R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,150 Times in 13,135 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 161
|
Bertrand Russell và tư duy triết học
Tiểu luận dưới đây được Einstein viết cho lời tựa tập 5 của tuyển tập “Library of Living Philosophers” do Giáo sư A. Schilpp chủ biên, xuất bản lần đầu năm 1946, đề cập riêng về triết học Bertrand Russell, đặc biệt là tác phẩm “An Inquiry into Meaning and Truth” xuất bản năm 1940.
Khi hội đồng biên tập đề nghị tôi viết chút ǵ đó về Bertrand Russell, th́ v́ sự ngưỡng mộ và kính trọng của tôi đối với tác giả, tôi đă nhận lời ngay lập tức. Nhờ đọc các tác phẩm của ông, tôi đă được hưởng biết bao giờ hạnh phúc, điều mà tôi – ngoại trừ về Thorstein Veblen – khó có thể nói khi đọc bất kỳ cây bút khoa học đương thời nào khác. Song tôi đă nhanh chóng nhận ra rằng, đưa ra một lời hứa thường dễ hơn là thực hiện nó. Tôi đă hứa, sẽ viết ǵ đó về Russell như về một triết gia và một nhà nhận thức luận. Và khi tôi đầy tự tin bắt tay vào việc, tôi sớm nhận ra rằng, một người bấy lâu chỉ cẩn trọng dừng lại trong địa hạt vật lư như tôi đă liều lĩnh biết bao khi dám đặt chân vào một lĩnh vực hóc búa như vậy. Có thể hầu hết những điều tôi sắp tŕnh bày sau đây là ngây ngô với những người am hiểu. Song tôi tự an ủi ḿnh bằng ư nghĩ, một người với kinh nghiệm tư duy trong một lĩnh vực khác như tôi bao giờ cũng được ưu ái hơn so với người hoàn toàn không suy tư hay chỉ suy tư ít ỏi.
Trong quá tŕnh phát triển của tư duy triết học những thế kỷ qua, câu hỏi sau đây đóng vai tṛ chủ đạo: Những nhận thức nào có thể được mang lại từ tư duy thuần túy, không phụ thuộc vào những ấn tượng cảm tính? Liệu có thể có những nhận thức như vậy không? Nếu không, nhận thức của chúng ta có quan hệ như thế nào với những chất liệu thô do những ấn tượng cảm tính của giác quan cung cấp. Các câu hỏi đó, và một số câu hỏi khác có liên hệ chặt chẽ với chúng tương ứng với một trường hỗn loạn hầu như không thể bao quát hết được của nhiều quan điểm triết học khác nhau. Trong những nỗ lực dũng cảm nhưng tương đối vô bổ này, dù sao cũng dễ nhận ra một vệt phát triển có hệ thống, đó là: sự hoài nghi ngày càng gia tăng trước mọi thử nghiệm theo hướng “tư duy thuần túy”, ḥng nắm bắt được điều ǵ đó về “thế giới khách quan” và thế giới “sự vật”, đối lập với thế giới “của những biểu tượng và tư tưởng” đơn thuần. Độc giả cho phép tôi nói trong ngoặc kép rằng: ở đây cũng như nơi một triết gia đích thực, dấu ngoặc kép (“”) được dùng khi muốn du nhập một khái niệm không chính đáng, và mong bạn đọc tạm thời châm chước, mặc dù nó c̣n khả nghi trước con mắt cú vọ của triết học.
Niềm tin cho rằng, chỉ cần tư duy thuần túy là có thể t́m ra mọi tri thức đáng giá trên đời, niềm tin ấy khá phổ biến trong buổi đầu của triết học. Đó đă là một ảo tưởng mà bất kỳ ai cũng dễ dàng nhận ra nếu anh ta, trong một phút giây, tạm quên đi những ǵ anh ta đă học được từ triết học và khoa học tự nhiên sau này. Anh ta ắt sẽ không ngạc nhiên khi thấy Plato quy cho “ư niệm” một dạng thực tại cao hơn so với những sự vật có thể được nhận biết một cách thường nghiệm. Cả ở Spinoza và cho tới tận Hegel, định kiến này có vẻ vẫn c̣n giữ vai tṛ chủ đạo với tất cả sức mạnh sống động của nó. Có thể ai đó thậm chí sẽ đặt ra câu hỏi: Nếu không có một ảo tưởng như thế th́ liệu có thể tạo ra được cái ǵ đó vĩ đại trong lĩnh vực tư duy triết học? Song về phần ḿnh, chúng tôi không muốn đặt ra một câu hỏi như vậy.
Cái ảo tưởng nặng vẻ quư tộc về sức mạnh thâm nhập vô biên đứng đối đầu lại với cái ảo tưởng nặng vẻ b́nh dân về một thuyết duy thực ngây thơ, theo đó, sự vật “tồn tại” y hệt như khi ta tri giác chúng bằng giác quan. Ảo tưởng này chi phối hoạt động thường nhật của con người và thú vật. Nó cũng là khởi điểm của các khoa học, nhất là các khoa học tự nhiên.
Việc vượt qua hai ảo tưởng trên không độc lập với nhau. So ra, việc vượt qua thuyết duy thực ngây thơ là đơn giản hơn. Russell đă khắc họa quá tŕnh này một cách đầy ấn tượng trong phần dẫn nhập của cuốn “An Inquiry into Meaning and Truth” của ông như sau:
“Chúng ta đều bắt đầu bằng ‘thuyết duy thực ngây thơ’, nghĩa là bắt đầu bằng học thuyết cho rằng, sự vật tồn tại như nó xuất hiện ra [trước giác quan của ta]. Chúng ta thừa nhận rằng, cỏ th́ xanh, tuyết th́ lạnh và đá th́ cứng. Nhưng vật lư học lại cam đoan với ta rằng, cái xanh của cỏ, cái lạnh của tuyết và cái cứng của đá không phải y hệt với cái xanh, cái lạnh và cái cứng mà chúng ta biết theo kinh nghiệm, mà là một cái ǵ đó khác hẳn. Nếu chúng ta tin vào vật lư học, chúng ta sẽ thấy rằng, khi một người quan sát cho rằng ḿnh đang quan sát một ḥn đá, th́ nghĩa là trên thực tế, anh ta đang quan sát những tác động của ḥn đá vào chính ḿnh. Có vẻ như khoa học đang tự mâu thuẫn với chính nó: khi nó tự cho ḿnh là khách quan cực độ, th́, trái với mong muốn của nó, nó lại ch́m ngập trong tính chủ quan. Thuyết duy thực ngây thơ dẫn đến vật lư học; và vật lư học, về phần ḿnh, lại chỉ ra rằng thuyết duy thực ngây thơ này, bao lâu nó cứ triệt để như thế, là sai lầm. Sai về logic; nghĩa là sai.”
Không kể đến lối hành văn bậc thầy, những ḍng chữ trên nói lên một điều ǵ mà trước đó tôi chưa hề nghĩ đến. Lối tư duy của Berkeley và Hume, nếu chỉ nh́n một cách hời hợt, có vẻ đối lập lại với lối tư duy của các khoa học tự nhiên. Nhưng nhận định trên của Russell đă phát hiện một mối liên hệ: Nếu Berkeley dựa trên nền tảng rằng chúng ta không trực tiếp nắm bắt các “sự vật” của thế giới bên ngoài thông qua giác quan, mà giác quan của chúng ta chỉ nhận biết được chúng thông qua các quá tŕnh nối kết nhân quả với sự hiện diện của các “sự vật” – một sự suy tưởng như thế hẳn đă có được sức mạnh thuyết phục từ ḷng tin vào lề lối tư duy vật lư học, th́ sẽ không cần thiết phải đưa bất kỳ cái ǵ vào giữa khách thể và hành vi nh́n để ngăn cách khách thể và chủ thể, và biến “sự tồn tại của khách thể” thành một tồn tại đáng nghi vấn.
Lối tư duy vật lư này cũng như các kết quả thực tiễn của nó đă làm lay chuyển niềm tin vào khả năng cho rằng, chỉ bằng con đường tư duy tư biện đơn thuần là có thể hiểu được các sự vật và các mối quan hệ của chúng. Dần dần, niềm tin rằng tất cả sự hiểu biết về sự vật của chúng ta rốt cuộc đều là một sự xử lư các chất liệu thô của các giác quan đă chiến thắng. Nguyên lư ấy, trong h́nh thức phổ quát này (được diễn đạt mù mờ một cách cố ư) hiện đang được chấp nhận rộng răi. Song niềm tin đó không hề dựa trên cơ sở, rằng đă có ai đó chứng minh được tính bất khả của việc thu hoạch các nhận thức hiện thực bằng con đường tư biện thuần túy, mà là: chỉ duy nhất con đường thực nghiệm nói trên đă chứng tỏ như là nguồn gốc của nhận thức. Galilei và Hume là những người đầu tiên đă đứng về phía nguyên lư này với tất cả sự sáng sủa và kiên quyết.
Hume đă nhận thấy rằng, các khái niệm được ta xem là cơ bản, ví dụ: “sự nối kết nhân quả”, không thể được rút ra từ chất liệu do giác quan cung cấp. Cách nh́n ấy đă khiến ông có thái độ hoài nghi với tất cả các loại nhận thức. Nếu đă đọc những tác phẩm của ông, người ta sẽ không khỏi kinh ngạc khi những triết gia sau ông – trong đó có không ít người được đánh giá cao – đă viết vô khối những thứ lộn xộn mà vẫn t́m được độc giả ngưỡng mộ. Ông đă giữ được ảnh hưởng sâu đậm đến những người xuất sắc sau ông. Người ta nhận ra ông khi đọc các bài phân tích triết học của Russell, mà sự sắc sảo và lối viết giản dị của chúng luôn làm tôi nghĩ tới Hume.
|