ Thị Nghè, vợ cụ ngồi xổm nhiều nên cái bàn mông mẩy ra tròn trịa to như hai cái lồng bàn. Ở Việt Nam thì cái quần đen với cái áo bà ba che hết đi, qua Mỹ mặc cái quần jean vào nó lồ lộ , khêu gợi làm sao . Thế mà cụ Can't Do lại cứ cố tình phớt lờ như thể cụ là một nhà hiền triết đạo mạo. Ngày nào cụ cũng tập Tai Chi cho cứng gân cứng cốt , mà hễ cứ gần vợ cả người cụ rủ nhau... mềm nhũn ra như bún . Lần nào vợ cụ cũng thở dài thườn thượt , bảo cụ chết quách cho xong. Nói vậy thì cụ mua bảo hiểm nhân thọ để làm quái gì . Nghe Hai Bò trình bày món ăn barbecue, cụ Can't Do gạt phắt đi . "
Miếng thịt Barbecue là biểu tượng cái đầu óc thực dân, kỳ thị của người da trắng . Họ coi sự chinh phục những người bản xứ da đỏ là một chiến thắng vĩ đại trong lịch sử Hoa Kỳ. Món barbecue của người Mỹ thường là do các đấng mày râu đứng nướng để biểu lộ hùng tính và cương vị thủ lãnh của phái nam, nhắc nhở chúng ta hình ảnh các chiến sĩ xẻo thịt rồi xóc vào gươm mà nướng để khao thưởng sau các trận mạc. Nước mỹ là nơi melting pot, hợp chủng quốc .Món ăn tiêu biểu phải là hamburger , món thịt bằm hầm bà lằng . Người Mỹ ăn hamburger còn để nhắc nhở con cháu họ về cuộc chiến Nam Bắc phân tranh tương tàn của họ Tôi xin đề nghị món thịt băm hamburger ".
Bà Loan To , tên Việt là Tô thị Loan, Mỹ lại đọc là Lôn To, đưọc dịp đứng lên phát biểu. Bà này lại có chồng Mỹ da đen Frank Quaker , hoả đầu quân của lính bộ binh Mỹ tham chiến thời trước. Nên tên bà nay có thêm họ Mỹ là Loan To Quaker. Mấy cụ trong lớp thì Việt Nam hoá tên bà là Lôn-To-Quá-Cỡ !!! Bà Lôn To phát biểu " Dạ tui không biết nhiều về lịch sử Mỹ, chỉ biết ngày đầu tiên về nhà chồng được ông xã tôi cho ăn món Hot Dog . Tui thấy hot dog mới là biểu tượng đúng cho chức vị siêu cường quốc , hùng mạnh của nước Mỹ. Tui xin đề nghi Hot Dog, mà size loại Jumbo à nghen ".
Bà cụ Ngà ngồi bên đắc ý hùa theo "Cùng là bò mà thịt bò Mỹ nó khác thịt bò Việt Nam chị ạ . Để cả tuần trong tủ lạnh , bỏ ra nó cứ đỏ ửng lên. Còn thịt bò việt nam mình để từ sáng đến trưa nó tái hẳn đi như thịt trâu ấy " .
Các cụ ông... lấm lét nhìn nhau không biết bà cụ Ngà đang bàn về văn hóa của những miếng thịt hay nói xéo qua về những đồ gia dụng hàng ngày của... các cụ ông ?
Cụ Quýnh trưởng ban tổ chức thấy mọi người nhao nhao lên , nên theo tinh thần dân chủ của Mỹ đề nghị là sẽ có cả 3 món barbecue, hamburger và hot dog. Ông Hai Bò lại có thêm ý kiến để có tinh thần Mỹ Việt đề huề, các món ăn trong thực đơn phải dịch ra tiếng việt . Cụ Quýnh sẽ cho ghi bên cạnh là : barbecue (thịt nướng kiểu mọi), hamburger (thịt bằm dập), hot dog ( thịt chó nóng) .
Đã gần nửa đêm mà Cụ Phúc chưa thấy ai lên tiếng về phần món ăn việt nam. Có thể là vì người việt mình ở Tây phương trong những xã hội tự do nhất hoàn cầu lại cảm thấy mình như côi cút, lạc lối , xa lạ cả với chính tình tự quê hương của mình. Từ xưa đến nay cụ vẫn tự hào về bản sắc văn hóa riêng biệt của người Việt .
Ra ngoại quốc cụ thấy rằng cái mà xưa nay ta vẫn tưởng là Việt tính, nay chỉ còn lại chẳng bao nhiêu là Việt, mà tính cũng chẳng còn là bao ; cái mà xưa nay ta vẫn tưởng là của ta , ngờ đâu chỉ là cái đàn cha, đàn chú, đàn anh của ta vay mượn từ lâu của ngoại nhân . Với cái hoang mang đo , cụ nghĩ đến câu văn hào Paul Valry " Muốn biết văn hóa của giống dân nào thì cứ nhìn vào sinh hoạt hàng ngày của giống dân đó " . Cụ nghĩ nếu đãi khách bằng một món ăn có bản sắc dân tộc, biểu tượng cho người Việt thì phải chọn là món ăn gì . Không gì Pháp bằng crêpe, không gì Mỹ bằng hamburger, không gì Ý bằng pizza ,không gì Đức bằng bratwurst, không gì Mễ bằng taco , không gì Nhật bằng sushi . Còn Việt nam là phở ư ?
Ở bên này Cụ thấy hầu hết những đám cưới, đám hỏi người ta giữ đủ phong tục nghi lễ cổ truyền mà có đám nào đãi ăn phở đâu mà gọi là món ăn dân tộc ?
Hay là tại sao mình không tổ chức tiếp tân tại nhà hàng Tàu cho tiện .
Chỉ có thế thôi mà giông bảo nổi lên trong phòng hội chỉ vì sự khủng hoảng về hiện tượng bám víu thê thảm vào cái tính đồng nhất riêng biệt của hành trang ý thức và tình cảm quê cha đất tổ .
Trời đã quá đêm....
Ánh trăng còn lại một chút trên khung cửa ẩm uớt hơi sương. Cụ Phúc vẫn còn nằm trăn trở không sao ngủ được ...
st.
|
|
|
|
The Following 2 Users Say Thank You to cha12 ba For This Useful Post:
|
|
|
05-25-2020
|
#80
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Truyện ngắn: Cho môi em một màu son.
Em một nửa đi tìm anh một nửa,
Mộng đêm Xuân xin ghép lại cho tròn.
Bích vừa lui cui làm bếp vừa dặn dò chồng:
– Anh Ðoan, những ngày bạn em ở đây anh đừng lạnh lùng và nghiêm trang như một thầy tu nữa nhé. Chốc nữa cùng em ra phi trường đón nó em muốn anh phải thực hiện ngay cho em thấy, tươi vui và nồng nhiệt lên….
Ðoan hứa cho vợ vừa lòng:
– Em muốn anh vui thì anh sẽ vui ngay.
Bích hào hứng:
– Em hoàn tất bữa cơm đãi khách xong là đi tắm rửa thay quần áo đây. Anh cũng sẵn sàng đi là vừa.
Khách từ phương xa đến, Hoài Thu vừa từ Việt Nam sang Mỹ du lịch hai tháng, nàng ở nhà người chị họ ở California một tháng và sẽ bay từ Cali đến Texas ở nhà vợ chồng Bích một tháng
Lịch trình này Hoài Thu và Bích đã rộn rã email và nói chuyện phone trao đổi nhiều lần.
Khi xưa ở Việt Nam, Bích và Hoài Thu là cô giáo dạy chung trường, dạy cùng môn văn, dù Hoài Thu kém Bích 3 tuổi nhưng hai người vẫn là bạn thân, luôn chia sẻ cho nhau những buồn vui nghề nghiệp và cuộc đời.
Bích định cư ở Mỹ. Sau này Bích đã liên lạc được với Hoài Thu, tình bạn giữa Bích và Hoài Thu lại thân thiết kéo dài cho đến bây giờ.
Ðoan thay đồ xong, chàng nói với vợ:
– Anh trình diện em đây, đủ chỉnh tề để chào đón bạn em chưa?
Chàng vốn ít nói, nghiêm trang và thầm lặng.
Hai vợ chồng hai công việc và cả những ý nghĩ cũng hoàn toàn khác nhau, Bích làm chủ một tiệm nails cách nhà 1 giờ xe, Ðoan là kỹ sư làm việc gần nhà, ngay downtown Dallas.
Buổi chiều chàng về nhà có cả một khoảng thời gian dài riêng tư để sống theo ý mình, đọc sách hay lên net.
Ðứa con trai duy nhất của họ chọn học một trường đại học ở tiểu bang khác, nó mới vào đại học năm ngoái.
Ngôi nhà rộng 4,000 Sqft. quá thênh thang cho hai vợ chồng. Bích đã hớn hở rủ Hoài Thu sang Mỹ chơi và đến ở nhà nàng. Ðây là lần đầu tiên đôi bạn gặp gỡ sau bao nhiêu năm xa cách.
Chuyến bay từ phi trường LAX đáp xuống phi trường DFW lúc 4 giờ chiều.
Bích điệu đàng ôm một bó hoa xinh để chào đón khách. Dù đã từng trao đổi nhau hình ảnh mà khi Hoài Thu xuất hiện Bích vẫn ngỡ ngàng vì nàng trẻ đẹp hơn so với tuổi 42, có lẽ phụ nữ độc thân chưa từng lập gia đình vẫn giữ được nét son trẻ lâu hơn.
Bích trao hoa cho bạn và ôm nàng trong vòng tay :
– Hoài Thu ơi, chẳng ai ngờ hai đứa mình lại gặp nhau nhỉ.
Ðoan lên tiếng chào:
-Chúc mừng hai cô “nối lại tình xưa”.
Bích liền vui vẻ giới thiệu:
– Ðây là Hoài Thu, cô bạn nhỏ của em. Còn đây là anh Ðoan chồng Bích, như Bích đã kể trước cho Hoài Thu rồi, anh Ðoan vốn là người nghiêm trang như thầy tu lại trầm ngâm như nhà thơ. Nhưng anh… chẳng thuộc kinh và cũng chẳng biết làm thơ.
Hoài Thu dè dặt:
– Chào anh Ðoan, không biết là em có làm phiền anh không? Cho em xin lỗi trước nhé.
Ðoan lịch sự:
– Cô đừng khách sáo.
Bích đã giao tiệm nails cho nhân viên trông coi, nàng nghỉ hẳn một tuần ở nhà tiếp khách, Ðoan cũng lấy một tuần vacation cùng vợ đưa khách đi chơi đó đây.
Trước tiên là Bích đưa Hoài Thu đến thăm tiệm nails để được dịp khoe những thành công của mình, tiệm mở đã lâu, dưới tay nàng luôn có gần chục cô thợ nails làm chăm chỉ không hết việc.
Ðưa Hoài Thu đến vài danh lam thắng cảnh trong vùng xong Bích đề nghị một chuyến đi chơi xa tiểu bang nào đó nhưng Hoài Thu nói nơi nào trên đất Mỹ đối với nàng đều là cảnh lạ, đều đẹp, chẳng cần đi xa khỏi tiểu bang Texas làm gì.
Ði trên xa lộ thấy những cánh đồng mênh mông sau mùa gặt hái, cỏ khô trơ trọi cũng làm nàng tò mò thích thú.
Thấy những con đường nhỏ hun hút vào sâu trong đám rừng ven đường nàng cũng bâng khuâng khi biết con đường đó dẫn vào một trang trại một mình một cõi của chủ nhân. Nàng ao ước:
– Giá mà chúng ta được vào một trang trại xem sao…
– Nhưng vắng vẻ và buồn lắm Hoài Thu ạ.
Hoài Thu mơ màng:
– Hoài Thu thích sống nơi ấy với… một người thương.
Bích thắc mắc:
– Tại sao một người đẹp và có học như Hoài Thu lại… chưa lấy chồng cho đến bây giờ nhỉ? Kén chọn quá hở?
Hoài Thu bào chữa:
– Có nhiều người đến với Hoài Thu nhưng… có lẽ tại duyên chưa đến thì đúng hơn. Nhìn lại mới biết mình… đã già.
Ðoan lái xe lặng im nghe vợ và bạn nói chuyện, mới gặp Hoài Thu lần đầu chàng cũng đã tự hỏi như Bích đã hỏi và chàng thấy mơ ước của Hoài Thu hình như…giống chàng.
Ở một nơi vắng vẻ nào đó chàng vẫn muốn tìm đến, một cuộc sống đơn giản, bình yên, êm ả.
Trong khi Bích thích cuộc sống ồn ào, nhà cao cửa rộng, xe đẹp đời mới để phô trương với bạn bè sang đẹp .
Sau một tuần thì Bích đi làm lại, sáng đi chiều tối mới về đến nhà, là chủ nhân nên nàng phải đến tiệm sớm và là người ra về sau cùng.
Ðoan cũng đi làm lại, nhưng chàng có buổi chiều để đưa Hoài Thu đến những nơi nào đó trong thành phố. Bích đã giao phó cho Ðoan công việc này.
Hoài Thu thích ra hồ, cách nhà chỉ 15 phút, nàng và Ðoan thong dong đi bộ quanh hồ cho đến khi mỏi chân thì cùng ngồi trên băng ghế đá dưới gốc cây dọc theo bờ hồ, vừa chuyện trò vừa nhìn những con vịt trời bơi trong làn nước cho đến khi chiều xuống thấp, gió lành lạnh hai người mới ra về.
Ðoan vài lần đã hỏi:
– Em chán cảnh hồ chưa? Mai anh đưa em đến nơi khác.
– Ngày nào em cũng thích ra đây, xung quanh mình là gió, nước với mây trời còn chỗ nào đẹp hơn nữa.
Ðoan cũng từng nghĩ thế. Không hiểu sao chàng và Hoài Thu là hai kẻ lạ, ở rất xa nhau mà bỗng gần nhau hiểu nhau như tri kỷ tự bao giờ.
Về nhà Hoài Thu và Ðoan chung tay làm bếp sửa soạn bữa cơm chiều đợi Bích về cùng ăn.
Ðoan thích thú khi được Hoài Thu “sai bảo” lấy thứ này thứ nọ. Căn bếp ấm cúng khi chỉ có hai người, thêm Bích căn bếp ấm cúng ấy bỗng mong manh và tan biến mất.
Từ ngày có Hoài Thu, Ðoan đã thay đổi, mỗi ngày là một ngày vui. Bích cũng nhận thấy, nàng hài lòng khen chồng:
– Anh giỏi lắm, cứ tươi vui như thế này nhé, khách đến nhà mà chủ nhân mặt lạnh như đông đá thì ai dám ở.
Chàng vui có phải vì lời dặn dò của vợ đâu, niềm vui tự nhiên đến và có cả nỗi buồn, sợ một tháng trôi qua Hoài Thu sẽ từ giã ngôi nhà này.
Mỗi cuối tuần tiệm nails đóng cửa Bích lại cùng chồng đưa Hoài Thu đi chơi và đi ăn.
Hai vợ chồng chủ nhà đã cho Hoài Thu đi thêm nhiều nơi trong và ngoài thành phố để hiểu biết thêm về cuộc sống ở Mỹ.
Hoài Thu cũng thấy tiếc từng ngày trôi qua, có gì đó khiến nàng gần gũi thân quen nơi căn nhà này.
Garage ngăn nắp do bàn tay Ðoan sắp xếp, vườn sau có patio xinh đẹp là thành quả của Ðoan, chàng lát những phiến đá nâu đỏ, hàng rào gỗ nâu với bụi hoa hồng leo màu vàng xum xuê.
Chiếc ghế xích đu và bộ bàn ghế kê trong sân patio là dịp vợ chồng bên nhau. Chàng là người đàn ông của gia đình.
Nàng cũng đã từng ước mơ có một người đàn ông như thế trong đời.
Chiều nay là chiều cuối cùng Hoài Thu ở Mỹ. Chiều mai nàng sẽ giã từ.
Chuyến đi nào cũng có ngày về, nhưng lần về này chắc sẽ buồn hơn bao giờ. Tự nhiên Hoài Thu linh cảm thế, nàng lưu luyến tình bạn hay một tình cảm nào khác?
Ðoan đi làm về sớm hơn mọi ngày, vừa mở cửa thấy Ðoan, Hoài Thu không kìm nén được sự mừng vui reo lên:
– Anh đã về….
Và nàng chợt ngượng ngùng bối rối, anh là ai mà làm nàng chờ mong tha thiết đến thế.
Chàng đọc thấy sự vui mừng ấy, lòng chàng cũng vui khi gặp nhau như nàng:
– Anh về sớm vì chỉ còn một buổi chiều nay. Em muốn đi đâu dù cùng trời cuối đất nếu đi được anh cũng sẽ đi.
– Em chẳng hành hạ anh đâu. Ra bờ hồ như mọi ngày anh ạ.
Nàng vào trong phòng thay quần áo. Khi Hoài Thu đang trang điểm thì Ðoan gõ cửa, Hoài Thu mở cửa ra và anh đứng chờ ngay nơi khung cửa. Nàng không thể và cũng không muốn khép cánh cửa vào.
Nhìn vào tấm gương từ bàn trang điểm Hoài Thu thấy Ðoan. Hình như anh đang có điều gì băn khoăn muốn nói.
Nàng mở tung hộp trang điểm lục tìm từng thỏi son, Ðoan vẫn đứng đó, anh không bước ra mà cũng chẳng dám bước vào phòng. Cứ làm như anh đang đứng trước ngã ba đường chẳng biết mình sẽ đi đâu.
Hoài Thu vẫn đang tìm một màu son. Chiều nay là lần cuối cùng đi chơi với anh, nàng muốn tặng anh một màu son đẹp, chẳng biết màu son nào anh thích? A, đây rồi…
Nàng thầm reo lên và quay ra nhìn Ðoan mỉm cười:
– Anh đừng sốt ruột, chờ em chút thôi.
Ðoan không cưỡng nổi, chàng bước đến bên Hoài Thu và đứng sau lưng nàng.
Hoài Thu đứng dậy xoay người lại, bốn mắt nhìn nhau quá gần.
Ðể tránh bối rối, như một đứa trẻ con tinh nghịch Hoài Thu giơ cao khoe thỏi son màu hồng san hô:
– Anh thích không?
Ðoan đáp lại bằng một câu hỏi:
– Cho phép anh tô màu son lên môi em không?
– Vâng…
Hoài Thu ngỡ ngàng lặng người và run rẩy chỉ đáp được một tiếng “vâng”. Nàng đưa chàng thỏi son san hô đã mở nắp và đôi môi trinh nguyên chờ đợi.
Suốt một thời con gái cho đến tuổi xuân muộn này chưa có người đàn ông nào có ý nghĩ đáng yêu như anh, người sẽ tô điểm cho đôi môi nàng một màu son.
Nhưng Ðoan quẳng thỏi son san hô trở lại bàn trang điểm, thỏi son lăn lóc nơi góc nào đó:
– Anh không cần thỏi son này.
Chàng dịu dàng ôm lấy khuôn mặt Hoài Thu và đặt lên môi nàng nụ hôn dài tha thiết, đôi môi người phụ nữ chưa từng yêu mềm mại và ngọt thơm như trái cây chín giữa mùa.
Ðoan thì thầm:
– Anh tô son cho đôi môi em bằng nụ hôn này, màu son anh cho không bao giờ tàn phai nhé.
Sáng hôm sau vợ chồng Bích đưa Hoài Thu đi shopping mua sắm. Bích mua tặng Hoài Thu vài món đồ. Chỉ có Bích vô tư vui vẻ, còn Ðoan và Hoài Thu tâm trạng ray rứt ngổn ngang.
Về đến nhà Hoài Thu thu xếp hành lý để chiều ra phi trường. Ngồi một mình trong căn phòng của mình Hoài Thu nhớ lại chiều qua, Ðoan đã đứng đây, đã ôm hôn nàng, cảm giác ấy đúng như anh nói sẽ chẳng thể nào quên.
Hoài Thu đưa ngón tay đặt lên môi, vẫn cảm thấy nụ hôn anh ở lại. Anh đã cho nàng một màu son yêu bất diệt.
Bất giác Hoài Thu nằm lăn mình trên nệm và úp mặt vào gối khóc nghẹn ngào.
Trong đời nàng đã từng được tỏ tình nhưng chưa ai cho nàng rung cảm ngây ngất như Ðoan. Khi nàng cảm nhận được một tình yêu thật sự, một tình yêu mà cả đời nàng vẫn đang tìm kiếm chờ mong thì chỉ là con đường cùng, ngõ hẹp.
Có tiếng gõ cửa và tiếng Bích:
– Hoài Thu ơi sửa soạn hành lý xong chưa?
Hoài Thu lau vội vàng những giọt nước mắt, xếp lại gối chăn cho gọn gàng. Bích bước vào phòng ân cần nói:
– Bích sẽ giặt lại chăn gối và… biết đâu sang năm Hoài Thu lại sang chơi.
Hoài Thu gượng mỉm cười và những tiếng phản kháng không ngừng vang dội lên trong đầu óc nàng: “Không … không bao giờ Hoài Thu đến đây lần nữa đâu Bích ơi, anh Ðoan ơi..”
Bích đưa Hoài Thu ra phi trường. Ðoan tiễn nàng ra tới ngoài sân, người ngồi trong xe và người đứng ngoài xe cùng giơ tay chào tạm biệt.
Bích ái ngại giải thích với Hoài Thu:
– Anh Ðoan thế đấy, không muốn cùng ra phi trường với chúng ta. Hoài Thu đừng để ý đến tính nết nắng mưa của anh ấy nhé.
Bích đâu hiểu rằng cả Ðoan và Hoài Thu đã dặn nhau không đưa tiễn phút cuối, sợ sẽ không giấu nổi cảm xúc trước mặt Bích. Mối tình ngắn ngủi này chỉ riêng của hai người.
Chiếc xe lăn bánh rời khỏi nhà, Ðoan quay vào nhà, đôi chân chàng như có ma lực nào đó đưa đẩy chàng bước vào phòng của Hoài Thu.
Chàng ngồi xuống nệm, vuốt ve lên chiếc gối, tưởng như còn ngửi thấy mùi hương tóc của nàng đâu đây, mùi hương tóc mà anh đã được gần kề.
Mắt Ðoan chợt vui khi thấy thỏi son còn nằm nơi góc bàn trang điểm kia, thỏi son san hô hôm qua đã mở nhưng hôm nay nắp đậy lại gọn gàng trong chiếc hộp be bé xinh xinh.
Nàng không bỏ quên, rõ ràng là nàng cố tình để lại cho chàng, nàng không cần đến thỏi son này nữa vì nàng đã có màu son môi không bao giờ tàn phai. Ðiều ấy chỉ mình chàng hiểu.
Ðoan cầm hộp son lên, mở ra và ngắm nghía, cây son xài dang dở này đã từng tô điểm môi nàng. Cây son sẽ ở lại với chàng như Hoài Thu sẽ luôn phảng phất quanh đời
Nguyễn Thị Thanh Dương.
|
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
|
|