Khóa 16 Võ Bị và những người chọn rằn ri
Tháng 12/1962, mười Thiếu úy Khóa 16 Võ Bị tình nguyện về Thủy Quân Lục Chiến – cái binh chủng mà ai cũng biết là “xung phong trước, rút sau cùng”. Họ tản ra các tiểu đoàn: TĐ1 có Trịnh An Thạch, Trần Văn Hiển; TĐ2 có Nguyễn Xuân Phúc, Nguyễn Văn Kim; TĐ3 có Phạm Văn Sắt, Nguyễn Đình Thủy; TĐ4 có Trần Ngọc Toàn, Nguyễn Đằng Tống, Đỗ Hữu Tùng; thêm một ông thuộc dòng họ “Tôn Thất”. Sau đó, có thêm Nguyễn Kim Đễ từ SĐ7BB chuyển về, và Nguyễn Văn Cảnh gốc K16 học Khóa 2 Nha Trang. Tổng cộng 12 người Khóa 16, khoác áo rằn ri, bước vào Binh chủng TQLC. Trong đó 11 người đi hết con đường binh nghiệp trong màu áo ấy, lên tới tiểu đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng, trưởng phòng 3 sư đoàn, chiến đấu cho tới giờ phút cuối cùng cũng vẫn là lính TQLC. Có người đã hy sinh, tên khắc vào lịch sử. Chỉ có một người là… “tổn thất”: chưa kịp mặc rằn ri, chưa kịp làm trung đội trưởng, chưa bao giờ nghe tiếng đạn AK ngoài thao trường, thì cao bay xa chạy về chỗ yên thân. Đời binh nghiệp của ông kết thúc trước khi bắt đầu, để rồi mấy chục năm sau, năm 2023, lại lăng quăng chung quanh đồng khóa trong vai một “huấn luyện viên súng cối” trên miệng, một “chủ tịch đảng kíu nước” trong trí tưởng tượng. Cả hai cố níu chút danh gì đó – nhưng chỉ để “lưu xú” trong ký ức anh em. Cùng Khóa 16, cùng một thời tuổi trẻ, một bên chọn rằn ri và chiến trường, một bên chọn an toàn và khẩu hiệu. Câu hỏi “ai còn nhớ, ai đã quên” bắt đầu từ đó.
TQLC Phúc Yên – người chỉ huy sinh ra trong khói lửa
Trong số 11 người Khóa 16 gắn bó trọn đời với TQLC, Nguyễn Xuân Phúc – đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng, mà anh em gọi bằng cái tên thân thương “TQLC Phúc Yên” hay “Robert Lửa” – là một trong những gương mặt sáng nhất. Anh xuất thân Võ Bị, tình nguyện về Tiểu Đoàn 2 TQLC giữa vùng sông nước Cà Mau, làm đại đội phó của Trung úy Nguyễn Năng Bảo. Những ngày đầu đời binh nghiệp, Phúc đã lập chiến công trong trận Đầm Dơi – cuộc đụng độ lớn giữa TĐ2/TQLC với hai tiểu đoàn VC U Minh và Cửu Long. Giữa ruộng nước ngập đầu gối, hỏa lực địch như mưa, các đại đội bị cầm chân chờ chết, Phúc bình tĩnh đề nghị đánh “ngược chiều”: gom quân chiếm đám dừa bên phải, yểm trợ cho bạn xung phong chiếm bìa làng, tìm đường sống trong con đường chết. Anh hiên ngang dẫn quân băng qua ruộng nước, xung phong chiếm đám dừa dưới mưa đạn, mở hỏa lực ào ạt vào bìa làng cho đồng đội nhào lên. Mỗi người lính vừa bắn vừa chạy, đứa nào rớt lại phải… mặc kệ, vì nếu dừng là chết hết. Trận đó, Tiểu Đoàn 2/TQLC xóa sổ hai tiểu đoàn VC, bắt được vũ khí hạng nặng lần đầu chúng đem vào miền Nam, và trở về trong tiếng hò reo của dân Cà Mau, tiếng vinh danh từ Bến Bạch Đằng đến Thị Nghè. Trong chiến thắng ấy, ngoài vị tiểu đoàn trưởng tài ba, ngoài những đại đội trưởng lì lợm, còn có cái đầu nhanh nhạy và trái tim quả cảm của một thiếu úy trẻ tên Nguyễn Xuân Phúc – người đồng đội xin riêng một đóa hồng để tặng.
“Robert Lửa”: vừa đốt địch, vừa sưởi ấm anh em
Biệt danh “Robert Lửa” không phải tự Phúc đặt, mà do anh em trong đơn vị phong cho. Gặp trận, anh là lửa thiêu cháy địch; trong đời thường, anh là sức nóng sưởi ấm đồng đội. Những câu chuyện về anh giữa anh em TQLC đầy chất lính: hai thằng thiếu úy say rượu ôm nhau… nhảy xuống cầu, làm cả toán Địa Phương Quân tưởng có người tự tử, nổ súng lia chia; đêm quân dân Cà Mau hân hoan, hai thằng lại kéo nhau ra phố say bất kể trời đất; giữa hậu cứ, anh Phúc vừa là cấp chỉ huy nghiêm nghị khi hành quân, vừa là người anh hết mình trong những buổi nhậu, cà phê, thuốc Ruby Queen trên tay, câu chửi thề trên miệng nhưng là để kéo đàn em từ chỗ “ba-gai” về thành lính chiến thực thụ. Có những sĩ quan trẻ về TĐ2 với tâm trạng bất mãn, bị “thử lửa”, cảm thấy bị coi thường. Nhưng chỉ một điếu thuốc, một ly cà phê, một câu nói ngắn của anh – “chú mày làm ăn được đấy”, “ở lại đi, đất dụng võ TQLC hẹp lắm, chú mày sai một chuyến rồi” – đã đủ làm người ta mềm lại, bỏ bớt tự ái, bớt ngựa non háu đá. Một chỉ huy tốt không chỉ giỏi điều binh, mà còn giỏi điều… con người. Ở Phúc, hai thứ đó hòa làm một.
Bình Lợi, Mậu Thân và những viên đạn xuyên qua ngực
Mậu Thân 1968, với vai trò Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 6/TQLC, Phúc cùng lính “Cọp Biển” giữ đầu cầu Bình Lợi – nơi VC đã làm chủ từ trước đó. Đêm khuya, một tiểu đoàn CSBV có đặc công yểm trợ tấn công ngay vào đầu cầu phía Nam, nơi đóng Bộ Chỉ Huy tiểu đoàn. Khi đại đội phó ĐĐ1 tử trận, tuyến phòng thủ bị hở, các tổ đặc công VC đeo thuốc nổ lủi sát chân cầu. Từ hầm chỉ huy, Phúc phản ứng chớp nhoáng: tung trung đội dự bị lao ra, diệt đặc công, bắt tay lại với ĐĐ1, ép địch vào khu dừa nước. Sau vài giờ giao tranh, gần hai đại đội địch bị khóa chặt, bị hỏa lực TQLC áp đảo đến mức phải đầu hàng gần 150 tên, thêm hơn 40 xác bị bỏ lại. Đó là chiến công đầu tay của Tiểu Đoàn 6 dưới quyền Phúc, cũng là trận đánh khẳng định anh là tiểu đoàn trưởng “đủ tầm, đủ tướng” trong mắt Binh chủng. Cái giá anh trả cho những ngày như thế không rẻ: đạn xuyên ngực, xuyên cổ, mảnh pháo cào rách mặt, nằm bệnh viện nhiều tháng. Vậy mà ra viện, anh lại xin đi tác chiến, không bằng lòng với chỗ ngồi yểm trợ. Không thích “ngồi mát ăn bát vàng”, anh xin ra lại chiến trường, về lại Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên – trở thành con chim đầu đàn của đơn vị mà địch lẫn bạn đều biết tiếng.
Hạ Lào 719: “Crazy Buffalo” xin bom thẳng vào đầu mình
Nhắc đến Nguyễn Xuân Phúc mà bỏ qua Hạ Lào 719 thì giống như nhắc biển mà quên sóng. Trong chiến trường ấy, Lữ Đoàn A/TQLC thiết lập căn cứ hoả lực phía nam QL9 và Tchepone, giữa vòng vây bốn phía của CSBV. TĐ2 Trâu Điên của Phúc bảo vệ Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn và pháo binh; TĐ7, TĐ4 mở các cuộc hành quân nới rộng vị trí. Khi Lữ Đoàn 3 Dù của Đại Tá Thọ ở phía bắc bị tràn ngập, mọi mũi dùi địch quay xuống Lữ Đoàn A/TQLC. Chiến xa, biển người, đặc công, pháo kích dồn dập biến căn cứ thành địa ngục. Truyền tin chỉ nghe tiếng “Cua tụi nó sát bờ rào rồi!”, “biển người sau hai đợt chiến xa”, “bắt đầu cận chiến…”. Giữa cơn bão lửa ấy, giọng Phúc vẫn bình tĩnh, chậm rãi ra lệnh hạ nòng pháo bắn thẳng, trám chỗ thủng, chia lửa cho đơn vị bạn. Khi chiến xa và biển người tràn ngập pháo đội, phá vỡ vòng rào, anh dùng tiếng Anh gọi phi cơ Mỹ: “I’m Crazy Buffalo Battalion Commander… go ahead, do it, please!” – xin đánh bom thẳng vào vị trí của chính mình, chấp nhận hy sinh để không cho địch tràn qua. Sau đó là một khoảng im lặng đáng sợ trên máy. Đến 4 giờ sáng mới lại nghe được tiếng Phúc, nhẹ, chậm nhưng vẫn sáng suốt, đang gom những đơn vị sống sót để rút về phía TĐ3 và TĐ8. Khi anh em thắp nến, thả hỏa châu dẫn đường cho Lữ Đoàn rút, người ta hiểu rằng: trong cái đêm “lửa trời” ấy, có một người đã đứng trọn vẹn ở vị trí của một chỉ huy, gánh trên vai cả sinh lẫn tử của nhiều tiểu đoàn. Bởi thế, trong hồi ký của các cấp chỉ huy TQLC, Thiếu Tướng Bùi Thế Lân ghi rất thẳng: “Trong 7 ngày cuối cùng ở Hạ Lào, tôi chỉ còn làm việc trực tiếp với Phúc, và Phúc là người có công nhất trong giai đoạn rút quân khỏi Hạ Lào.”
Lữ Đoàn 369 và buổi sáng cuối cùng ở Non Nước
Đầu năm 1975, Nguyễn Xuân Phúc nhận Lữ Đoàn 369/TQLC: dưới quyền là những tiểu đoàn đã quen mặt chiến trường – TĐ2 Trâu Điên của Trần Văn Hợp, TĐ6 của Lê Bá Bình, TĐ9 của Lâm Tài Thạnh; bên cạnh là Lữ Đoàn Phó Đỗ Hữu Tùng – một tay súng từng hạ hàng chục chiến xa, bắt sống năm chiếc mang về triển lãm. Lữ Đoàn 369 thay Lữ Đoàn 3 Dù ở vùng Thường Đức – Đại Lộc, rồi được lệnh rút về phòng thủ căn cứ Non Nước Đà Nẵng trong những ngày cuối cùng. Sáng 29/3/1975, khi pháo địch bắt đầu trùm xuống, tàu Hải Quân vào vớt được một số đơn vị, một số sĩ quan tham mưu đã ra được tàu, thì Nguyễn Xuân Phúc và Đỗ Hữu Tùng vẫn đứng lại ở bờ biển Non Nước, tiếp tục liên lạc với TĐ9 đang rút về, tiếp tục lo cho những người còn kẹt lại. Có người về sau bịa rằng thấy các anh lên trực thăng, có người “nghe nói” anh kêu gọi tử thủ trên Sơn Chà. Nhưng những chứng từ nghiêm túc – từ tiếng nói cuối cùng của Lữ Đoàn Phó Đỗ Hữu Tùng trong máy, tới những gì đồng đội trực tiếp nghe – cho thấy: giữa tiếng “Ầm!” dịch pháo, giữa tiếng sóng vỗ và tiếng gào của lịch sử, hai anh đã ở lại đúng chỗ của mình: chỗ của một cấp chỉ huy không rời đơn vị. Không ai nhìn tận mắt giây phút cuối cùng, nên càng không cần “thần thánh hóa” hay bịa chuyện. Chỉ cần biết: khi TQLC rút khỏi Đà Nẵng, Binh chủng mất họ như mất hai viên ngọc quý; Khóa 16 Võ Bị mất một người bạn đã làm sáng rực tên khóa; Quân Lực VNCH mất một kiểu chỉ huy mà ai từng sống gần cũng đều kính – nể – thương.
Một danh tướng không cần huy chương
Những người từng phục vụ dưới quyền Nguyễn Xuân Phúc – từ hạ sĩ quan am thoại viên ở Hạ Lào, đến tiểu đoàn trưởng pháo binh, đến các “Trâu Điên” TĐ2, TĐ6, TĐ9 – khi nhắc tới anh, đều nói cùng một kiểu: giỏi, liêm khiết, không bao giờ biết tiền bạc, chỉ quan tâm lính mình no hay đói. Lúc làm đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng, anh không thò tay vào đồng xu cắc bạc nào của anh em; không làm điều gì hoen ố danh dự TQLC. Khi chiến thắng, anh không chạy theo huy chương, lon lá; khi bị thương, anh trở lại đơn vị nhanh nhất có thể. Trong trận đánh, anh nghiêm, ít nói, ra lệnh ngắn gọn; về hậu cứ, anh là người anh, người bạn, vừa uống rượu, vừa chửi thề, vừa xoa dịu tự ái của đàn em bằng một điếu Ruby và một nụ cười kèm cái sẹo trên mặt. Nhiều năm sau, giữa đời lưu vong, bạn bè ngồi lại, nâng ly rượu nhắc đến anh – từ Tiểu Cần Nguyễn Thế Thụy, Đại Tá Ngô Văn Định, Đại Tá Phạm Văn Chung, đến Tô Văn Cấp – ai cũng cùng một giọng: Phúc đã thành danh, dù con đường binh nghiệp vẫn còn dở dang vì lịch sử bị bẻ gãy ngày 30/4.
Ai còn nhớ, ai đã quên?
Quân Lực VNCH tan hàng trong hỗn loạn, những người lính rằn ri tản ra bốn phương trời: người vượt biển, người tù cải tạo, người mất xác ở Hạ Lào, ở Thường Đức, ở Non Nước. Bốn mươi, năm mươi năm trôi qua, ở một góc khác của bản đồ, có những cái tên vẫn bám lấy “quyền lực mới”, khoác lên mình những danh xưng “chủ tịch”, “cứu nước”, phát biểu về “lý tưởng”, “cách mạng”, tự tô vẽ cho một thời tuổi trẻ mà họ chưa bao giờ phải đặt thân giữa làn đạn AK. Cùng một Khóa 16, có người chưa từng nghe đạn cối địch mà hôm nay vẫn “kíu nước” bằng khẩu hiệu. Cũng cùng một Khóa 16 đó, có người ra đi trong bộ rằn ri bạc màu, với vết sẹo rạch ngang mặt, với viên đạn xuyên ngực, xuyên cổ, với tiếng gọi phi tuần thả bom thẳng vào đầu mình để cứu anh em. Lịch sử, tới một lúc nào đó, sẽ biết cách trả lại đúng chỗ hai con người ấy. Bài viết này không phải để dựng tượng, càng không phải để chửi rủa ai. Chỉ là để ghi lại, giữa một thời người ta cố tình bôi xóa, rằng đã có một Trung Tá TQLC Phúc Yên Nguyễn Xuân Phúc – “Robert Lửa” – đứng thẳng người giữa Đầm Dơi, Bình Lợi, Hạ Lào, Quảng Trị, Đà Nẵng. Và để nhắc nhau rằng, giữa câu hỏi “ai còn nhớ, ai đã quên”, câu trả lời không nằm ở những bài diễn văn, mà nằm trong trí nhớ lặng lẽ của những người lính từng gọi anh bằng hai tiếng thân thương: “Đại Bàng Phúc Yên.”