R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,150 Times in 13,135 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 161
|
Cách lập đi lập lại thường xuyên câu man-tra trên đây sẽ mang lại một sức mạnh thật lớn – đủ để có thể giúp loại bỏ được các chướng ngại hiện ra trong cuộc sống của những ai chỉ biết nh́n vào thế giới hiện tượng qua những biểu hiện bên ngoài (tức là những thể dạng biến động và vô thường) của nó. Hầu hết các phương pháp trên đây c̣n đưa ra một phép luyện tập thiền định khác nữa, đấy là cách nh́n vào các biểu đồ để quán tưởng. Một loạt nhiều loại biểu đồ được chọn sẵn để người tu tập quán nh́n vào đấy, càng quán nh́n thường xuyên và càng quán thấy các biểu đồ ấy minh bạch hơn th́ hiệu quả mang lại sẽ càng nhiều hơn. Các biểu đồ này sẽ tuần tự ḥa nhập vào nhau và sau đó sẽ ḥa nhập với chính người hành thiền, và người hành thiền th́ cũng hướng vào các biểu đồ ấy để ḥa nhập với chúng. Quá tŕnh ḥa nhập và thu hẹp tuần tự ấy (các biểu đồ ḥa nhập vào nhau và người hành thiền cũng ḥa nhập vào đấy và tất cả thu nhỏ dần) tiếp diễn cho đến khi nào chỉ c̣n lại một điểm bé tí xíu và sau cùng th́ chính điểm này cũng sẽ tan biến vào tánh không. Tất nhiên là quá tŕnh trên đây không phải dễ thực hiện nếu người tu tập chưa hội đủ khả năng để chủ động thật cao độ tâm thức ḿnh. Tuy nhiên trong giai đoạn đầu khi mới luyện tập th́ cũng chỉ cần đạt được một chút kết quả thật nhỏ cũng đủ để giúp người tu tập suy đoán ra những ǵ sẽ c̣n phải thực hiện thêm sau này.
Tất nhiên tất cả mọi sự nhận biết được tánh không dù bằng cách trực tiếp (quán nhận bằng thiền định) hay gián tiếp (bằng cách học hỏi) cũng đều mang lại lợi ích. Nếu một người tu tập dựa vào kinh nghiệm của chính ḿnh (thiền định) quán nhận được tất cả mọi sự vật (tất nhiên trong đó gồm có cả cái tôi của chính ḿnh) đều vô thường và chỉ có một giá trị tương đối th́ người ấy cũng sẽ loại bỏ được mọi sự bám víu vào các thứ h́nh tướng (bên ngoài) và các ư nghĩ (bên trong tâm thức) v́ chúng chỉ là trống không. Đấy cũng là điều kiện sơ đẳng và tiên quyết nhất góp phần mang lại mọi sự thăng tiến tâm linh sau này. Người ấy sẽ cảm thấy ḿnh được giải thoát khỏi những ǵ chi phối và trói buộc ḿnh. Cách nh́n của người ấy về tất cả mọi sự vật trong cuộc sống cũng sẽ theo đó mà hoàn toàn thay đổi hết. Mọi sự tham lam, thèm muốn, ích kỷ, lo buồn, sợ hăi sẽ không c̣n có thể kiềm tỏa và trói buộc người ấy được nữa: bởi v́ khi đă vượt thoát khỏi mọi chướng ngại th́ người ấy sẽ thanh thản bước vào con đường hướng đến Giác Ngộ.
Đề cập đến chủ đề tiếp cận với tánh không cũng chính là một cách nêu lên các kinh nghiệm cảm nhận thuộc vào một lănh vực vô cùng thiêng liêng, chẳng qua là v́ tánh không có thể ví như chất liệu (matrice / matrix / chất liệu hay khuôn đúc) kiến tạo ra sự hiện hữu, là khuôn mẫu của hiện thực tối hậu, nơi đó quá khứ và tương lai, những ǵ thật gần hay thật xa, sự Nhất Thể hay Đa Dạng…, tất cả đều bị loại bỏ, không c̣n bất cứ ǵ tồn lưu để có thể ngăn chận những tia sáng rạng ngời của Sự Thật.
Ở cấp bậc hiện tại chúng ta vẫn c̣n trông thấy tính cách Nhất Nguyên xuyên qua khía cạnh Đa Dạng (nh́n thấy các hiện tượng Đa Dạng và h́nh dung ra hay suy ra tính cách Nhất Nguyên của chúng), thế nhưng vào một cấp bậc cao hơn (khi tánh không đă giảm xuống) (tức là khi đă thăng tiến trong việc luyện tập thiền định th́ sẽ nh́n thấy sự biến động và ảo giác của mọi hiện tượng giảm bớt và lắng xuống) th́ chúng ta sẽ thấy được sự Đa Dạng dưới khía cạnh Nhất Nguyên(trông thấy tất cả mọi hiện tượng đều nhất thể). Khi nào mục đích đă hoàn toàn đạt được th́ cả hai khía cạnh ấy (tức là Đa Dạng và Nhất Nguyên) sẽ hiện ra dưới thể dạng vô tận của chúng, một thể dạng vượt lên trên mọi sự phân biệt (không phải là Đa Dạng mà cũng chẳng phải là Nhất Nguyên) – một thể dạng thật kỳ diệu và thánh thiện vượt khỏi mọi ngôn từ và tư duy (tức có nghĩa là đạt được Tánh Không Tối Thượng hay sự Giác Ngộ).
Vài lời ghi chú của người dịch
Điểm đáng chú ư trước nhất trong bài viết của John Blofeld trên đây là ông đă xác nhận rằng chính ông cũng “chưa bao giờ tiếp cận được với tánh không” Điều này cũng dễ hiểu, bởi v́ khi nào chúng ta vẫn c̣n hướng vào tánh không như một đối tượng để t́m hiểu nó, để tiếp cận với nó th́ khi đó chúng ta cũng sẽ chẳng bao giờ thành công được, bởi v́ chúng ta vẫn c̣n vướng mắc trong thể dạng nhị nguyên. Dù sao th́ sự thú nhận trên đây của tác giả cũng đă chứng tỏ ông là một người thành thật và đồng thời cũng cho thấy một sự mâu thuẫn nào đó của ông đối với những ǵ ông tŕnh bày về tánh không trong phần cuối của bài viết.
Ngoài ra ông cũng nhận thấy rằng trong số các vị tu hành thâm sâu và cả các vị thầy uyên bác của ông, không có một vị nào tự nhận ḿnh “có thể giải thích được tánh không là ǵ, mà họ chỉ cố gắng t́m mọi cách để đưa ra các phép luyện tập giúp các môn đệ của họ tự thực hiện cái tánh không ấy cho chính ḿnh”. Thật thế, đối với những người đă từng thực hiện được tánh không th́ họ cũng không thể nào t́m được các ngôn từ thích nghi để mô tả nó. Tánh không thật ra chỉ là một kinh nghiệm cảm nhận thật bao la và sâu kín, tỏa rộng trong tâm thức vô biên của mỗi cá thể. Do đó không thể nào có một ngôn từ quy ước, công thức và cụ thể nào có thể giúp để h́nh dung ra được nó.
Điểm đáng chú ư thứ hai là tác giả đă nêu lên sự khác biệt giữa hai nền giáo dục Tây Phương và Á Đông và cho rằng một người Tây Phương v́ chịu ảnh hưởng nặng nề của sự suy luận logique đặc thù của Phương Tây nên đă gặp nhiều khó khăn hơn khi phải vượt qua tính cách nhị nguyên – tức là phải loại bỏ được chủ thể và đối tượng – để có thể quán nhận được tính cách nhất nguyên của hiện thực. Thật ra th́ giáo dục nói chung không hẳn – hay ít ra cũng không phải là nguyên nhân duy nhất – mang lại những khó khăn ấy, bởi v́ khả năng quán thấy và lĩnh hội của mỗi cá thể c̣n tùy thuộc vào khả năng suy nghĩ trừu tượng và sự suy luận liên kết với thật nhiều dữ kiện trong cùng một lúc. Nếu nh́n xa hơn nữa th́ cũng sẽ thấy rằng các khả năng này c̣n tùy thuộc vào nghiệp sẵn có của mỗi cá thể.
Điểm đáng chú ư thứ ba là tác giả đă nhấn mạnh đến tính cách “siêu nhiên” và “thần bí” của tánh không, và đồng thời ông cũng đă nh́n vào các vị tu hành thâm sâu và các vị thầy uyên bác của ông như là những vị “thần bí”. Thật thế, từ nguyên thủy nếu Đạo Pháp của Đức Phật càng mang tính cách thực dụng, minh bạch và chính xác bao nhiêu th́ sau này trên ḍng tiến hóa lịch sử và song song với sự h́nh thành của Phật Giáo Đại Thừa, lại càng biến đổi bấy nhiêu để rồi mang thêm một vài nét “thiêng liêng” và “trừu tượng” nào đó. Khái niệm về tánh không tất nhiên cũng không tránh khỏi trường hợp này, tức có nghĩa là từ nguyên thủy tánh không là một đối tượng cho việc thiền định và là một phương tiện giúp đạt được sự giải thoát, th́ nay lại chuyển thành bản chất của mọi hiện tượng trong vũ trụ và trong tâm thức của mỗi con người. Hơn nữa, Đạo Pháp của Đức Phật – từ nguyên thủy được gọi là Dharma – cũng đă biến đổi dần để trở thành một tôn giáo.
Trong Bài Kinh ngắn về Tánh Không (Culasunnata-sutta) giảng về tánh không, Đức Phật đă nêu lên bảy giai đoạn thiền định, từ các cấp bậc thô thiển thăng tiến dần lên thể dạng tánh không tối thượng. Bảy giai đoạn này như sau:
– cảm nhận gian nhà, ngôi làng và khu rừng, tất cả đều vắng lặng và trống không
– cảm nhận mặt đất bằng phẳng, không núi đồi, sông ng̣i, cây cỏ
– cảm nhận bầu không gian vô tận và trống không
– cảm nhận sự tỏa rộng của tri thức vô biên trong tâm thức của người hành thiền
– cảm nhận sự vắng lặng và trống không của hư vô
– cảm nhận sự kiện không cảm nhận của chính ḿnh
– cảm-nhận-không-cảm-nhận hay thực hiện được “tánh không tối thượng không có ǵ vượt hơn được”
Trong giai đoạn tột cùng tức là cấp bập thứ bảy, Đức Phật chỉ nói đấy là “tánh không tối thượng” nhưng không mô tả nó là ǵ. Sau một đêm thiền định dưới cội Bồ-đề, Đức Phật đạt được Giác Ngộ, thế nhưng Ngài cũng không mô tả sự Giác Ngộ ấy là ǵ mà chỉ phân vân tự hỏi con người b́nh dị của thời bấy giờ có đủ sức để thấu triệt được sự khám phá ấy của Ngài hay không?
|