R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,150 Times in 13,135 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 161
|
Từ David Bohm đến Kinh Lăng Nghiêm – Nguyễn Tường Bách
Như chúng ta đều biết, Albert Einstein là người triển khai thuyết Tương đối cách đây đúng một thế kỷ. Einstein cũng đóng góp rất nhiều cho nền vật lư lượng tử bằng cách là người đầu tiên nêu lên quan niệm ánh sáng là những hạt quang tử photon. Với quan niệm này cơ học lượng tử ngày càng được phát triển một cách mạnh mẽ, đồng thời những đặc tính của vật chất trong thuyết lượng tử cũng ngày càng xuất hiện rơ nét.
Suốt một trăm năm qua, hai nền vật lư tương đối và lượng tử được phát triển cao độ với những lư thuyết mới cũng như các phương pháp thực nghiệm mới. Song song, người ta t́m cách thống nhất hai lư thuyết đó với hy vọng tiến tới một lư thuyết chung nhằm soi sáng toàn bộ thế giới vật chất, từ lĩnh vực vô cùng nhỏ của nguyên tử và hạ nguyên tử đến mức độ vô cùng lớn của các thiên hà cách ta hàng tỉ năm ánh sáng. Giữa hai lĩnh vực cực tiểu và cực đại này, người ta hy vọng t́m những đơn vị cuối cùng của vật chất trong lĩnh vực cực tiểu và do đó thuyết lượng tử được phát triển hết sức mạnh mẽ. Ngày nay ngành vật lư lượng tử vẫn nằm trong đà triển khai, chưa ai có thể kết luận điều ǵ về cơ chế cuối cùng của vật chất cả.
Trong quá tŕnh khảo sát những đơn vị nhỏ nhất của vật chất, nền vật lư lượng tử phát hiện rất nhiều “nghịch lư” xuất phát từ những kết quả đo lường và phương cách xuất hiện của vật chất. Những nghịch lư đó nêu lên những câu hỏi quan trọng về triết học, về nhận thức luận, về bản thể học…, thậm chí về cả những vấn đề dường như không liên quan đến vật lư như khả năng của ngôn ngữ khi diễn đạt các vấn đề vật lư, như các vấn đề sinh lư học (physiology) liên quan đến cái thấy cái nghe trong việc thu lượm kết quả thực nghiệm v.v…
V́ những lư do trên, nền vật lư lượng tử đang đứng trước những luận đề vô cùng cơ bản của loài người như: thế giới vật chất này gồm những ǵ tạo ra, tự tính nó là ǵ, mối tương quan của nó với ư thức con người ra sao, liệu thế giới vật chất như ta thấy phải chăng nó tồn tại độc lập thực như thế, hay nó chỉ là bóng dáng của một thực tại khác…Bài này sẽ giới thiệu một trong những hướng phát triển của vật lư lượng tử và nêu lên sự song hành của nó với vũ trụ quan của Phật giáo Đại thừa, được phát biểu trong kinh Lăng Nghiêm.
1. Điểm xuất phát
Trong thời điểm hiện nay, theo thuyết lượng tử, vật chất có ba đặc tính sau đây:
1. Trong thế giới cực tiểu, vật chất vận động một cách phi liên tục, trong nghĩa là hoạt động của vật chất được h́nh thành bởi những “lượng tử” rất nhỏ nhưng cụ thể và không thể phân chia. Sự vận động của vật chất “nhảy từng bước” chứ không “chảy” một cách liên tục.
2. Các đơn vị vật chất (thí dụ electron) có những đặc tính khác nhau. Khi th́ nó xuất hiện như hạt, khi th́ như sóng, khi th́ nửa sóng nửa hạt, tùy theo điều kiện xung quanh và tùy theo các phương tiện quan sát và ḍ t́m chúng.
3. Trong một số trường hợp, hai đơn vị vật chất (thí dụ hai electron trước đó thuộc về một phân tử nay đă bị cách ly) có một mối liên hệ liên thông (non-local). Hai đơn vị đó “biết” đến t́nh trạng của nhau một cách tức thời, dù chúng bị cách ly với khoảng cách bất kỳ.
Đặc tính thứ nhất của sự vận động của vật chất trong mức độ vô cùng bé là khác với sự vận động trong thế giới vĩ mô của chúng ta. Đường đi của vật thể trong sự rơi tự do hay quĩ đạo của thiên thể luôn luôn vẽ nên một đường cong liên tục. Tuy thế đặc tính thứ nhất này vẫn c̣n tương thích với lư tính (reason) của đầu óc con người. Đặc tính thứ hai được xem là một nghịch lư v́ sóng và hạt là hai dạng tồn tại của vật chất hoàn toàn khác nhau, loại bỏ lẫn nhau. Thế nhưng hai dạng tồn tại đó của vật chất được kết quả thực nghiệm thừa nhận một cách thuyết phục, do đó người ta vẫn chấp nhận chúng như hai dạng tồn tại song song, thậm chí thiết lập mối quan hệ về toán học giữa hai bên một cách dễ dàng.
Đặc tính thứ ba của vật chất mới nghe qua không có ǵ to tát lắm, nhưng thực ra nó dẫn ta tới nghịch lư quan trọng nhất từ xưa tới nay. Đó là, v́ tính chất “liên thông” này, ta phải từ bỏ một trong hai quan niệm sau đây:
a) có một thế giới khách quan tồn tại độc lập ở bên ngoài ư thức con người,
hay
b) vận tốc của tín hiệu vật lư có thể đi nhanh hơn ánh sáng.
Cả hai quan niệm nói trên đều là những điều bất khả xâm phạm trong ngành vật lư, bởi lẽ nếu không có một thế giới vật chất độc lập th́ toàn bộ ngành vật lư mất đi đối tượng của ḿnh, th́ vật lư và tâm lư sẽ bị qui thành một. Mặt khác, nếu có tín hiệu đi nhanh hơn ánh sáng th́ thuyết tương đối bị bác bỏ, th́ con người có thể đi trước cả tương lai và biết bao nhiều điều “vô lư” của khoa học giả tưởng sẽ thành sự thực cả.
Nhưng trước hết ta cần giải thích do đâu mà có đặc tính thứ ba nói ở trên. Năm 1935, Einstein và cộng sự đề nghị một phép “thí nghiệm bằng tư tưởng” nhằm nêu lên sự thiếu sót của thuyết lượng tử trong việc t́m hiểu tính chất thực sự của các hạt hạ nguyên tử [1]. Thí nghiệm nổi tiếng này được mệnh danh là nghịch lư EPR. Ở đây ta chỉ tŕnh bày EPR một cách hết sức đơn giản. Trong nghịch lư này Einstein cho cách ly hai đơn vị vật chất A và B (thí dụ nguyên tử hay electron), chúng vốn nằm trong một thể thống nhất và do đó chúng có sẵn một mối liên hệ với nhau, thí dụ tổng số spin của chúng bằng không. Nay ta cách ly chúng hàng vạn dặm, không để cho chúng có thể tương tác lẫn nhau. Khi đo một trị số spin của A th́ B lập tức có một trị số, để tổng số của chúng bằng không. Trong thuyết lượng tử v́ nguyên lư bất định, người ta cho rằng hành động đo lường đă xác định một trị số tại A và làm “nḥe” đi các trị số khác cũng tại A. Câu hỏi của Einstein là tại sao B “biết” được trị số tại A để phản ứng tức khắc, mà điều này sẽ vi phạm qui luật vật lư là không có tín hiệu nào đi nhanh hơn vận tốc ánh sáng.
Nghịch lư EPR này được tranh căi suốt nhiều thập niên. Nhà duy thực [2] Einstein cho rằng A và B phải có những tính chất thực sự, khách quan, riêng biệt, có thể cô lập được, chúng đă có những tính chất đó trước khihành động đo lường xảy ra.
|