R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,150 Times in 13,135 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 161
|
Câu nói: "Quân Xử Thần Tử... Phụ Xử Tử Vong..." không phải là của Nho Gia, mà của Pháp gia
Khi tôi c̣n ngồi trên ghế nhà trường, mỗi khi phê phán Nho giáo và chế độ phong kiến, thầy cô thường đem câu nói:
“ Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” (Vua khiến bề tôi chết mà bề tôi không chết là bất trung; Cha khiến con chết mà con không chết là bất hiếu) và cho rằng Nho giáo dạy con người những điều hết sức là phi nhân bản.
( Đại đa số các bài viết trên sách báo cũng như trên google hiện nay đều ghi “ Quân xử…Phụ xử…”, đúng nguyên văn chữ Hán ghi là “Quân xử…Phụ xử…”. Khiến, sai khiến người gọi là Xử. Quân xử thần tử: Vua khiến bề tôi chết; Phụ xử tử vong: Cha khiến con chết).
Trong các vở tuồng, chèo … hiện nay khi phê phán, đả kích Nho giáo hay phong kiến, các nhà biên soạn thường đem câu: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung…” để mà chế giễu.
Giai thoại văn chương Việt Nam có kể về tài ứng đối của Đinh Nhật Thận. Đinh Nhật Thận sinh năm Ất Hợi (1815) tại làng Thanh Lạo, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, đỗ cử nhân khoa Đinh Dậu (1837), đỗ tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1838) được bổ làm Tri phủ. Ông thường giao du với Cao Bá Quát và Nguyễn Hàm Ninh. Sau Cao Bá Quát dấy binh chống lại triều đ́nh, Đinh Nhật Thận bị t́nh nghi, bắt giải về kinh giam, sau được thả ra
(Quốc triều hương khoa lục chép về Đinh Nhật Thận: “ V́ là bạn cũ của tên giặc Cao bá Quát nên bị bắt giam, sau được thả”
( Cao Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục, Nxb TPHCM, trang 191).
V́ mến tài ông, vua Tự Đức lưu ông lại ở kinh đô để dạy con em trong hoàng tộc và cũng là một kế để dễ bề kiềm tỏa ông. Ông mất năm Bính Dần (1866). Quốc triều đăng khoa lục chép về ông:
“Ông đọc sách qua một lượt là nhớ. Làm văn, cất bút là xong, không cần phải nháp, ư tứ mới lạ, phần nhiều không theo khuôn sáo lối văn thời bấy giờ. văn thơ ông làm xong là bỏ qua, không lưu lại bài nào”
( Cao Xuân Dục, Quốc triều đăng khoa lục, Nxb Văn học, trang 69).
Tục truyền khi ở kinh đô, một hôm Đinh Nhật Thận cùng các quan đại đại thần theo thuyền ngự đi ngoạn cảnh trên sông Hương. Nhân bàn luận về Nho giáo, ông nhắc đến câu:
“Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” và cho đó là một câu chí lư.
Nghe xong vua Tự Đức phán:
"Vậy trẫm truyền cho khanh nhảy xuống sông này chết đi!
Nghe vua phán vậy, các quan trên thuyền đều lo sợ thay cho ông, v́ không nhảy xuống sông th́ không được, mà nhảy xuống th́ bị chết một cách oan uổng. Ấy vậy mà ông vẫn b́nh tĩnh lạy nhà vua xong đâu vào đấy rồi lao ḿnh xuống ḍng sông. Mọi người tưởng đây là nơi an nghỉ ngàn thu của ông. Nhưng chỉ trong giây lát, ông ngoi đầu lên khỏi mặt nước và tay bám vào thuyền ngự. Vua Tự Đức hỏi:
Sao khanh không ở dưới đó luôn mà c̣n trở lên đây?
Ông đáp:
Thần định ở luôn dưới đó, nhưng khi vừa xuống đến đáy sông th́ thần gặp ông Khuất Nguyên, ông ấy đuổi thần lên và mắng thần như sau:
“Ngă phùng ám chúa hàm oan nhẫn
Nhữ ngộ minh quân nịch tử hà?”
(Ta gặp ám chúa phải chịu oan đă đành/ C̣n ngươi gặp được minh quân sao lại trầm ḿnh?), hạ thần nghe ông ấy mắng quá đúng cho nên phải ngoi lên tâu để bệ hạ rơ!
Vua Tự Đức cả cười, sai thị vệ kéo ông lên thuyền ngự, lấy quần áo cho ông thay rồi đích thân rót một chén rượu để khen thưởng cho cái tài ứng đối mẫn tiệp, mặc dù biết đó là một câu chuyện hoàn toàn bịa đặt.
Giai thoại nghe qua th́ rất hay, nhưng giai thoại này chỉ dành cho những người không am tường Nho giáo kể cho nhau nghe lúc “trà dư tửu hậu” mà thôi! V́ một người như Đinh Nhật Thận đă nhuần nhuyễn Tứ thư, Ngũ kinh, sách Bách gia chư tử… mà chẳng lẽ lại tán dương một câu hết sức là phi nhân bản như thế!
Nho giáo chỉ trung với ông vua có đủ tư cách, đáng cho ḿnh thờ; nếu không th́ có thể bỏ mà thờ ông vua khác, như Khổng tử đă bỏ vua nước Lỗ. Nghĩa Quân - Thần trong Nho giáo có định phận rơ ràng:
Định công vấn:
“ Quân sử thần, thần sự quân, như chi hà?”
Khổng tử đối viết:
“Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung”
(Vua Định công nước Lỗ hỏi Khổng tử rằng:
“Vua khiến bề tôi, bề tôi thờ vua, phải thế nào?”
Khổng tử đáp rằng:
“ Vua lấy lễ mà đăi bề tôi, bề tôi lấy trung mà thờ vua”
– Luận ngữ : Bát dật ,19).
Vua phải có đức độ, phải biết tu thân:
“ Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhơn, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn”
(Trên từ bực thiên tử lần xuống cho đến hạng dân thường đều phải lấy sự tu thân làm gốc – Đại học).
Bởi thế Mạnh tử bảo Tề Tuyên vương rằng:
“Quân chi thị thần như thủ túc, tắc thần thi quân như phúc tâm. Quân chi thị thần như khuyển mă, tắc thần thị quân như quốc nhân. Quân chi thần thị như thổ giới, tắc thần thị quân như khấu thù”
(Vua xem bề tôi như tay chân, th́ bề tôi xem vua như bụng như ḷng. Vua xem bề tôi như chó ngựa, th́ bề tôi xem vua như người lạ trong nước. Vua xem bề tôi như đất như cỏ th́ bề tôi xem vua như giặc như thù-
Mạnh tử: Ly lâu ,Chương cú hạ,3).
Tề Tuyên vương hỏi Mạnh tử:
“ Thần thí kỳ quân khả hồ?”
Viết:
“ Tặc nhân giả, vị chi tặc; tặc nghĩa , vị chi tàn; tàn tặc chi nhơn, vị chi nhứt phu. Văn tru nhứt phu Trụ hỹ, vị văn thí quân dă”
( “Bề tôi mà giết vua, có nên chăng?”.
Mạnh tử đáp rằng:
“ Kẻ làm hại đức nhân gọi là tặc; kẻ làm hại đức nghĩa gọi là tàn. Kẻ tàn, kẻ tặc chẳng qua là một người thường mà thôi. Tôi từng nghe vua Vơ vương chỉ giết một người thường là Trụ mà thôi, chớ tôi chưa hề nghe giết vua”-
Mạnh tử, Lương Huệ vương, Chương cú hạ, 8).
Tuân tử cũng nói :
“ Tru bạo quốc chi quân, nhược tru độc phu”
( Giết một ông vua tàn bạo của một nước cũng như giết một kẻ độc phu – Vua cũng chẳng phải thần thánh ǵ!)
Mạnh tử khẳng định:
“ Dân vi quí, xă tắc thứ chi, quân vi khinh”
( dân là quí, thứ đến là xă tắc, vua là khinh – Mạnh tử ,Tận tâm, Chương cú hạ , 14)
Mối quan hệ Phụ – Tử trên tinh thần “ Phụ từ, tử hiếu”. Bổn phận làm con là phải hiếu với cha mẹ. Khổng tử giải thích:
“ Sanh, sự chi dĩ lễ; tử, táng chi dĩ lễ; tế chi dĩ lễ”
(Hễ làm con, khi cha mẹ c̣n sống, phải phụng sự cho có lễ, khi cha mẹ chết, phải chôn cất cho có lễ, rồi những khi cúng giỗ, cũng phải giữ đủ lễ – Luận ngữ : Vi chính II, 5)
|