View Single Post
Old 11-06-2019   #884
florida80
R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,181 Times in 13,137 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
Default

Khoảng ba mươi năm sau khi nghịch lư EPR ra đời, Bell’s Theorem quả quyết quan niệm tính chất “thực sự, khách quan, riêng biệt” là không thể tương thích với cơ học lượng tử [3] . Năm 1981, Alain Aspect tại đại học Paris đă chứng minh là kết quả thực nghiệm tuân thủ cơ học lượng tử và bác bỏ các lư thuyết của tính chất “thực sự, khách quan, riêng biệt” [4] của vật chất. Điều đó có nghĩa hai hạt A và B có mối liên hệ liên thông, khi đă ở trong một thể thống nhất rồi, chúng cần được quan niệm là một hạt dù có tách rời chúng ta vạn dặm đi nữa. Hơn thế nữa, hạt đó không có tính chất riêng biệt ǵ cả, mà khi ta đo lường, các tính chất riêng biệt của chúng (thí dụ spin) mới xuất hiện.

Khi thuyết “thực sự, khách quan, riêng biệt” của vật thể bị bác bỏ th́ một thực tại vật lư độc lập, có tính chất riêng biệt cũng bị đặt lại vấn đề. Dĩ nhiên ở giai đoạn này, các kết quả vật lư đă sinh ra những phép diễn giải(interpretati on) khác nhau, mang đậm tính triết học. Người ta ngờ rằng thế giới hiện lên trước mắt ta sở dĩ có tính chất riêng tư là v́ hành động đo lường của chính chúng ta. Thế th́ phải chăng thế giới mà chúng ta đang thấy v́ ta đo lường nó (hay nói chung v́ ta nhận thức nó) mà nó “có”? Phải chăng nó không hề tồn tại một cách độc lập. Đó là lư do mà đặc tính thứ ba nói ở trên buộc ta phải từ bỏ một trong hai điều bất khả xâm phạm của ngành vật lư, một bên là có tín hiệu đi nhanh hơn ánh sáng, bên kia là thế giới vật chất với những đặc tính riêng của nó không hề tồn tại độc lập mà chỉ xuất hiện khi ta nhận thức nó.

Nếu mệnh danh thực tại trước khi ta nhận thức nó là “thực tại lượng tử” (quantum reality) th́ ít nhất ta phải thấy là sự biến h́nh từ thực tại lượng tử ra thế giới mà ta đang nhận thức bằng cảm quan là rất kỳ lạ. Hiện nay chưa ai đề ra được một giải pháp thuyết phục được tất cả mọi người về vấn đề này. Người ta chỉ biết rằng, cần phải đưa hành động đo lường (tức là quan sát viên) vào trong một tổng thể vật được quan sát-người quan sát th́ mới hiểu được sự vật.

Đi xa hơn, nhiều người thấy phải đưa ư thức hay hoạt động của ư thức như một yếu tố chủ yếu vào tổng thể này, thí dụ Eugene Wigner, nhà vật lư đoạt giải Nobel. Thế nhưng đi xa hơn nữa, người ta phải thấy “ư thức” thông thường của con người là một loại ư thức bị qui định trong tầm nh́n “cổ điển”, không tương thích với tính chất lượng tử của nền vật lư mới. Nhà vật lư Nick Herbert viết như sau:

“Nguồn gốc của mọi nghịch lư lượng tử h́nh như xuất phát từ thực tế là, sự nhận thức của con người tạo ra một thế giới gồm những thực thể chuyên biệt – do đó kinh nghiệm của chúng ta buộc phải có tính chất cổ điển – trong lúc thế giới lượng tử th́ hoàn toàn không phải như thế”.

Có lẽ Nick Herbert đă điểm đúng huyệt của vấn đề. Đó là phép nhận thức của con người phương Tây, nhất là các nhà vật lư duy thực, xuất phát từ hệ tư tưởng xem “vật ở ngoài nhau”, xem sự vật bị dàn trải trong không gian và được nối với nhau bằng lực tương tác. Đó là đặc trưng của nền vật lư cổ điển Newton. Trong lúc đó, vật lư lượng tử – dù đang có nhiều kiến giải khác nhau – ít nhất cũng đ̣i hỏi cần xem vật được quan sát và người quan sát phải được thống nhất trong một thể chung.

V́ vấn đề phức tạp này của bản thể học và nhận thức luận, hiện nay người ta đứng trước một t́nh trạng phân kỳ trong ngành vật lư khi t́m đến thực tại “cuối cùng” của thế giới hiện tượng.

2. Thuyết “sự vận động toàn thể” của David Bohm

Nhằm tiến tới một lư thuyết giải thích được những hiện tượng vật lư trong hai thuyết, cơ học lượng tử và thuyết tương đối và nhất là những nghịch lư được nêu lên, David Bohm phát triển một lư thuyết được gọi là “sự vận động toàn thể” (holomovement). Khái niệm trung tâm của thuyết này là “thứ bậc nội tại ” (implicate order).

2.1. Thứ bậc và thứ bậc nội tại [7]

“Thứ bậc” (Order) là khái niệm mới do Bohm nêu lên. Đối với Bohm mỗi thực tại, mỗi sự vận động có thứ bậc của nó. Cùng với các phát hiện mới, ngành vật lư dần dần khám phá thứ bậc của sự vận động, với những mức độ từ cạn tới sâu. Sự vận động cơ giới trong lư thuyết của Newton được Bohm gọi là có “thứ bậc không gian Descartes”. Trong thứ bậc này, mọi sự vật đều được xem là riêng lẻ, cái này nằm ngoài cái kia và tác động lên nhau bằng lực tương tác giữa vật thể.

Với lư thuyết tương đối và cơ học lượng tử, dù giữa hai bên có những khác biệt vô cùng cơ bản (như tính chất phi liên tục, tính ngẫu nhiên, tính liên thông…của vật lư lượng tử), Bohm thấy cả hai đều mang chung một thứ bậc mới, đó là ta phải xem sự vật là một cái toàn thể không thể phân chia (undivided wholeness), trong đó sự cách ly các yếu tố của sự vận động không c̣n được chấp nhận. Thứ bậc này hoàn toàn khác với thứ bậc trong nền vật lư của Galileo và Newton. Thí dụ không gian, thời gian là một thể thống nhất trong thuyết tương đối, người quan sát và vật được quan sát là một thể thống nhất trong cơ học lượng tử.

Sự phát triển của vật lư hạ nguyên tử gần đây cũng như những nghịch lư trong ngành vật lư đ̣i hỏi ta phải có một lư thuyết lư giải được vấn đề. Nhất là nghịch lư EPR xem ra buộc ta phải từ bỏ một trong hai quan niệm hầu như bất khả xâm phạm của ngành vật lư như đă tŕnh bày ở trên. Ở đây, Bohm cho rằng phải đi sâu thêm một mức độ nữa để thấy một thứ bậc mới của thực tại. Thứ bậc này được Bohm mệnh danh là “thứ bậc nội tại” (implicate order). Nội dung của thứ bậc này là “cái toàn thể nằm trong từng cái riêng lẻ”. Nói rơ hơn, thực tại là h́nh ảnh của toàn vũ trụ được chứa ẩn tàng trong từng đơn vị nhỏ nhất của bản thân nó.
florida80_is_offline  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.13056 seconds with 10 queries