View Single Post
Old 10-30-2019   #770
florida80
R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,181 Times in 13,137 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
Default

Trong hai năm liền từ 1914 đến 1916, bà ẩn cư một ḿnh trong một hang động trên Hy-mă Lạp-sơn, và tu tập theo giáo pháp do vị gomchen truyền lại cho bà. Thật ra trước đó bà cũng phải tạo áp lực không ít trước khi được vị này nhận làm đệ tử và cho phép bà thụ giới các nghi lễ tan-tra bí truyền, đôi khi thật hết sức kinh hoàng. Thế nhưng mặt khác th́ xứ sở Tây Tạng cũng vẫn cứ tiếp tục mê hoặc và ám ảnh bà, và dù những người thực dân Anh cấm không cho bà lên Tây Tạng, nhưng bà bất chấp cứ đi, và đă đến được Shigatzé (một tỉnh lỵ miền nam Tây Tạng). Tại nơi này bà gặp được vị Panchen Lama (một vị lănh đạo thuộc một ḍng tái sinh đứng hàng thứ hai sau ḍng tái sinh của các vị Đạt-lai Lạt-ma), và đă được vị này ban tặng chiếc áo cà-sa của chính ḿnh.

(Xin nhắc lại chuyện xưa: Mahakassapa (tiếng Phạn là Mahakashyapa, Hán dịch là Ma-ha Ca-diếp) tên tục Pippali, là một trong số các đệ tử uyên bác nhất của Đức Phật. Ông sinh ra trong một gia đ́nh Bà-la-môn giàu có. Gia đ́nh cưới cho ông một người vợ thật xinh đẹp là Bhaddha Kapilani, thế nhưng cả hai đều có chân tu, sống với nhau như anh em và cả hai đều có ư định rời bỏ gia đ́nh để t́m đường tu tập. Một hôm – và cũng đúng vào ngày Đức Phật đạt được Giác Ngộ – Pippali quyết định rời bỏ gia đ́nh để t́m thầy tu tập. Một thời gian sau, vào một hôm khi Đức Phật đang trên đường từ Rajagrha/Kinh đô Vương Xá của xứ Maghada/Ma-kiệt-đà đến thị trấn Nalanda/Na-lan-đà, nhờ sự quán thấy siêu nhiên Ngài biết trước là ḿnh sắp gặp một người đệ tử thật thông thái. Thật vậy Pippali gặp Đức Phật và tăng đoàn của Ngài đang đi trên đường và nhận ra ngay một người tỳ kheo trong tăng đoàn là Đấng Thế Tôn, Pippali bèn phủ phục dưới chân Ngài và xin được làm đệ tử của Ngài. Đức Phật chấp nhận và thụ phong cho Pippali. Kinh sách về sau này đều gọi Pippali sau cuộc gặp gỡ đó là Mahakassapa/Ma-ha Ca-diếp. Trên đường, Đức Phật và tăng đoàn dừng lại dưới một gốc cây để nghỉ chân, Mahakassapa bèn cởi chiếc áo ḿnh đang mặc, xếp lại làm tọa cụ để Đức Phật ngồi. Thấy thế Đức Phật cũng cởi áo ḿnh để khoác lên cho Mahakassapa. Khi Mahakassapa mặc chiếc áo của Đức Phật lên người th́ mặt đất bỗng nhiên rung chuyển. Sau đó Đức Phật đặc biệt thuyết giảng riêng cho Mahakassapa và tám ngày sau th́ Mahakassapa đạt được thể dạng arhat/A-la-hán. Sự tích tặng áo đă có từ những thời kỳ xa xưa là như thế).

Sau khi quay lại Sikkim th́ bà bị chính quyền thực dân Anh trục xuất khỏi nơi này (Sikkim nằm sát biên giới phía nam Tây Tạng và cũng là một nơi thuận tiện để đến kinh đô Lhassa, không xa về phía đông bắc. Chính quyền thuộc địa trục xuất bà khỏi Sikkim là để ngăn chận không cho bà đến Lhassa), thế nhưng bà vẫn quyết tâm sẽ đến thành phố cấm này cho bằng được dù phải trả bất cứ giá nào.

Các cuộc du hành bất tận của bà sau này đều có thể hiểu như là các cách tránh né sự cấm đoán trên đây nhằm t́m đường lên Tây tạng (một trong các chuyến đi này đă đưa bà đến Hà Nội – tại đây bà có viếng đền thờ hai Bà Trưng – sau đó bằng đường bộ bà vượt biên giới sang Vân Nam, đi về về hướng Tây t́m đường lên Tây Tạng). Thế nhưng các chuyến du hành lén lút đó cũng đă tạo dịp cho bà tiếp xúc – như từng xảy ra trước đây – với nhiều nhà tu hành và học giả uyên bác tại Miến Điện, Mă Lai, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên và cả Trung Quốc.

(Trong quyển sách mang tựa “Voyages et aventures de l’esprit”/”Các cuộc du hành và phiêu lưu của linh hồn”, có một chương nói về Việt Nam với tựa “Indochine, Mythe éternel”/”Đông Dương, một Huyền Thoại muôn đời”. Trong chương này bà thuật lại cuộc viếng thăm đền thờ hai Bà Trưng ở Hà Nội, bà thắp vài nén hương lấy từ bó hương mà chính bà mang theo để cắm lên bàn thờ hai Bà. Hai pho tượng của hai Bà được tạc đứng với kích thước lớn hơn người thường. Khi bà tiến đến hai pho tượng này và tượng thớt voi đặt cạnh bàn thờ th́ người bô lăo giữ đền thét lên không cho bà đến gần, và cho biết rằng nếu đến gần th́ về nhà sẽ bị “ốm đau”. Mượn dịp này bà giải thích về sự tin tưởng dân gian về sự ám ảnh của “oan hồn” người chết, nhất là “oan hồn” của những người tự tử. Bà nhắc lại sự tích hai Bà Trưng và cho biết là sau khi bị quân Tàu đánh bại th́ hai Bà đă tự tử, thế nhưng bà cũng cho biết thêm là chuyện đă xảy ra từ 18 thế kỷ trước. Phải chăng bà nêu lên điều này là có ư cho biết sự sợ hăi trên đây cũng chỉ là một sự “mê tín” dân gian?).

Năm 1918 trong một bối cảnh đầy loạn lạc của Trung Quốc thời bấy giờ, bà đă vượt 2500 cây số từ Bắc Kinh để đến ngôi chùa Kum-Bum trong tỉnh Amdo thuộc miền bắc Tây Tạng (Amdo là nơi sinh của Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV. Kum-Bum là một ngôi chùa đồ sộ và nổi tiếng, được xây dựng từ thế kỷ XVI. Ngôi chánh đ́ện có thể chứa 2000 người, mái ngói sáng chói được thếp với 350 kư vàng ṛng, bên trong chính điện có một bảo tháp bằng bạc nặng 1500 kư. Khi bà Alexandra đến đây th́ trong chùa có 3800 vị lạt-ma đang tu tập. Trước đó, vào năm 1845 cũng đă từng có vị hai cố đạo truyền giáo Ki tô là Évariste Huc và Gabet đă từng đến ngôi chùa Kum Bum này).

Bà Alexandra lưu lại ngôi chùa này hai năm rưỡi, nghiên cứu kinh sách, học tiếng Tây Tạng (bà nói thật sành sỏi sau này) và đồng thời bà cũng t́m hiểu về các miền thảo nguyên trong vùng này. Ngày 5 tháng 2 năm 1921, bà rời tu viện Kum-Bum lên đường đi Lhassa. Theo đường chim bay th́ hai nơi chỉ cách nhau 1300 cây số, đúng ra th́ chẳng nghĩa lư ǵ đối với một người phụ nữ quen xông pha như bà, thế nhưng trên thực tế th́ không biết bao nhiêu gian nan và trở ngại đă xảy đến với bà, sở dĩ bà vượt hết con đường này là nhờ ḷng quyết tâm phi thường của ḿnh (như đă nói đến trên đây, bà và người con nuôi Yongden phải mất ba năm để đi từ tu viện Kum-Bum để đến Lhassa). Sau hai lần thất bại khi tiến vào Tây Tạng qua ngơ Jyekundo (nay đă bị người Trung Quốc đổi tên là Gyêgu) bà đành phải tạm thời bỏ cuộc. Thế nhưng bà vẫn nhất quyết phải đến Lhassa cho bằng được, dù phải đổi cả tánh mạng ḿnh. Dầu sao hai lần thất bại trên đây cũng không phải là hoàn toàn vô ích, v́ đă giúp bà quen chịu đựng giá rét, mệt mỏi, và vượt đèo ở các độ cao.
florida80_is_offline  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.09395 seconds with 10 queries