Tánh Không
Sep
1
Tánh Không
John Blofeld
Hoang Phong chuyển ngữ
Lời giới thiệu của người dịch:
Theo ḍng lịch sử tất cả các tôn giáo lớn đều tiến hóa, biến đổi để trở thành ngày càng đa dạng và cũng có thể là phức tạp hơn, Phật Giáo không phải là một ngoại lệ. Tuy nhiên cũng nên lưu ư là Giáo Huấn hay Đạo Pháp của Đức Phật – c̣n gọi là Dhamma (tiếng Pa-li) hay Dharma (tiếng Phạn) – từ nguyên thủy không hẳn là một “tôn giáo” mang ư nghĩa như ngày nay. Dù sao th́ trong quá tŕnh phát triển Đạo Pháp cũng đă uyển chuyển biến đổi để thích ứng với các dân tộc và các nền văn hóa khác nhau cũng như với trí “thông minh” và những “xúc cảm” của con người, và từ đó đă làm phát sinh ra nhiều tông phái và học phái mang ít nhiều tính cách “thiêng liêng” và “thần bí” gần với một “tôn giáo” hơn. Trong nhiều trường hợp th́ một số h́nh thức lễ lạc và các nghi thức màu mè phản ảnh từ các “tín ngưỡng” dân gian c̣n được ghép thêm vào Đạo Pháp.
Nếu các phương pháp tu tập, song song với sự h́nh thành của các tông phái và học phái, ngày càng trở nên phong phú và đa dạng th́ một số khái niệm và giáo lư căn bản trong Đạo Pháp theo đó cũng đă được triển khai sâu rộng hơn và đồng thời cũng đă được suy diễn với ít nhiều khác biệt. Nếu khái niệm về tánh không được Đức Phật nêu lên như một phép luyện tập chính xác, cụ thể và thực dụng, như đă được thuyết giảng trong hai bài kinh Culasunnata-sutta và Mahasunnata-sutta, th́ tánh không cũng đă được các tông phái và học phái sau này triển khai sâu rộng hơn bằng nhiều cách diễn đạt phức tạp hơn. Tiêu biểu nhất cho các cách giải thích “mới” về tánh không là bộ kinh đồ sộ Prajnaparamita-sutra, dịch âm là”Kinh Bát Nhă Ba La Mật Đa”, có nghĩa là “Kinh về sự hiểu biết Siêu Nhiên”, và c̣n được gọi vắn tắt là Tâm Kinh.
Theo truyền thuyết th́ chính Đức Phật đă thuyết giảng Kinh này vào lần chuyển Pháp Luân thứ hai trên đỉnh Linh Thứu ở Vương Xá Thành (Rajagrha), và chỉ dành riêng cho các vị tỳ kheo, a-la-hán và bồ-tát nào hội đủ khả năng lĩnh hội. Theo Kinh Hoa Sen (Diệu Pháp Liên Hoa Kinh / Saddharmapundarika-sutra) th́ phần lớn các vị này đă bỏ ra về trước khi buổi thuyết giảng chấm dứt v́ họ vô cùng kinh hoảng bởi không hiểu ǵ cả khi nghe giảng về tánh không, chỉ có một số các vị đệ tử cao thâm của Đức Phật là c̣n lưu lại cho đến hết buổi giảng.
Theo Phật Giáo Ấn Độ và Tây Tạng th́ các đệ tử của Đức Phật thời bấy giờ tuy đă được hấp thụ giáo huấn trong lần chuyển Pháp Luân thứ nhất thế nhưng vẫn chưa hội đủ khả năng để có thể lĩnh hội được giáo huấn trong lần chuyển Pháp Luân thứ hai trên đây. V́ thế giáo huấn này – tức là bộ Kinh Bát Nhă Ba La Mật Đa – đă được giao phó cho các vị thánh nhân ǵn giữ và sẽ chỉ được đưa ra đúng vào các thời điểm thích nghi sau này. Một phiên bản gồm 100.000 tiết được giao cho Long Xà (Naga) ǵn giữ, một phiên bản 25.000 tiết được giao cho con người ǵn giữ, một phiên bản 10.000 tiết do các thiên nhân (deva) ǵn giữ, một phiên bản 8.000 tiết do một vị Hộ Pháp là Bắc Phương Thiên Vương (Vaisravana) ǵn giữ. Cách biện bạch này cũng có thể chỉ là để giải thích về sự xuất hiện muộn của Kinh Bát Nhă.
Theo lịch sử và qua công tŕnh nghiên cứu của các học giả Tây Phương th́ một phiên bản của bộ kinh này gồm 8.000 tiết bằng tiếng Phạn đă được liên tục trước tác trong khoảng thời gian từ năm 50 trước Tây Lịch đến năm 150 sau Tây Lịch. Sau đó lại thấy xuất hiện một phiên bản khác mới hơn và cũng dài hơn, và được trước tác trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ II đến thứ IV. Các phiên bản ngắn tóm lược bộ kinh này lại c̣n xuất hiện muộn hơn nữa, tức trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ IV đến thứ VII.
Trong khoảng thời gian h́nh thành thật dài ấy của bộ Kinh Bát Nhă người ta nhận thấy có hai sự kiện lớn đă xảy ra. Trước hết vào khoảng thế kỷ thứ II có một vị đại sư là Long Thụ (Nagarjuna) đă trước tác nhiều tập luận nhằm triển khai và b́nh giải về tánh không nêu lên trong Kinh Bát Nhă, và vị này cũng đă thành lập một tông phái mới là Trung Quán Tông. Tập Trung Quán Luận Tụng(Madhyamakakarik a) và tập Thất Thập Không Tín Luận (Sunyatasaptati) của ông tŕnh bày và b́nh giải về tánh không là hai tập luận căn bản nhất của tông phái này. Sự kiện thứ hai xảy ra vào thế kỷ thứ IV, khi một vị đại sư của Trung Quán Tông là Vô Trước (Asanga) trước tác tập Hiện Quán Trang Nghiêm Luận(Abhisamayalanka ra) nêu lên con đường của người Bồ-tát dựa theo Kinh Bát Nhă, thế nhưng lại đưa ra một cách giải thích mới hơn về tánh không và đồng thời vị này cũng đă thành lập thêm một tông phái mới nữa là Duy Thức Tông. Sau đó quan điểm về tánh không của hai tông phái này lại được các vị đại sư khác tiếp tục triển khai và giải thích thêm suốt trên ḍng phát triển của lịch sử Phật Giáo.
Sở dĩ nhắc đến một vài chi tiết như trên đây là để cho thấy khái niệm về tánh không do Đức Phật nêu lên qua các kinh sách “nguyên thủy” bằng tiếng Pa-li đă được liên tiếp triển khai sau đó và đă trở nên vô cùng phức tạp, đa dạng, đồng thời lại mang ít nhiều tính cách trừu tượng và bao quát hơn. Bài viết ngắn của John Blofeld được chuyển ngữ dưới đây sẽ giúp chúng ta h́nh dung ra phần nào các cách mô tả tánh không trên đây của Đại Thừa Phật Giáo nói chung.
John Blofeld (1913-1987) là một Phật Tử người Anh và cũng là một học giả Phật Giáo uyên bác, đă sống phần lớn cuộc đời ḿnh tại các nước Á Châu như Trung Quốc, Mông Cổ, Tây Tạng, Thái Lan… Ông đă từng tiếp xúc và học hỏi với rất nhiều vị thầy lỗi lạc tại khắp các quốc gia này, và cũng đă qua đời tại Thái Lan. John Blofeld viết bài dưới đây vào thập niên 1960 và bài này đă được bà Odette Germain dịch sang tiếng Pháp và đưa lên một trang web Phật Giáo khá uy tín là Buddhaline (_http://www.buddhaline.net/La-Vacuite,109).
Trong bài viết đôi khi tác giả cũng nêu thêm một vài ghi chú (được đặt trong hai dấu ngoặc) nhằm giải thích thêm một số sự kiện do chính tác giả đưa ra. Người dịch cũng mạn phép góp thêm một vài lời ghi chú khác với hy vọng có thể giúp người đọc dễ theo dơi bản gốc hơn. Các lời ghi chú này cũng được đặt trong hai dấu ngoặc nhưng bằng chữ nghiêng. Sau phần chuyển ngữ cũng có thêm một vài lời ghi chú mang tính cách tổng quát hơn của người dịch về bài viết này của John Blofeld.
|