R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Rep Power: 162
|
Hiểu đúng về vô ngă (anatta)
trong Phật giáo
Cái mà người ta thường gọi là linh hồn, ngă hay cái tôi, là để ám chỉ một thực thể tuyệt đối, trường cửu trong con người, bản thể bất biến đằng sau thế giới hiện tượng hằng biến. Theo một vài tôn giáo, mỗi người có một linh hồn tách biệt như thế do Chúa tạo dựng, và linh hồn ấy sau khi chết sẽ vĩnh viễn sống trong địa ngục hay thiên đường. Số phận nó tùy thuộc vào sự phán xét của đấng sáng tạo ra nó. Theo một vài tôn giáo khác, linh hồn ấy trải qua nhiều đời sống, cho đến khi nó hoàn toàn trong sạch và cuối cùng trở thành đồng nhất với Thượng đế hay Phạm thiên Brahman, Linh hồn phổ quát hay Àtman từ đấy nó phát xuất. Linh hồn hay ngă trong con người là cái suy nghĩ, cảm giác, và nhận thưởng phạt về tất cả mọi hành vi thiện ác của nó. Một quan niệm như thế gọi là Ngă kiến.
.
Phật giáo là tôn giáo độc nhất trong lịch sử tôn giáo nhân loại phủ nhận hiện hữu của một linh hồn, Ngă hay Àtman như thế. Theo giáo lư Phật, ngă kiến là một niềm tin sai lạc, không tương ứng với thực tại, và nó phát sinh những tư tưởng tai hại về "tôi" và "của tôi", dục vọng ích kỷ không biết chán, sự chấp thủ, sân hận, ác độc, kiêu căng ngă mạn, và những cấu uế ô nhiễm khác cùng nhiều rắc rối. Nó là nguồn gốc của mọi rối ren trên đời, từ những tranh chấp cá nhân cho đến chiến tranh giữa các dân tộc. Tóm lại, tất cả mọi sự tác quái trên thế gian đều bắt nguồn từ quan niệm sai lạc này.
.
Có hai ư tưởng thâm căn cố đế trong tâm lư con người: tự vệ và tự tồn. V́ muốn tự vệ con người đă dựng nên Thượng đế để nương tựa, để được che chở, được an ninh bảo đảm, như một đứa trẻ nương tựa vào cha mẹ. V́ muốn tự tồn người ta đă sáng tạo ra ư tưởng về một linh hồn bất tử hay Àtman sẽ sống măi đến bất tận. Trong ngu si, yếu đuối, sợ hăi, khát khao, người ta cần hai điều ấy để tự trấn an, tự vỗ về; v́ lư do đó họ bám vào đấy một cách cuồng tín và hăng say.
Giáo lư Phật không dung dưỡng sự ngu si, yếu đuối, sợ hăi, khát khao ấy, mà cốt làm con người sáng mắt ra bằng cách trừ khử, tiêu diệt, nhổ tận gốc những thói này. Theo Phật giáo, những ư tưởng của chúng ta về thượng đế và linh hồn là sai lạc, trống rỗng. Mặc dù những ư tưởng ấy được phát triển sâu đậm, dệt thành những chủ thuyết, tất cả đều là những dự phóng tinh vi của óc tưởng tượng được gói ghém trong một mớ danh từ triết lư và siêu h́nh phức tạp. Những ư tưởng này đă ăn sâu gốc rễ trong tâm lư con người, gần gũi thân thiết với họ đến nỗi họ không mong nghe, cũng không muốn hiểu một đạo lư nào ngược lại.
Đức Phật biết rơ điều ấy, ngài dạy rằng giáo lư của ngài "đi ngược ḍng" (patisotagàmi), trái ngược với những dục vọng ích kỷ của con người. Bốn tuần lễ sau khi giác ngộ, ngồi dưới một gốc cổ thụ, ngài tự nhủ:
"Ta đă thực chứng một sự thực sâu xa, khó thấy, khó hiểu... chỉ những bậc trí mới hiểu thấu. Những người bị đam mê chế ngự, bị vô minh vây phủ không thể nào thấy chân lư này, v́ nó ngược ḍng, nó cao siêu, sâu kín, tế nhị và khó nghĩ bàn."
Nghĩ thế, đức Phật đă do dự một lúc:
"Có phải vô ích không nếu ta cố giảng giải cho thế gian Chân lư mà ta đă chứng nhập?"
Rồi ngài so sánh thế gian như một ao sen: trong ấy có nhiều hoa c̣n ở dưới mặt nước, có những hoa khác chỉ vừa ló lên trên mặt nước, nhưng cũng có những bông hoa đă vươn lên khỏi mặt hồ và không c̣n động chạm với nước. Cũng thế trong thế gian này, tŕnh độ phát triển của con người khác nhau. Có một số người sẽ hiểu được Chân lư. V́ thế đức Phật quyết định giảng dạy chân lư ấy[1].
.
Lư Vô ngă là kết quả tự nhiên, là hệ luận của phân tích Ngũ uẩn và Duyên khởi (hay duyên sinh, paticca-samuppàda)[2].
.
Trong phần thảo luận về Diệu đế thứ nhất (Khổ đế, dukkha), chúng ta đă thấy cái mà ta gọi linh hồn hay cá thể được cấu tạo bởi năm uẩn, và khi phân tích kỹ năm uẩn ta không thấy có ǵ đằng sau chúng có thể gọi được là Tôi, Àtman hay Ngă, hay bất cứ bản thể trường tồn bất biến nào. Đấy là phương pháp phân tích. Ta cũng có kết quả tương tự khi xét kỹ luật duyên khởi, phương pháp tổng hợp, và theo luật này th́ không có ǵ trên thế gian là tuyệt đối. Mọi sự vật (pháp) đều giới hạn, tương đối, và phụ thuộc lẫn nhau. Đây là thuyết tương đối của Phật giáo.
.
Trước khi thực sự đi vào vấn đề Vô ngă, ta nên có một ư niệm sơ qua về luật duyên khởi. Nguyên tắc của lư thuyết này được tóm tắt trong một công thức gồm 4 ḍng:
Cái này có, th́ cái kia có (imasmim sati idamhoti).
Cái này sinh, th́ cái kia sinh (imassuppàda idam uppajjati).
Cái này không, th́ cái kia không (imasmim asati idam na hoti).
Cái này diệt, th́ cái kia diệt (imassa nirodhà idam airujjhata) [3].
.
Theo nguyên tắc điều kiện tính, tương đối tính và tính hỗ tương tùy thuộc ấy, sự tiếp tục của đời sống và sự chấm dứt của nó được giải thích trong một công thức chi tiết gọi là duyên khởi, (nghĩa là sự sinh khởi có điều kiện hay duyên) gồm 12 yếu tố:
1- Vô minh (làm) duyên (cho) hành (những hoạt động cố ư hay nghiệp) (avijjàpaccayà samkhàvà).
2- Hành (làm) duyên (cho) thức (samkhàrapaccayà vinnànam).
3- Thức (làm) duyên (cho) danh sắc (những hiện tượng tâm lư và vật lư) (Vinnànapaccayà nàmarùpam).
4- Danh sắc (làm) duyên (cho) lục nhập (5 giác quan và ư thức) (Nàmarùpapaccayà salàyatanam).
5- Lục nhập (làm) duyên (cho) xúc (động chạm, tiếp xúc) (salàyatanapaccayà phasso).
6- Xúc (làm) duyên (cho) thọ (cảm giác) (phassapaccayà vedanà).
7- Thọ (làm) duyên (cho) ái (khao khát ham muốn) (vedanàpaccayàtanhà) .
8- Ái (làm) duyên (cho) thủ (bám víu, giữ lấy) (Tanhapaccayà upàdànam).
9- Thủ (làm) duyên (cho) hũu (quá tŕnh sinh ra và trở thành) (upàdànapaccayà bhavo).
10- Hữu (làm) duyên (cho) sinh (sự sống, sinh ra) (Bhavapaccayà jàti).
11- Sinh (làm) duyên (cho)
12- Lăo (già) tử (chết) ưu bi khổ năo (buồn lo đau đớn) (Jàtipaccayà jaràm maranam).
.
Đây là quá tŕnh theo đó sự sống đă phát sinh, tồn tại và tiếp diễn. Nếu ta đảo ngược công thức lại, ta sẽ đi đến sự chấm dứt của quá tŕnh:
.
Vô minh diệt th́ hành diệt, hành diệt th́ thức diệt, thức diệt th́ danh sắc diệt, danh sắc diệt th́ lục nhập diệt v.v.. cho đến khi sinh lăo, tử, ưu bi khổ năo... diệt.
Cần nhớ rơ một điều rằng mỗi yếu tố trên đây đều vừa là nhân vừa là quả, nó vừa bị định đoạt bởi (paticcasamuppanna), và vừa làm điều kiện cho (paticcasamuppàda)[4]. Bởi thế chúng đều là tương đối, phụ thuộc lẫn nhau và liên quan với nhau, không có cái ǵ là tuyệt đối hay biệt lập, do đó mà Phật giáo không công nhận có "nguyên nhân đầu tiên" như ta đă thấy trước kia[5]. Duyên khởi nên xem như một ṿng tṛn, chứ không nên xem là một sợi xích[6].
.
Vấn đề ư chí tự do chiếm một địa vị quan trọng trong tư tưởng và triết học Tây phương. Nhưng theo luật duyên khởi, vấn đề này không phát sinh và không thể phát sinh trong triết học Phật giáo. Nếu toàn thể hiện hữu đều là tương đối, giới hạn và phụ thuộc nhau, làm sao một ḿnh ư chí có thể được tự do? ư muốn cũng bị giới hạn như bất cứ tư tưởng nào khác. Cái ta gọi là "tự do"chính nó cũng giới hạn và tương đối. Không thể có cái ǵ vật lư hay tâm lư có thể tuyệt đối tự do, v́ mọi sự đều tương quan và tương đối. "ư chí tự do" bao hàm ư nghĩa một ư muốn không phụ thuộc vào những điều kiện, biệt lập với nhân quả. Làm sao một ư muốn hay bất cứ cái ǵ thuộc về ư chí, có thể phát sinh mà không có những điều kiện, tách rời nhân và quả - khi toàn thể hiện hữu đều giới hạn và tương đối, nằm trong luật nhân quả? Lại nữa ở đây, ư niệm về ư chí tự do cũng liên quan mật thiết đến những ư tưởng về Thượng đế, linh hồn, công bằng, thưởng phạt. Không những cái gọi là tự do đă không tự do, mà ngay cả chính ư niệm về ư chí tự do cũng không thoát khỏi những điều kiện.
.
Theo luật duyên khởi, cũng như theo sự phân tích con người thành năm uẩn, ư tưởng về một bản thể trường cửu bất diệt ở trong hay ngoài con người, dù gọi là Àtman, Tôi, Linh hồn, Ngă, hay cái Ta, chỉ được coi như một niềm tin sai lạc (tà tín), một bóng dáng của tâm thức. Đây là lư thuyết Phật giáo về Vô ngă (anatta).
Để tránh một sự lầm lẫn, ở đây ta nên nhắc rằng có hai loại sự thật: sự thật ước lệ, Tục đế (sammutisacca), và sự thật tuyệt đối hay Thắng nghĩa đế (paramatthasaca)[7].
.
Khi ta dùng thường ngày những từ ngữ như "tôi", "anh", "linh hồn", "cá nhân" v.v.. không phải chúng ta nói dối, mà nói một sự thật thuận theo quy ước của thế gian. Nhưng sự thật tối hậu là không có "tôi" hay "linh hồn". Như kinh Mahàyànasùtràlankàra (Đại thừa nhập Lăng già) dạy:
"Một con người (pudagala) nên được xem là chỉ có trong sự giả lập (prajnapati) (nghĩa là theo quy ước th́ có một cá thể hay con người), chứ không phải trong thực tại (dravya)[8].
"Sự phủ nhận một linh hồn bất tử là đặc tính chung cho mọi hệ thống giáo lư Tiểu thừa cũng như Đại thừa, và như vậy không có lư do ǵ để quả quyết rằng truyền thống Đại thừa, một truyền thống hoàn toàn đồng quan điểm với Tiểu thừa trên vấn đề này, đă đi xa với giáo lư nguyên thủy của đức Phật." [9]
|