R5 Cao Thủ Thượng Thừa
Join Date: Aug 2008
Posts: 1,635
Thanks: 16,104
Thanked 2,361 Times in 1,369 Posts
Mentioned: 0 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 108 Post(s)
Rep Power: 21
|
Chuyện 37 Năm Mới Kể: Trăng Tự Do
Chũm!
Một tiếng động ngắn, gọn, của một vật ǵ nặng vừa rơi xuống nước, vang giữa không gian biển trời lúc ấy.
Thời khắc ấy, tất cả đều im lặng trên chiếc ghe đầy người, đang trôi lênh đênh giữa biển Đông, chỉ c̣n tiếng sóng biển gờn gợn đập nhẹ vào mạn ghe. Một buổi sáng mai trên biển, biển rất êm, biển rất thanh b́nh, thế mà đă xảy ra một cuộc thủy táng trên biển.
“Nam Mô A Di Đà Phật! Thương cho chị, cầu xin cho chị sớm được về nơi cỏi Phật!”
Tiếng ai đó phá tan bầu không khí đang đặt sệt mùi chết chóc, lẩn ai oán, vừa đưa tiển một người xuống ḷng biển. Hiền nằm đó trong pḥng lái, nghe hết, nhưng không dám mở mắt ra, phải một lúc lâu sau, nàng mới dám hé mắt nh́n ra mặt biển, thế mà nàng vẩn nh́n thấy thân xác của một cô gái đang trôi dập dềnh cạnh chiếc ghe.
Sau nhiều ngày mắc bệnh, dáng người mảnh mai của cô đă teo nhỏ lại hơn, cô đă không c̣n gượng được nữa, xuôi tay im lặng nhắm mắt trong đêm, không chờ được ngày tàu tới bến bờ. Cô một thân một ḿnh bỏ nước ra đi t́m tự do.
Chiếc ghe đă nhiều ngày trôi dạt, thức ăn, nước uống khô cạn, ai nấy đều mệt lả, một số ít thanh niên c̣n sức th́ c̣n đi tới đi lui, c̣n lại hầu hết đều nằm hoặc ngồi bó gối, chờ ...
Chiếc ghe gổ nhỏ bé, đă lênh đênh trôi theo sóng nước chừng đâu cũng đă lâu, Hiền không c̣n nhớ và đếm ngày nổi nữa, phỏng chừng đă vài tuần, mang trên người nó rất nhiều người vượt biển t́m tự do.
Hiền, và chồng cùng hai con nhỏ cùng nằm trong số đó, sau nầy khi đến trại Sungai Besi, Mă Lai, được kiểm tra, mới biết con số tổng cộng lên đến một trăm người đúng, gồm cả cô gái và hai em bé xấp xỉ một năm tuổi cũng đă chết giữa biển khơi. Đến nơi, mới biết hành tŕnh trên biển của chiếc ghe đă kéo dài ba tuần rưởi, kể từ ngày ra đi rời Việt Nam.
(Sau đó có thêm một cậu thanh niên, khi nhập trại được vài ngày, vào Sick Bay và cũng đă mất trên đất Mă Lai. Cậu đó, v́ có bệnh tâm thần, không ư thức được b́nh thường như mọi người, nên đă uống nước máy hầm tàu khi ghe lênh đênh, không c̣n ǵ để uống.)
Số mạng của chín mươi bảy người lênh đênh trên biển đă được Ơn Trên/Thượng Đế/Trời Phật che chở, giử ǵn, cứu độ, cho đến một ngày gặp được các vị ân nhân cứu mạng.
Trước ngày đi, chủ ghe đến nhà cho biết phỏng chừng một, hai ngày nữa là đi.
V́ đă ra đi nhiều lần bị thất bại, ở tù, nên lần nầy Hiền làm tất cả mọi thứ về tâm linh, mong được sự che chở. Nghe theo lời dạy của Bố Mẹ Bửu, ông bà bố nuôi, Hiền làm một buổi cúng Chư Phật Mười Phương, một mâm cơm cúng bàn thờ tổ tiên nhà chồng để tạ ơn. Ngay đêm trước ngày đi, sau khi đă đồng quỳ sụp lạy Ba Má chồng từ biệt,trong khói hương nghi ngút bàn thờ Phật, vợ chồng gạt lệ ra đi, chở hai con qua nhà bên ngoại ngủ qua đêm, tránh sự để ư của hàng xóm nơi nhà chồng.
Trong đêm vắng, đạp chiếc xe đạp, chầm chậm ngang qua những con đường quen thuộc: Hồng Thập Tự, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thống Nhứt, nhà thờ Đức Bà, Công Lư, Lê Lợi … Hiền ghi nhớ từng góc phố, âm thầm nhắn nhủ lời từ biệt quê hương, (không hiểu sao, lần ra đi nầy nàng có linh cảm sẽ khó có được giây phút đạp xe êm đềm như thế nầy).
Sáng sớm hôm đi, chỉ được một người em trai thứ năm đưa tiển, gia đ́nh Hiền ngồi xe xích lô máy từ đường Nguyễn Thái Học, âm thầm từ biệt ba má Hiền và các em khác đang c̣n ngủ, đi ra xa cảng Miền Tây. Gặp người dẩn đường ở bến xe Phú Lâm, v́ đă được dặn ḍ trước đó, thấy anh ta đi đâu th́ cứ bám theo mà thôi, không được nói năng ǵ cả, làm vợ chồng Hiền mắt cứ phải láo liên theo dỏi bóng dáng anh.
Trưa, xe đ̣ đến Cần Thơ, anh ta dẩn đến một chợ nhỏ và dặn chờ ở chợ, sẽ có người đến liên lạc sau, rồi anh ta mất dạng.
Sau nhiều giờ quanh quẩn, ṿng ṿng quanh chợ, với tâm trạng lo âu bất an, v́ nh́n đâu cũng thấy nhiều người giống ḿnh, kẻ ngồi quán nước, người đứng góc đường, ngổn ngang, nh́n là biết “dân ta” Saigon xuống, t́m đường ra đi. Chợ th́ thưa dần, người mua bán thật sự cũng biến mất từ từ, mà vợ chồng Hiền vẩn cứ rảo bước quanh chợ.
Gia đ́nh Hiền, hai vợ chồng dẩn hai đứa con nhỏ, với một bó rau muống lủng lẳng trên tay, cứ xách tới xách lui quanh chợ vắng, rau bắt đầu héo úa v́ nắng trưa, họ không dám ghé vào quán, đi riết cũng mệt, cũng không biết phải làm ǵ, đi đâu. Trong ruột rối bời, sợ công an bắt, vợ chồng Hiền đă từng ra đi nhiều lần, hụt có, bể có, từng vào tù Bến Tre … nên rất là căng thẳng, dù ngoài mặt cố giử vẻ điềm tỉnh.
Trời xế chiều dần, chợt thấy bóng dáng anh ta trở lại chợ, hai vợ chồng mừng quá, và được anh ta dẩn đường đến một bến đ̣ kế bên chợ, chỉ cho lên một ghe tam bản nhỏ có mui, như bạn hàng tan chợ về. Đang lần ḍ đi tới để lên ghe, bổng nhiên có tiếng gọi tên con gái Hiền:
- “Ê, Quỳnh Như, mầy đi đâu đó?”
Con gái nghe kêu tên, nh́n lại, nhận ra một người bạn tiểu học cùng lớp thời bấy giờ ở Saigon. Hiền đẩy con đi nhanh lên ghe, cho khuất tầm mắt. Đúng là trái đất tṛn và trời bất dung gian! Cuối cùng rồi cũng lên được chiếc “tắc”. Hiền nghĩ: “Giờ phút nầy, tới đâu th́ tính tới đó, ra khỏi chợ là mừng rồi”. Ghe chèo một đổi cũng khá xa, vào một con lạch nhỏ, và tiếng người chèo ghe nói vọng vào khoang:
- “Bà con lên ghe từ từ, cẩn thận, êm thắm.”
Nơi ghe cặp vào là một chiếc ghe bầu lớn. Vào trong khoang đă thấy lố nhố người ngồi sẳn. Sau đó, từng ghe, từng ghe một đưa người đến nén đầy khoang ghe bầu. Trời tối dần, đến đêm th́ ghe bầu nhổ sào, chạy ra khỏi nơi đó, Hiền cảm thấy có gió mát lùa vào trong khoang, đoán là ghe bầu đă ra sông cái. Chạy một khoăng nữa, rồi tiếng máy giảm bớt tốc độ, dường như cặp vào bên bờ sông, nghe tiếng nói vọng vào ghe bầu, t́m hai người tài công để lên “cá lớn” trước, rồi sau đó lần lượt chuyển tất cả người lên, trong một cách vội vàng, nhanh chóng. Tất cả đều cho xuống hầm qua một lổ vuông vức, đó cũng là diện tích duy nhất để không khí lọt vào trong hầm. Hầm chứa cá mà.
Hiền và hai đứa con cũng không ngoại lệ, v́ sợ lạc chúng nên luôn nắm chặt tay hai đứa nhỏ và miệng luôn th́ thầm kêu tên chúng, nói với chúng để trấn an. Trong hầm tối đen, người thả xuống sau th́ phải dẩm lên người ngồi trước, đạp phải nhau, la hét lung tung, làm phải có tiếng nói từ trên boong vọng xuống mới im đôi chút.
- “Bà con có im lặng không? Tàu tuần nó đến gần th́ lộ hết bây giờ, tàu chưa ra đến biển.”
Tiếng máy tàu vẩn chạy đều, nhưng trong hầm th́ không khí bắt đầu quá ngột ngạt, con nít la khóc, mẹ th́ v́ con mà cấu véo người kế bên để dành thêm diện tích cho con ḿnh, mà chổ trống đâu mà xích bây giờ? Hiền bị đạp lấn đủ bề, nàng cho hai con ngồi trên hai cái đầu gối của nàng, để cho tụi nhỏ được cơi cao hơn, hít thở được phần nào không khí từ miệng hầm. Ba mẹ con mà chỉ có một chổ ngồi.
Những chuyện xảy ra trên boong như thế nào, dưới hầm đều nghe, tàu tuần duyên pḥng đi ngang qua ghe vượt biên, bên nầy họ phải nhá đèn làm hiệu, đội nón bộ đội lên, như ḿnh là ghe đánh cá quốc doanh thực sự. Đúng là nín thở qua sông.
Cho đến một lúc, con trai nhỏ ốm yếu của Hiền không chịu đựng được nữa, dù đă được nàng dùng hai cánh tay thay phiên nhau đưa nó lên cao hơn, gần với miệng hầm để nó thở, nó trở nên dẹo nhẻo trên cánh tay nàng. Hiền hoăng sợ quá, nhân một lúc có người trên đó đứng gần miệng hầm, nàng la lớn lên, xin nhắn với ba nó dùm, cho nó lên trên để thở, không thôi nó chết. Một lúc sau, thằng nhỏ được người đến đem lên khỏi hầm.
Cuối cùng th́ mấy người đề-lô trong sông phải từ giả trở về, bàn giao cho tài công lèo lái. Dưới hầm lắng nghe, Hiền đoán biết đă tạm ổn, nh́n đứa con gái nhỏ của nàng, cũng dần dần mệt nhiều v́ thiếu không khí thở, nhưng v́ thương mẹ nên chịu đựng, không rên la, nàng lấy sức chồm lên miệng hầm, nhắn xin cho con gái được lên trên boong với em nó.
Gần ra đến cửa biển, sóng bắt đầu dập vồn, mọi người dưới hầm đều được thong dong, ai không sợ biển th́ lên trên boong cho thoáng mát hơn.
Chiếc ghe rời Việt Nam ban đầu cũng gặp nhiều nổi gian nan trong sông, mấy phen hú vía nhưng đều qua khỏi. Âm thầm chạy trong đêm tối, qua nhiều lần né tránh các hàng đáy, lúc gần ra cửa biển, chiếc ghe bị mắc cạn khi trời hừng sáng, rướng lên cồn cát, ai nấy đều hoăng kinh, chẵng khác ǵ cá nằm trên thớt. Tất cả thanh niên trên ghe nhảy xuống, dồn hết sức lực, đẩy chiếc ghe ra khỏi cạn, và ghe đă tiếp tục ra đi. Cuối cùng cũng ra được đến cửa biển khi trời đă sáng dần.
Ghe đang chạy th́ nhác thấy dạng ghe đánh cá quốc doanh xa xa, kỳ nầy thứ giả gặp thứ thiệt, nên chiếc ghe nầy phải chạy hết tốc lực, để tránh bị nó ví bắt. Rồi cũng thoát. Hú hồn!
Tránh né được người, nhưng không tránh né được ông trời. Quả là như vậy, chạy được một lúc th́ giông gió nổi lên ầm ầm. Sóng nào sóng nấy cao ngất ngưỡng, chiếc ghe cắt sóng mà đi, chao đảo, nhưng ư chí của hai người tài công nầy không thay đổi và suy suyển. Có lúc ngọn sóng cao làm cho chiếc ghế tài công ngồi trong pḥng lái, trượt từ bên nầy qua bên kia, họ phải t́m cách đứng vững trên đôi chân để cầm lái. Họ quyết tâm ra đi để t́m một cuộc sống tự do cho chính ḿnh và cho những người đồng hành.
Trời dần sập tối, nhưng biển vẩn động mạnh, sóng vẩn cao, ghe vẩn cắt sóng mà đi. Được một lúc, có một số người trên tàu, chứng kiến trước mắt những ngọn sóng cao, gối đầu nhau, liên tiếp phủ ập vào ghe, họ đâm hoăng, lớp bị dập sóng, say sóng nên họ yêu cầu tài công cho ghe quay trở lại đất liền, dù có bị bắt cầm tù họ cũng cam chịu. Hai người tài công phải ậm ừ với họ cho qua chuyện, không làm mích ḷng ai lúc nầy. Hiền cũng vô cùng lo sợ, nh́n thấy sóng quá cao, không biết sẽ nuốt chững chiếc ghe lúc nào không hay, nhưng nghĩ rằng:
“Ra đi là phải chấp nhận, t́m cái sống qua cái chết!” Nên nàng tiếp tục niệm kinh và giử vững đức tin qua những ǵ nàng đă cố gắng làm về tâm linh, xét thấy ḿnh đă làm tất cả những ǵ có thể. Hai tài công cũng đă cố gắng rất nhiều, giờ th́ phó mặc cho số mạng mà thôi.
Nh́n thấy ánh đèn sáng xa xa phía trước, mừng rở, chiếc ghe chạy đến gần, th́ ra đó là một dàn khoan trên biển, có đông người đứng trên nh́n xuống nhưng nh́n lá cờ và ḍng chử viết th́ biết đó là Liên Sô, chiếc ghe lại quay đầu sang hướng khác, rời càng xa, càng nhanh càng tốt.
Trong lúc giông bảo, ghe bị sóng dập, Hiền nh́n thấy những thùng can nhựa lớn, chứa nước hay dầu máy, được cột chặt vào nhau chung quanh thành ghe, thay phiên nhau rớt xuống biển, có cả một cần xé chanh tươi cũng theo sóng nước mà ra đi. Chứng tỏ chiếc ghe nầy cũng được chuẩn bị nước uống đầy đủ, tạm cho chuyến đi biển ngắn ngày.
Đêm tối đen thăm thẳm, cơn giông dịu dần, nhưng biển vẩn là biển, vẩn sóng gió, ghe vẩn phăng phăng đi, ra hướng hải phận quốc tế, không dám men theo cận duyên, sợ gặp phải ghe hải tặc Thái Lan. Mọi người đều yên nghỉ, hết đ̣i hỏi quay về. Hiền nh́n h́nh ảnh hai tài công trong pḥng lái, âm thầm chụm đầu vào nhau tính toán, giúp nhau lèo lái chiếc ghe trong bóng đêm, mà thấy thương cảm cho cả một chế độ, một thế hệ … phải đành ḷng bỏ lại quê nhà hai bên cha mẹ già như vợ chồng nàng đây, bỏ quê hương đất nước mà ra đi. Dù biết bài toán nan giải, chưa biết đáp số sẽ ra sao, nhưng phải đi, t́m đường sống qua cái chết thôi, không c̣n sự chọn lựa nào khác.
Sang sáng thứ ba (?), (Ngồi viết hôm nay, Hiền không c̣n nhớ rỏ chính xác ngày, thế mới biết trí nhớ mai một với thời gian, không c̣n sắc bén như ngày nào, nên nay nàng phải viết ra ở cuối đời nầy, kẻo bị con Alzheimer đến kiếm) chiếc ghe cạn dầu, cần châm dầu thêm, kiếm ông cơ khí th́ ông đă nằm mẹp từ bao giờ, nên phải nhờ các thanh niên khỏe mạnh giúp, các anh sốt sắng, nhưng đă không phân biệt được, can nào là can dầu, can nào là can nước. Ghe đang chạy êm, dưới hầm máy các anh châm dầu (?) vào, th́ tiếng máy kêu “phụp” một cái, rồi tắt ngúm. Tài công biết ngay là châm lộn nước thay v́ châm dầu. Biết sao bây giờ? Âu là định mệnh.
Hầu hết đàn ông cùng xuống hầm máy, phụ nhau t́m cách sửa chiếc ghe cho chạy trở lại. Nhưng cuối cùng th́ vô vọng: nước đă vô lốc máy.
Ghe lênh đênh trên biển.
Có một điều Không-Tưởng là suốt khoăng thời gian trôi dạt, hầu hết mọi ngày, mặt biển rất thanh b́nh, êm như mặt hồ. Biển thương chiếc ghe mong manh, biển thương phận người vượt biển, nên biển rất ít nổi cơn thịnh nộ, không nở nhận ch́m chiếc ghe nhỏ.
Hiền nghĩ nàng nói điều nầy không ngoa, nếu ai đă từng cùng đi trên chuyến ghe nầy (SP… , trại Sungai Besi, 1984) và đọc được bài, th́ đă là chứng nhân cho điều kỳ diệu nầy. Chỉ có hai lần giông to, mưa lớn, giúp người trên ghe t́m cách hứng nước mưa mà uống, khi không c̣n nguồn nước ngọt nào. Chồng Hiền lấy poncho, làm áo mưa mang theo, ngồi ngoài trời hứng từng giọt nước mưa trên poncho, chiết vào chai nhỏ, cho cả bốn người uống từng ngụm cầm chừng.
Ngày qua ngày, thanh niên c̣n khỏe chia phiên nhau tát nước dưới hầm ghe, để chiếc ghe vẩn được nổi trôi …. Hầu hết người trên ghe đều lên boong, hướng mắt bốn phương trời, t́m kiếm tàu thương thuyền ngang qua mà quơ vẩy cầu cứu. Biển rất êm, cá đi từng đàn thấy rỏ dưới mặt nước, có lần nàng thấy từng đàn cá thu; từng đàn cá nhỏ, mà thịt trong suốt thấy cả xương bên trong, tên gọi cá sơn, và có cả đàn cá heo bơi lượn diểu chung quanh ghe. Các em trẻ, biết bơi, nhảy xuống biển bơi như ở piscine. Hiền th́ chỉ dám ngồi trên be ghe, tḥng chân xuống nước cho mát mà thôi, mắt nh́n trời cao xanh thẵm, hướng theo những vệt khói trắng nhỏ phun ra từ chiếc máy bay phản lực nào đó, mà mơ ước được đến bến bờ tự do ...
Ngày nầy qua ngày nọ, rất nhiều tàu đi ngang qua, gần có, xa có, có khi nh́n thấy rất rỏ, họ dàn hàng ngang trên tàu, đứng nh́n qua chiếc ghe, rồi đi mất hút. Họ quá đổi vô t́nh hay họ có lệnh của chính phủ nước họ không được nhận người tị nạn nữa. Đêm đến, cả ghe cũng không yên ngủ, gom sẳn quần áo làm giẻ vụn, sẳn sàng để đốt làm hiệu khi thấy tàu hàng nào đi ngang qua. Đă nhiều lần đốt giẻ làm hiệu, quơ vẩy đủ cách, nhưng vẩn lênh đênh. Vô vọng! Và bắt đầu cảm nhận nổi tuyệt vọng đang thành h́nh và lớn dần theo từng ngày trôi qua.
Có vài lần, v́ quá tuyệt vọng mong tàu đến vớt, mà đă có những thanh niên trai tráng, cảm thấy c̣n sức lực, khi thấy những con tàu lớn đi ngang qua gần ghe, họ xin ai trên ghe c̣n chút thức ăn như đường … cho họ xin để ăn lấy sức. Rồi họ nhảy ùm xuống biển, bơi lấy bơi để, về hướng con tàu, với hy vọng người trên tàu thấy họ, vớt lên, để xin được cứu vớt chiếc ghe. Nh́n theo dáng họ bơi xa xa, đầu lặn hụp trên mặt biển khơi mà Hiền thót ruột, không biết họ có quay về ghe được không? Thế mới biết khi con người đă quá mức tuyệt vọng, lư trí nhường chổ cho ngông cuồng. Cuối cùng họ cũng bơi trở lại, về được với chiếc ghe lênh đênh. Hiền thở phào nhẹ nhỏm.
Thức ăn không có, nhưng nước uống phải có, nên mấy ngày đầu trôi dạt, các ông, khi ấy c̣n khỏe, xuống hầm máy, t́m các phụ tùng nào của ghe có thể chế biến tạm thành b́nh thông hơi để cất nước biển ra thành nước ngọt mà uống. Dù cất ra được rất ít ỏi nước ngọt, cả một ngày trời chỉ được chừng nữa chai xá xị, nhưng cũng giúp sống sót trên biển, chờ tàu đến vớt. Ban ngày chồng Hiền cất nước, ban đêm th́ cho một gia đ́nh, gồm ba cô cháu, mượn mà cất nước uống, tạm sống sót qua ngày. Tưỡng đâu như thế tạm yên, cho đến một đêm, đang thiêu ngủ, nghe một tiếng vang “chũm!”, một vật ǵ vừa rớt xuống nước, và tiếng nói của một cô vang lên, nghe như là tiếng của cô gái mà gia đ́nh Hiền cho mượn đồ cất nước, rầy la cậu trai trẻ v́ đă làm rớt dụng cụ đó xuống biển rồi! Vợ chồng Hiền nằm đó im thinh thít, không dám lên tiếng, chỉ biết thấm thía, nghĩ đến những ngày sau sẽ không c̣n nước ngọt để uống … Định mệnh!
Sáng hôm sau, cô ấy xin lổi, báo cho biết tin, vợ chồng Hiền nói lời thông cảm với cô, v́ từ đây cả hai gia đ́nh đều cùng chịu chung số phận “chết khát”.
Một ngày, nghe tiếng trẻ con nói, mà xót xa:
“Bé Tài khát nước quá cô Sinh ơi. Cho bé Tài uống nước đi.”
“Nè, uống đi.”
“Sao cô Sinh cho bé Tài uống nước đái? Hồi nảy, cô Sinh biểu Bé Tài đái vô chai nầy, Bé Tài nhớ mà. Bé Tài hổng uống đâu.”
“Không uống th́ thôi. Cô Sinh không có nước ǵ khác. Bé Tài khát th́ ráng chịu.”
Hiền nằm đó, nh́n hướng cô cháu họ, thấy cậu bé Tài dể thương kia, đang cầm cái chai có chút nước màu vàng mà hớp một cái. Nó nhăn mặt, nhưng cũng nuốt vô để thỏa mản cơn khát lúc bấy giờ. Bé Tài lúc đó vào khoăng ba, bốn tuổi ǵ đó. Cô Sinh quay qua Hiền nói:
“Không c̣n ǵ cả, em phải để dành lại nước đái của nó, ngừa khi nó khát, đ̣i uống th́ em có mà đưa”.
Thế mà sau đó vài ngày, trời đổ xuống hai lần, cho hai trận mưa lớn, nên khỏi chết v́ khát: Số mạng.
Hiền nh́n thấy mây đen vùn vụt đến từ xa, cuối chân trời, thói thường th́ phải lo sợ v́ chiếc ghe chết máy, lênh đênh, có thể bị nhận ch́m, nhưng Hiền lại vui v́ sắp có nước uống rồi. Mưa lớn mịt mù, trắng cả không gian biển, chiếc ghe cḥng chành, chao qua chao lại, ông xả Hiền lại ra giữa boong, đội poncho, ngồi chịu khó hứng được một ít nước mưa, nhờ vậy mà uống cầm chừng từng ngụm nhỏ, cho đến những ngày cuối cùng, khi đă kiệt sức v́ khát, th́ cũng là lúc các vị ân nhân đến cứu mạng.
Ngày qua, ngày lại, không biết đến ngày thứ mấy, ghe vẩn lênh đênh, không biết trôi dạt đến đâu, nhưng chắc chắn là chiếc ghe nằm ở vị trí tuyến đường thương thuyền quốc tế qua lại, v́ vẩn có rất nhiều tàu đi ngang qua, chỉ là họ không muốn vớt chiếc ghe nầy mà thôi. Có lần thấy một chiến hạm ngang qua, trên boong, cả một nhóm, mặc toàn quân phục trắng như Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa ngày xưa, dàn hàng ngang nh́n sang chiếc ghe, xa xa họ chỉ đứng nh́n mà thôi, và rồi cũng đi mất hút.
Có các anh c̣n khỏe, đói quá chịu không nổi, t́m cách làm cây mác đâm cá, gốc gác họ ở vùng biển nên họ rất thành thuộc, họ chỉ cách cho ai muốn bắt cá. Hiền khuyên ông xả không nên làm theo, v́ trước lúc ra đi, ngày nào nàng cũng phóng sanh, th́ không v́ cớ ǵ mà bây giờ đang gặp nạn giữa biển, ḿnh vướng vô sát sanh. Chết th́ chịu thôi. Chồng nàng nghe theo lời khuyên.
Thế nhưng, một miếng khi đói bằng một gói khi no, khi anh bạn tài công ngồi trên mui ghe, kêu ông xả, đưa cho một con cá nhỏ vừa mới xiên được, cho gia đ́nh Hiền có hai con nhỏ, đang đói lả, được nhấm chút ít chất protein đở dạ. Cám ơn anh đă có ḷng chia xẻ.
Anh là người bạn duy nhất của ông xả trên ghe, đồng cảnh ngộ, đồng chí hướng ra đi và cũng đồng tâm ư phóng sanh, cầu mong cho chuyến đi được đến bến bờ. V́ thấu hiểu được sự cộng nghiệp khi đi cùng một chuyến ghe đông người, nên Hiền đă giải thích rỏ cùng anh, trọng trách nặng nề của tài công khi lèo lái ra đi, nắm trong tay bao nhiêu là sanh mạng; đi chung với một nhóm đông như thế th́ cộng nghiệp là một điều khó mà tránh khỏi … Nên phóng sanh để giải bớt nghiệp chướng là điều cần làm, anh đồng ư và đă góp phần, giao phó việc phóng sanh cho Hiền, với toàn tâm, toàn ư và tự nguyện.
Nhiều ngày lênh đênh giữa biển khơi như vậy, ḷng thành, niềm tin vào Đạo Pháp của Hiền cũng bị suy suyễn, dù vẩn âm thầm niệm kinh hằng ngày, nhưng mỗi khi thấy tàu lớn ngang qua mà họ lơ đi, nàng bị hụt hẩng, và dần cảm thấy tuyệt vọng.
Cho đến một buổi chiều, cả ghe đồng reo lên, kinh ngạc, pha lẩn chút ǵ vui mừng, v́ sự hiện diện của một con chim sẻ nhỏ bé, đậu trên chóp mủi ghe.
Một điều kỳ lạ Không-Tưởng, giữa biển khơi.
Con chim sẻ chỉ ở với chiếc ghe vài giờ rồi bay đi, nhưng đă đem đến một nguồn sinh khí mới, một niềm hy vọng cho cả ghe. Một điềm lành.
Không ai có thể biết được tâm trạng Hiền hân hoan, vui như thế nào. Cuối cùng, ḷng thành của nàng, pháp phóng sanh vi diệu, đă được thực chứng nơi con chim nhỏ bé nầy. Hiền thầm cảm tạ chư Phật Mười Phương. Nhớ những ngày đạp xe qua Lăng Ông Bà Chiểu mua chim phóng sanh; những buổi sáng đi chợ, Hiền dành tiền mua tép c̣n sống, những con ốc, lên cầu gần chợ, thả xuống phóng sanh, tất cả với niềm tin vô biên cho một đời sống tự do. Nhưng giờ đây, c̣n bao lâu nữa ghe mới được cứu vớt?
Một buổi sáng, Hiền nh́n ông xả mắt nhắm, nằm dài trên chổ để hải bàn trong pḥng lái, không c̣n đứng dậy đi đứng nữa, nàng rất lo sợ, biết là anh đă kiệt sức rồi, không ăn uống nhiều ngày như vậy, sức lực nào mà c̣n? Nàng đứng cạnh bên, lo lắng, hỏi chồng một cách tuyệt vọng, hỏi chỉ để mà hỏi thôi, và cũng để muốn nghe anh trả lời, biết anh vẩn c̣n đó với Hiền:
“Sao chưa thấy tàu nào vớt ghe ḿnh hết vậy anh? Bố nói ḿnh đi được mà.”
“Ráng giử vững đức tin đi!” Ông xả Hiền trả lời, mà mắt vẩn nhắm.
Đột nhiên, ngoài boong có tiếng la lên:
“Máy bay, bà con ơi. Mau lạy, vẩy tay đi. Càng đông càng tốt. Đàn bà con nít đâu ra đây.”
Hiền vội chạy ra phía ngoài, nh́n lên, thấy một chiếc máy bay nhỏ, loại Cessna, bay trong tầm mắt nh́n, không cao lắm, đang lượn ṿng ṿng quanh chiếc ghe.
Mừng quá, nàng chạy vào cho ông xả hay tin.
Rồi lại chạy ra, nh́n lên máy bay, lần nầy thấy rỏ được có người trên đó đang xem ống ḍm nh́n xuống chiếc ghe. Ḷng mừng khấp khởi, Hiền hiểu rằng, chiếc ghe nàng sẽ được cứu vớt. Sau khi lượn thêm vài ṿng, chiếc máy bay Cessna mất hút về chân trời.
Nàng nh́n thấy tất cả người trên ghe lúc đó, quỳ xuống trên boong chấp tay lạy lia lịa, vẩy tay với lên hướng máy bay, với hy vọng viên phi công trên đó phần nào cũng hiểu được chiếc ghe nầy đang gặp nạn trên biển.
Hiền chạy vào pḥng lái, nói với chồng:
“Nó bay đi rồi, nó cũng thấy ḿnh, chắc ḿnh sẽ được cứu, phải không anh?”
“Như vậy là được rồi, nó sẽ t́m cách cứu vớt ḿnh, chờ thôi!” Ông xả vẩn nằm dài mà trả lời nàng.
Kể từ phút đó, ai cũng ngóng nh́n, trên trời, trên mặt biển.
Rồi, Hiền nh́n thấy một chấm đen rất nhỏ xuất hiện ở cuối chân trời. Nàng tiếp tục theo dỏi, từng lúc từng lúc, thấy chấm đen đó càng lớn dần, hiện rỏ h́nh dáng một chiếc tàu và đang hướng về chiếc ghe nàng. Nàng lại chạy vào, báo tin cho ông xả:
“Dường như có tàu tới cứu ḿnh, anh ơi. Anh ráng ngồi dậy đi anh.”
Và Hiền lại chạy ra ngoài, nàng tiếp tục quan sát, lần nầy lại thấy chiếc Cessna ban nảy xuất hiện trên bầu trời đàng xa, bay trên đầu chiếc tàu lớn, cả hai đều hướng về chiếc ghe. Cả ghe reo ḥ, mừng rở. Tiếng ù ù của chiếc Cessna đến gần hơn, lúc nầy Hiền mới b́nh tỉnh nh́n và thấy được hàng chử trên thân máy bay: US Navy, khi nó lượn ṿng ṿng quanh chiếc ghe. Khi đó nàng cũng đoán hiểu được, chiếc Cessna bay đi t́m tàu thương thuyền nào gần đó, hướng dẩn đến cứu giúp chiếc ghe trôi dạt nầy.
Chiếc tàu đến gần hơn, hiện ra là một chiếc tàu thương thuyền lớn. C̣n cách chiếc ghe một đổi th́ tàu ngừng lại, thả xuống một chiếc xuồng cao su nhỏ, có người cầm loa ngồi trên. Xuồng máy đến gần chiếc ghe lúc nhúc người, dùng tiếng Anh hỏi xem có cần thức ăn hay dầu, họ sẽ cung cấp cho.
Trên ghe nghe vậy, liền cử cô Ngọc đại diện trả lời, yêu cầu được cứu vớt v́ máy ghe đă hư hỏng, đă trôi dạt nhiều ngày qua. Họ đồng ư cho cô lên xuồng máy, trở lại tàu gặp Thuyền Trưởng tŕnh bày. Chiếc máy bay vẩn tiếp tục bay ṿng quanh khu vực ghe và tàu.
Khi cô Ngọc trở lại ghe báo tin: “Sau khi biết rỏ t́nh trạng chiếc ghe, đồng thời Thuyền Trưởng cũng liên lạc với viên phi công, họ chấp thuận sẽ vớt chiếc ghe vượt biển nầy”.
Người trên ghe, nghe tin xong, như chết đi sống lại, người chảy nước mắt ràn rụa, người sụp lạy trời đất … Ông xả Hiền lúc đó gượng ngồi dậy và ôm vợ con mà ngả nghiêng, đứng không vững:
“Ḿnh sống rồi!”
Nhanh chóng, chiếc tàu di chuyển đến gần ghe. Họ điều người của họ qua ghe, giúp đở từng người một leo lên thang dây để lên tàu. Tay chân Hiền bủn rủn, không c̣n sức lực, phải có người d́u vịn mới lên được tàu. Trời chiều đă sẩm màu, chiếc ghe ch́m dần dần, từ từ xuống khuất khỏi mặt nước biển, khi mọi người đă lên được tàu.
Đêm đó, được nằm duổi tay chân trên boong tàu thương thuyền, nh́n lên bầu trời trong, dưới ánh trăng rằm, tṛn, vành vạnh sáng, mà chưa bao giờ trong đời Hiền được nh́n thấy một trăng tṛn lớn như thế, sáng như thế.
Nằm giữa biển trời bao la, cảm nhận được sự bảo bọc an toàn của chiếc tàu thương thuyền, hoàn toàn khác với đêm trước, nằm trên ghe lênh đênh trôi dạt, nàng thầm niệm kinh cảm ơn Chư Phật độ tŕ, tự nhủ:
“Chúng tôi đươc sống rồi!” Và ḱa:
“Ánh trăng Tự Do!” Sau chín năm, mới có được sự Tự Do trở lại.
Thật là như vậy, làm sao có được diễm phúc ngắm trăng sáng, tṛn, giữa đại dương mênh mông bao la, không có ǵ áng ngữ che tầm mắt, mà chỉ thuần một con trăng tṛn mà thôi.
Đức tin của Hiền càng mạnh mẽ hơn, khi ngay đêm sau, thủy thủ đoàn ra boong di chuyển tất cả thuyền nhân vào bên trong những hốc nghách nào có thể, sát cạnh vách tàu; họ cho biết là một cơn bảo lớn sắp đến. Hiền nghe xong mà rùng ḿnh, cảm nhận được số mạng, đất trời thay đổi chỉ tích tắc mà thôi, nếu không có chiếc tàu ân nhân nầy, cứu vớt chiếc ghe, đem lên tàu đêm trước, th́ tất cả chín mươi bảy thuyền nhân nầy có lẽ đêm nay phải nhận đại dương là mồ chôn thân.
Sau nầy đến trại Sungai Besi, khi vào phỏng vấn, được Cao Ủy Liên Hiệp Quốc Mă Lai cho biết, chiếc ghe của nhóm mang tên: SP--- , chỉ ở tạm cư tại trại trong khoăng ba tháng mà thôi, tất cả đều phải định cư, bằng mọi cách: thân nhân bảo lảnh hay diện nhân đạo … Bà ấy cũng cho biết thêm rằng, viên phi công chiếc máy bay Cessna đă đồng ư với chiếc tàu thương thuyền rằng, con tàu cứ đến vớt thuyền nhân lúc đó, mà không phải chịu trách nhiệm về vấn đề định cư, mọi lo liệu về sau sẽ do viên phi công của chiếc máy bay Cessna - US Navy chịu trách nhiệm, và liên lạc với Cao Ủy Liên Hiệp Quốc Tế Về Người Tỵ Nạn (UNHCR).
***
Nhân đây, tôi cũng muốn xin nói thêm rằng:
“Rất tri ân hai viên phi công người Mỹ trên chiếc Cessna, dù các ông hiện giờ c̣n hay đă mất, chúng tôi vẩn không quên hai ông, lúc đó đă có ḷng nhân từ, thương xót đến chiếc ghe nhỏ bé hoạn nạn trên biển, thương xót cho một dân tộc phải ra đi vượt biển t́m tự do, đánh đổi bằng cả mạng sống. Đă có những người Mỹ như hai ông đây, dù cuộc chiến đă tàn, nhưng vẩn không quên con dân của một nước Việt Nam Cộng Ḥa, và hơn hết các ông đă cho chúng tôi mạng sống vô giá trên biển.”
“Cũng không quên tri ân vị thuyền trưỡng giàu ḷng nhân đạo và thủy thủ đoàn, người Đại Hàn, của chiếc tàu thương thuyền (Pearl Ocean (?) đăng kư Panama) đă mở ḷng đón cả trăm người chúng tôi lên tàu, quan tâm chăm sóc chúng tôi từng miếng ăn, cho đến ngày rời tàu tại cảng Penang, Mă Lai. Thử nghĩ, khi không mà trên tàu có thêm một trăm người bất ngờ đến sinh hoạt, thay đổi nếp sống hằng ngày của một chiếc tàu b́nh thường, th́ lại cũng là một sự Không-Tưởng, nhưng họ đă làm rất tốt với đầy ắp t́nh người. Khi đưa tiển, ai cũng rơi nước mắt, dù chỉ có vài ngày gặp gở.”
Tôi xin tán thán công đức của các vị ân nhân, dù có muộn màng, tôi không có cách nào đền ơn các vị trong đời nầy, nhưng các vị đă cho tôi niềm tin mănh liệt vào Đạo Pháp của tôi. Tôi không trả ơn trực tiếp đến các vị được, nhưng xin trả ơn gián tiếp qua các việc thiện mà tôi làm, tiếp nối tinh thần nhân ái bất-vụ-lợi. Các vị luôn là những tấm gương quư giá về T́nh Người, Ḷng Nhân Từ, áp dụng trong tất cả mọi hoàn cảnh sống./.
BẠCH ĐẰNG.
Tháng Tư, năm 2021.
|