MỸ PHẠM SAI LẦM LỚN KHI QUYẾT ĐỊNH LOẠI BỎ NGÔ Đ̀NH DIỆM
V́ vậy khi người Mỹ đề nghị ông Ngô Đ́nh Diệm nên lấy thêm những người quen thuộc với chính trị Mỹ cũng như quen thuộc với chính trị thế giới để làm cố vấn cho Tổng thống th́ ông Diệm từ chối bởi v́ ông cho rằng như vậy là Mỹ đưa người bao quanh và có ư định lèo lái ông.
Chính v́ vậy mà sự cọng tác giữa chính phủ Mỹ và chính phủ Ngô Đ́nh Diệm có quá nhiều cách biệt, phần lớn đều do cá tính của ông Ngô Đ́nh Diệm mặc dầu cá tính của ông không có ǵ xấu.
Có một cách biệt lớn nhất khiến đưa tới rạn nứt trong quan hệ của hai quốc gia, đó là danh từ “cố vấn” dành cho các chuyên viên của Mỹ. Trong khi người Mỹ hiểu nghĩa chữ “cố vấn” (adviser) là một nhân viên tham mưu, phụ giúp cho vị chỉ huy; nhưng ông Ngô Đ́nh Diệm và người Việt Nam lại hiểu nghĩa chữ cố vấn là người thanh tra, giám sát và khuyến cáo vị chỉ huy.
Tức là đứng ngoài nhưng bên trên vị chỉ huy, thường thường chức vụ này được giao cho các vị lănh đạo tôn giáo hay các vị được toàn dân kính nể như trường hợp vua Bảo Đại và Đức cha Lê Hữu Từ làm cố vấn cho chính phủ Hồ Chí Minh, hay Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ làm cố vấn cho Lâm Ủy Hành chánh của Phạm Văn Bạch, hay như các cán bộ của Mao Trạch Đông làm cố vấn cho Hồ Chí Minh.
Chính v́ vậy mà khi Chính phủ Hoa Kỳ đề nghị đưa “cố vấn” ( chuyên viên ) Mỹ xuống tận các Quận để theo dơi việc phân phối vật liệu của chương tŕnh Quốc sách Ấp chiến lược th́ ông Ngô Đ́nh Diệm đă gay gắt phản đối, ông cho rằng như vậy là Mỹ muốn “làm cha” tại các quận huyện của Việt Nam, nhân dân Việt Nam sẽ không chấp nhận điều này, như vậy là nhục, nhân dân Việt Nam thà chết chứ không chịu nhục.
Phản ứng của ông khiến cho các chính trị gia Mỹ nghi ngờ tinh thần hợp tác chống Cộng của ông Ngô Đ́nh Diệm, họ cho rằng ông có tinh thần “bài Mỹ”.
Sự cố này là một hiểu lầm đáng tiếc do cách dùng danh từ của hai ngôn ngữ có khác nhau mà thời đó không có một tay thông dịch viên nào phát hiện ra, khiến cho sự rạn nứt trong mối bang giao đă đi tới đổ vỡ.
Ngoài ra c̣n có một cách biệt quan trọng khác nữa, đó là danh từ “người Quốc gia” luôn luôn được dịch là “Nationalist” ( Dân tộc chủ nghĩa ). Trong khi người Việt Nam lại dùng chữ “người Quốc gia” để nói về những người chống Cộng ( Anti Communist );
Nhưng các tay phiên dịch luôn luôn dịch rằng ông Diệm là người Nationalist khiến cho Washington đinh ninh rằng ông Diệm là người đặt tinh thần dân tộc lên trên tinh thần chống cộng. Do đó theo người Mỹ th́ một khi phải đứng trước quyết định giữa “chống cộng” và “chống ngoại bang” th́ ông Diệm sẽ chọn chống ngoại bang.
Cũng với lối dịch thuật như trên mà quân đội “Quốc gia” của ông Diệm được coi như là một quân đội Nationalist, quân đội này sẽ không bao giờ nổ súng vào CSVN nhưng sẳn sàng quay lại nổ súng vào ngoại bang (sic).
Do đó người Mỹ không dám trang bị vũ khí tối tân cho quân đội VNCH và cũng không dám giao cho quân đội VNCH chống quân CSVN, họ sợ lính VNCH sẽ không nổ súng vào người anh em của ḿnh. V́ vậy mới có quyết định đưa quân Mỹ vào Việt Nam để chống lại CSVN chứ người Mỹ không nghĩ tới chuyện giao việc chống cộng cho dân tộc Việt Nam.
Măi tới năm 1968, khi quân CSVN tràn vào các thành thị th́ người Mỹ mới phát hiện ra rằng dân chúng Việt Nam đă bồng bế nhau chạy thoát khỏi nơi nào có quân CSVN chiếm đóng. C̣n nơi nào không chạy thoát được (Huế) th́ dân chúng không cộng tác với lực lượng CSVN chiếm đóng, trái lại ngày đêm họ van vái cho quân VNCH tái chiếm trở lại, và quả nhiên họ mừng như chết đi sống lại sau khi quân VNCH tái chiếm các vùng bị tạm chiếm.
Lúc đó người Mỹ mới vội vàng trang bị vũ khí tối tân cho quân đội “Quốc gia” và giao cho quân đội VNCH nhiệm vụ chống lại quân CSVN, gọi là “Việt Nam hóa chiến tranh”. Đến năm 1972 th́ người Mỹ ngỡ ngàng chứng kiến 70.000 quân VNCH tử chiến với 200.000 quân Bắc Việt và họ đă chiến thắng.
Bất hạnh cho dân tộc Việt Nam :
Ngày 15 tháng 2-1975 , cựu đại sứ ba lan tại Hà Nội Mieczyslaw Maneli đă viết một bài tên tờ Washington Post với tựa đề: 'Vietnam: 63 and Now' :
"Mùa Xuân năm 1963, Đại sứ Pháp Lolouette nói với tôi là Tổng thống Diệm và người em của ông có nhờ tôi t́m hiểu với Chính Phủ Hà Nội xem có khả năng nào để giải quyết cuộc chiến bằng phương tiện ḥa b́nh hay không. ..
Trong mấy tháng sau đó tôi đă thảo luận nhiều với giới lănh đạo cao cấp nhất kể cả Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng.” ( Nguyễn Tiến Hưng, Khi Đồng Minh Nhảy Vào ).
Nhưng rồi công việc đang tiến hành th́ có tin Mỹ muốn lật đổ ông Diệm. Đại sứ Pháp Lalouette đă nói với Maneli :
"Nếu Mỹ lật đổ ông Diệm, cơ hội cuối cùng về ḥa b́nh ở Việt Nam sẽ bị phá hủy. V́ bất cứ ai lên thay ông ta cũng sẽ phải lệ thuộc vào Mỹ. Chỉ ḿnh ông Diệm là người độc lập đủ để may ra có thể văn hồi được ḥa b́nh."
Năm 1972, trong cuộc tiếp đón Tổng thống Nixon viếng thăm Bắc Kinh. Chủ tịch Mao Trạch Đông đă thân mật nói với Nixon rằng “Các ông đă phạm sai lầm lớn khi quyết định loại bỏ Ngô Đ́nh Diệm” ( Hồi kư của Nixon ). Ngày đó cũng như ngày nay ít có người phân tích được câu nói của Mao.
Thực ra ư của ông Mao muốn nói việc giết Tổng thống Diệm không chỉ đơn thuần đưa tới hậu quả là nhân dân Việt Nam không có minh chủ, ḷng dân ly tán; mà c̣n đưa tới viễn cảnh chỉ c̣n Hồ Chí Minh là minh chủ duy nhất của dân tộc Việt Nam, nhất là đối với người dân quê. Tự nhiên người dân cả hai miền đều thấy Hồ Chí Minh có lư và người Mỹ vô cùng phi lư.
BÙI ANH TRINH