|
R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,174 Times in 13,137 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
|
Từ năm 1960 đến 1964, bà cùng chồng và con trai đi du lịch ṿng quanh châu Á, gồm những nước quanh dẫy núi Hy Mă Lạp Sơn. Trong thời gian đó, bà thực tập tu thiền. Mười năm sau, bà khởi sự dạy thiền tại các nước thuộc Âu Châu và Úc Châu. Kinh nghiệm tu tŕ thúc đẩy bà trở thành một nữ tu sĩ của Phật giáo tại Tích Lan vào năm 1979. Do đó, bà có pháp danh Khema, có nghĩa là an toàn (Ayya có nghĩa là bậc đáng kính, dùng để tôn xưng người tu hành, tỏ ḷng kính trọng)
Vào năm 1978, bà giúp hoàn thành một thiền viện trong rừng tu theo truyền thống Nguyên Thủy, tên là Wat Buddha-Dharma, tọa lạc gần Sydney, nước Úc. Tại Colombo, thủ đô thương mại của Tích Lan, ni sư thiết lập The International Buddhist Women’ Center, dùng làm nơi tu tập cho các nữ tu sĩ Tích Lan. Ni sư là Giám Đốc tinh thần của Buddha-Haus, Tây Đức, được thành lập năm 1989, do ni sư bảo trợ.
Vào tháng Sáu năm 1997, ni sư làm lễ khánh thành thiền viện trong rừng đầu tiên tại nước Đức tên là Metta Vihara.
Tháng Năm, năm 1987 ni sư là nữ tu sĩ đầu tiên kể từ trước tới nay, được mời tới New York để thuyết giảng tại trụ sở Liên Hiệp Quốc về đề tài Đạo Phật và Nền Hoà B́nh Trên Thế Giới.
Ni sư Ayya Khema đă trước tác 25 cuốn sách về thiền và giáo lư của đạo Phật bằng tiếng Anh và tiếng Đức. Sách của bà đă được dịch sang 7 ngôn ngữ, chưa kể tiếng Việt. Vào năm 1988, cuốn “Being Nobody, Going Nowhere” được tặng giải Chrismas Humphreys Memorial Award.
Ni sư tạ thế ngày 2 tháng 11 năm 1997 tại Buddha- Haus, Đức quốc, sau một cơn bệnh nhẹ.
Sau đây là bài pháp trích dịch từ cuốn “Being Nobody, Going Nowhere”:
…”…Con đường chấm dứt tất cả đau khổ, cũng chính là con đường giải thoát, là Đạo Đế, là Bát Chánh Đạo. Con đường này,– như tất cả những lời Phật dạy, — chia ra làm ba phần, là Giới, Định và Tuệ.
Người ta thường nghĩ rằng hành giả phải học tập lần lượt theo thứ tự Giới, Định, Tuệ kể trên, như là bậc thang, vượt qua bậc thấp nhất là giữ Giới th́ tâm sẽ Định, từ đó sẽ nh́n vào nội tâm và sẽ nảy sinh Trí Tuệ.
Bát Chánh Đạo sẽ cho chúng ta thấy rằng nghĩ như thế là sai lầm. Con đường Bát Chánh không khởi đầu bằng giới, mà từ trí tuệ. Không nên nh́n con đường Bát Chánh như là cái thang, mà phải quan niệm về nó như là cái xa lộ có tám con đường, mà chúng ta phải dùng tới cả tám đường. Bản thân tám con đường này cũng hỗ tương lẫn nhau v́ khởi đi từ chánh kiến và cuối cùng sẽ chấm dứt tại chánh kiến. Dù rằng chánh kiến chỉ được đề cập tới lúc khởi đầu, nhưng kết quả của tất cả những bước trên con đường Bát Chánh sẽ đưa tới Chánh Kiến hoàn hảo.
Chánh kiến là bước đầu tiên, có nghĩa là hành giả đă nh́n rơ được rằng trong cuộc đời, không có ǵ quan trọng bằng chuyện thực hành những phương pháp luyện tâm, để chấm dứt tất cả mọi khổ đau. Muốn thế, hiển nhiên là hành giả sẽ phải t́m phương pháp làm sáng tỏ những nhược điểm của ḿnh. Nỗi khổ của chúng ta là bất măn, lo lắng và cảm giác hụt hẫng, luôn luôn như là thiếu thốn cái ǵ đó. Có một khoảng trống trong tâm hồn khiến cho người ta cứ muốn t́m cách lấp đầy, hoặc bằng một người, hoặc nhiều người, hoặc bằng một lư tưởng, một mục đích, hoặc bằng một dự án, một chương tŕnh hành động, hoặc bằng một niềm hy vọng.
Nhưng thật ra th́ chẳng có cái ǵ lấp bằng khoảng trống đó được. Cho nên nếu có một pháp luyện tâm nào có thể vạch rơ những sự bất măn căn bản và có cách để hóa giải những bất măn đó, để tâm trí chúng ta hoàn toàn b́nh phục, an lạc, th́ chúng ta biết đó là phương pháp tốt, đáng tin cậy. Ngoài ra, phương pháp đó cũng phải thẩm thấu được vào nội tâm con người.
Phật pháp là những bài học có được cái giá trị này.
Chánh kiến cũng bao gồm nhận thức rằng bất cứ ai cũng có thể bắt đầu bước vào con đường luyện tâm ngay lập tức. Có chánh kiến, chúng ta cũng thấu hiểu thế nào là nhân quả nghiệp báo, khiến chúng ta nhận trách nhiệm về những sự việc xảy ra cho chúng ta, không đổ lỗi cho người khác, hoặc đổ tại hoàn cảnh, hoặc bất cứ cái ǵ ở bên ngoài chính ḿnh. Như thế có nghĩa là chúng ta nhận trách nhiệm hoàn toàn về cuộc đời, sự nghiệp, đồng thời nhận thức rơ là chúng ta chính là chủ cuộc đời và vận mệnh của chính ḿnh.
Vậy th́, chúng ta có thể thay đổi tương lai của cuộc đời.
Nhưng nếu chỉ biết xuông rằng chúng ta có thể thay đổi vận mệnh th́ chưa đủ, mà phải thấy sự cần thiết của thay đổi. Có hai điều cần phải có tầm nh́n chính xác, đó là thấu triệt quy luật nghiệp báo và sự cần thiết phải chuyển nghiệp để giải quyết tận gốc những mầm mống của đau khổ. Sự thay đổi này xảy ra nơi bản thân chúng ta, không đ̣i thay đổi thế giới hoặc là những cư dân sống trong đó, hoặc đ̣i thay đổi người mà t́nh cờ chúng ta chung sống với. Nhưng là thay đổi chính bản thân.
Chúng ta không thể xóa bỏ những nỗi bất măn, nhưng chúng ta có thể chuyển hóa phản ứng của chúng ta. Cuối cùng, nhờ có chánh kiến về bản ngă, chúng ta c̣n có thể đi tới tột cùng của con đường luyện tâm, là giác ngộ Vô Ngă.
Con đường luyện tâm khởi đầu từ trí tuệ. Nếu không có trí tuệ để nhận ra được điều ǵ cần làm, th́ chúng ta đă không tu tập thiền quán.
Có nhiều cách để phản ứng trước sự đau khổ.
- Cách đầu tiên, dễ dăi và thông thường là người ta đổ lỗi cho ai đó. Đó là tṛ trẻ con.
- Cách thứ hai để phản ứng lại nỗi đau buồn, bất măn là trở thành xuống tinh thần và sa lầy, buông trôi bản thân cho sự bất hạnh.
- Cách thứ ba là thương thân, tự an ủi là ḿnh đang chịu đựng nỗi đau khổ cho cả thế giới, chẳng có ai khổ bằng ḿnh. Điều này th́ rơ ràng là sai rồi. Khi ḿnh cảm thấy thương thân, th́ ḿnh cũng trông đợi mọi người thương cảm ḿnh. Thế th́ vô ích, chẳng có bài học nào, chẳng được cái ǵ. Trái lại, người như thế c̣n làm phiền đến những người khác.
- Hoặc là người ta có thể phản ứng trước nỗi đau khổ bằng cách nghiến răng nghiến lợi, đè nén đau buồn, giả bộ như chẳng xảy ra sự đau khổ nào cả. Như thế cũng vô ích, v́ sự giả bộ chẳng giải quyết được ǵ cả.
- Cách thứ năm là trực diện với nỗi khổ và nói: ” A ha, bạn cũ lại xuất hiện. Kỳ này tôi sẽ học được ǵ?” Nh́n nỗi khổ bằng thái độ đó là chánh kiến.
Như thế là chúng ta đă thực sự hiểu tại sao được mang thân người lại là cơ hội tốt nhất để giác ngộ. Đau khổ là thày dạy tốt nhất, v́ nó bám chắc lấy chúng ta, gh́ chặt chúng ta trong sự ḱm kẹp, cho tới khi chúng ta có được bài học th́ mới hết khổ.
Chánh kiến là nền tảng cốt yếu để bước vào con đường luyện tâm…”…
Trên đây là bài pháp về chánh kiến của ni sư Ayya Khema, trích dịch từ cuốn “Being Nobody, Going Nowhere”.
Chánh Kiến là nền tảng cốt yếu để bước vào con đường luyện tâm. Hành trang trên con đường giải thoát,tức là Đạo Đế, người Phật tử được đức Phật trang bị cho 37 phẩm trợ đạo (phẩm có nghĩa là từng món, từng loại). Như thế, ngoài Bát Chánh Đạo, chúng ta c̣n có 29 bài học nữa để luyện tâm, trong số đó có bài Trạch Pháp, nằm trong bộ Thất Giác Chi, nghĩa là 7 chi nhánh để hành giả tu tập tiến tới giác ngộ.
Trạch Pháp có nghĩa là chọn lựa pháp môn để tu tập. Muốn chọn lựa chính xác, hành giả phải có chánh kiến. Thời xưa cũng như ngày nay, trên con đường tâm linh, người ta rất dễ bị đưa vào tà đạo.
|