|
R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,181 Times in 13,137 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
|
Điều nói trên c̣n dẫn đến một triết lư sâu xa hơn nữa, đó là “pháp vô ngă”, “nhân vô ngă”. Pháp vô ngă cho rằng không có sự vật nào tồn tại với tự tính riêng của nó cả, tất cả đều chỉ là sự biến hiện làm ta thấy “có” khi đủ điều kiện (nhân duyên sinh) để cho sự vật tŕnh hiện trước mắt ta. Nhân vô ngă cho rằng con người mà ta tưởng là có một cái Tôi đứng đằng sau chỉ là sự vận hành vô chủ của ngũ uẩn. Các t́nh trạng của ngũ uẩn diễn ra, cái này tiếp nối cái kia, nhưng không ai làm chủ chúng cả. Triết lư nhân vô ngă và pháp vô ngă cho thấy mặc dù thế giới hiện tượng và thế giới tâm lư vận hành liên tục nhưng đó là sự vận động nội tại của nó, không ai làm chủ cho chúng cả. Sự vận động đó chủ yếu xuất phát từ “hành” (Samskara), đó là động cơ tâm lư tạo tác hành động và qua đó tạo tác thế giới. Toàn bộ những động cơ tâm lư đó được gọi là “nghiệp” hay “nghiệp lực”. Nghiệp lực (của cá thể và của toàn thể) là tác nhân làm thế giới vật chất được duy tŕ, nó làm cho vũ trụ được sinh ra và phát triển [11] .
Như đă nói, sắc thọ tưởng hành thức đều lưu xuất từ Chân Tâm. Chân Tâm có đặc tính “chiếu soi” và “tự chiếu soi” nên cả năm yếu tố của ngũ uẩn đều có khả năng nhận thức và tự nhận thức. Yếu tố vật chất (sắc) cũng có khả năng nhận thức và tự nhận thức. Đọc nhiều kinh Đại thừa, ta có thể cảm nhận Chân Tâm là một nguồn tinh lực vô tận và dạng xuất hiện của nó trong thế giới vật chất là “quang minh”. Quang minh trong thế giới vật chất (sắc) chính là ánh sáng, là các dạng sóng điện từ khác như nhiệt, quang tuyến…Quang minh trong thế giới tâm lư (thọ tưởng hành thức) là những loại sóng mà ngày nay ta chưa xác định được chính xác.
Ngũ uẩn không phải là năm yếu tố riêng lẻ lẫn nhau mà v́ chúng có chung nguồn gốc Chân Tâm nên chúng dung thông và chứa đựng lẫn nhau trong tinh thần “một trong tất cả, tất cả trong một”. Một hệ quả của quan niệm này là mọi hoạt động trong tâm lư (thọ tưởng hành thức) đều có dấu vết trong vật lư (sắc) và ngược lại mọi điều chỉnh trong vật lư đều có tác dụng trong tâm lư. Sắc chính là Không, Không chính là sắc (Tâm Kinh). Do đó “trên đầu một cọng cỏ chứa tam thiên thế giới” (tư tưởng Hoa nghiêm).
Như vậy, đối với Phật giáo, với “ngũ uẩn”, khái niệm “vật chất” – tức là thế giới hiện tượng lẫn thân vật chất của con người – chỉ nằm trong trong từ “sắc”. Một cách phân loại khác cho thấy thế giới vật chất được xem do “tứ đại” (đất nước gió lửa) h́nh thành, tương tự như quan niệm của các triết gia cổ đại của Hy Lạp. Dù thuộc về cách phân loại nào, vật chất được h́nh thành và duy tŕ là dựa trên vọng tưởng của tâm. Một đặc tính quan trọng khác là: Vật chất không có tự tính riêng biệt (pháp vô ngă), chỉ tồn tại trên cơ sở tương quan đối với người quan sát. Mỗi người quan sát sống trong một thế giới riêng của họ, thế giới tưởng là chung cho tất cả chẳng qua là do cộng nghiệp xây dựng thành.
Trên những cơ sở này, ta thử xem Phật giáo có thể nói ǵ về những luận đề bản thể học của thế giới vật chất.
3.2. Vài kiến giải của đạo Phật về vật chất
– Thế giới vật chất là dạng xuất hiện của tâm, là sự tŕnh hiện của tâm trước mắt người quan sát mà người quan sát cũng là tâm nốt. Điều này lư giải một câu hỏi quan trọng của vật lư là, nếu thực tại bên ngoài là độc lập với ư thức th́ tại sao con người có thể nắm bắt được thực tại và tại sao thực tại lại tuân thủ những công thức toán học của con người.
Trả lời câu hỏi này, Kepler từng cho rằng khả năng “thiêng liêng” đó là nhờ Thượng đế. Đối với Phật giáo, cả ư thức lẫn vật chất đều lưu xuất từ tâm, chúng dung thông và chứa đựng lẫn nhau, chúng dựa lên nhau mà có. V́ có người quan sát nên có vật được quan sát. Vật được quan sát không thể tồn tại được nếu không có người quan sát.
– Cả vật chất lẫn ư thức là những dạng xuất hiện của tâm, chúng chỉ là những dạng h́nh thứ cấp lưu xuất từ tâm. Do đó quan niệm về “thứ bậc nội tại”, về một thực tại ẩn tàng chứa cả vật chất, ư thức, đời sống và có nhiều chiều như Bohm quan niệm là rất gần với tư tưởng triết học Phật giáo. Trong lư thuyết của Bohm, vật chất là những cấu trúc xuất hiện có tính chất tạm thời, tương đối, chúng là h́nh ảnh được “trích” ra từ một vận động toàn thể cũng rất phù hợp với quan niệm của Phật giáo. Sự vận động toàn thể của Bohm có thể được xem gần giống như sự lưu chuyển của A-lại-da thức, trong đó vật chất chỉ được xem là những vọng tưởng được “lóng lại thành cơi xứ”.
– Phật giáo quan niệm “Sắc chính là Không”, thế giới vật chất chính là Chân Tâm. Do đó mỗi nơi mỗi chỗ trong thế giới vật chất đều chứa năng lượng vô tận của Không. Quan niệm về “chân không lượng tử” hiện nay cho rằng, mỗi đơn vị tí hon trong chân không lượng tử chứa năng lượng vô tận, cũng đi gần với quan niệm về Sắc-Không của Phật giáo. Hơn thế nữa Phật giáo cho rằng mỗi nơi mỗi chỗ trong Sắc cũng chứa toàn bộ thế giới vật chất trong quan niệm “một trong tất cả, tất cả trong một”. Do đó quan niệm của Bohm về h́nh ảnh toàn kư (hologram) cũng rất tương tự với h́nh ảnh “tam thiên thế giới” được minh hoạ trong Kinh Hoa Nghiêm. Trong ẩn dụ này thế giới xuất hiện như một ảo ảnh ba chiều khi mắt tiếp xúc với ánh sáng cho ta thấy Bohm cũng quan niệm thế giới vật lư xuất hiện như một ảo giác, đó là điều mà đạo Phật đă nhấn mạnh với từ maya.
– V́ vật chất chỉ là dạng xuất hiện của tâm, không có tự tính riêng, chỉ tùy nhân duyên mà tŕnh hiện nên Phật giáo không thấy có mâu thuẫn giữa hai dạng sóng-hạt của vật chất. Cả sóng lẫn hạt đều xuất hiện khi đầy đủ nhân duyên hội tụ cho chúng xuất hiện. Trong vật lư hạ nguyên tử, “nhân duyên” chính là cách ḍ t́m của người quan sát và cách xếp đặt thiết bị đo lường. Điều này th́ cơ học lượng tử đă thừa nhận, đó là “tính chất của thiên nhiên là câu trả lời của thiên nhiên đối với cách hỏi của ta đặt ra” (Heisenberg). Sự nghịch lư sóng-hạt chỉ có khi ta cho rằng vật chất phải có một tự tính riêng, điều mà đạo Phật bác bỏ.
– Nghịch lư EPR của những hạt liên thông cũng không tồn tại với thế giới quan của Phật giáo v́ rằng mọi hạt vật chất đều lưu xuất từ tâm. Giữa các dạng vật chất đó cũng như giữa vật chất và ư thức đều có sự dung thông v́ tất cả đều là tâm. Do đó những hạt liên thông có mối quan hệ trên một cấp bực khác, sâu hơn cấp bực của vật chất. V́ vậy mà chúng có trao đổi với nhau, “biết đến” lẫn nhau v́ mỗi mức độ của sắc cũng đều chứa ư thức cả. Trong lĩnh vực của vật chất, v́ có thời gian và không gian xuất hiện nên mọi vận hành của tâm bị giới hạn trong những mức độ đo được. Do đó vận tốc ánh sáng, hằng số Planck etc…là những số rất lớn/rất nhỏ nhưng có giới hạn. C̣n trong lĩnh vực tâm lư của thọ tưởng hành thức, mọi tín hiệu đều có vận tốc vô tận, tức là có tính chất liên thông. Nói chung th́ mọi yếu tố trong ngũ uẩn đều “liên thông” (non-local) với nhau mà thuật ngữ Phật giáo gọi là “dung thông”.
|