Khi Ḿnh Phán Xét Người Khác - BS Nguyễn Thượng Chánh
29/07/2014
Bs Nguyễn Thượng Chánh
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường có khuynh hướng hay phán xét, khen, chê, phê b́nh hoặc chỉ trích người khác. Vậy có khi nào ḿnh tự xét lại ḿnh hay không?
“Họ có ư kiến về mỗi người nhưng chẳng có một ai làm họ vừa ḷng hết. Không thề có được ḷng khoan dung, phán xét là một cách để chứng tỏ rằng họ tồn tại.”
(“ls ont une opinion sur chacun, et nul ne trouve grâce à leurs yeux. Incapables de tolérance, le jugement est devenu pour eux une façon d’exister.”) Laura Lil - Je juge tout le monde -
Psychologie.com
* * *
Các bộ mặt của phán xét
Phán xét có thể bằng lời nói, bằng lời viết, bằng cử chỉ, bằng thái độ khinh khi, bĩu môi, tảng lờ đi, hoặc đôi khi chỉ cần nghĩ thầm trong bụng mà thôi.
Phán xét có thể đúng, sai, thiên vị, chủ quan hoặc khách quan.
Dường như phán xét tiêu cực, v́ ganh ghét đố kỵ, để đả phá, để trả thù, để cho đở tức, để ngạo mạn, chỉ trích cho bỏ ghét... thường dễ xảy ra hơn là phán xét xây dựng, thiên về khuyến khích để giúp người khác sửa sai, tránh lỗi lầm, để nâng tinh thần, hoặc để khen thưởng một người nào đó.
Nên nhớ là sự tức giận là vũ khí của kẻ yếu hèn (la colère est l’arme des faibles).
Phán xét thường chịu ảnh hưởng của t́nh cảm cá nhân, thương hay ghét, tùy theo cách nh́n một vấn đề, tùy theo sự hiểu biết hay tri thức, tùy khung cảnh xă hội, tùy quyền lợi cá nhân, quan điểm chánh trị hay tín ngưỡng của mỗi người.
Phán xét có thể thay đổi theo thời gian và không gian.
Đó là chưa kể trong xă hội cũng có một hạng người lúc nào cũng hay nói móc ḷ, bác bỏ, vạch lá t́m sâu, chê bai bất cứ lời nói, ư kiến hay việc làm của người khác. Theo họ th́ tất cả đều sai hết duy chỉ có họ mới đúng mà thôi. Phải chăng họ đang mắc chứng xáo trộn nhân cách ái kỷ (narcissisme).
Nói điều tiêu cực, chê bai người khác là một bản năng tự vệ
Nói xấu, nói lời nghịch nhĩ, có cử chỉ, hành vi bạo lực được xem là những phản ứng tự vệ để khỏi bị mất mặt và thua thiệt.
Bản chất con người rất phức tạp v́ nó được uốn nắn bởi t́nh cảm tốt và xấu: thương ghét, tham lam, ham muốn, ganh tị, ghen tương, suy b́, so sánh hơn thua, tranh chấp hơn người.
Dĩ nhiên khi nói xấu, chúng ta phản ảnh với những ǵ ḿnh đang mang trong người, khi th́ tiêu cực khi th́ tích cực. Khi tiêu cực, chúng ta muốn tung ra cho người khác nỗi khổ của chính bản thân ḿnh. Khi chúng ta thấy người khác đau khổ, bị nhục nhă th́ các nỗi niềm khổ dau khổ của chính ḿnh cũng sẽ được vơi đi. Chúng ta vui sướng khi thấy người khác thua thiệt và đang ở vị thế yếu kém.
Phán xét có chủ đích
Ngoài ra c̣n vấn đề khen chê giả dối v́ xă giao, để lấy ḷng, để kiếm điểm, để nâng bi, nịnh bợ, thượng đội hạ đạp, nghèo th́ đạp, giàu th́ ganh. Trước mặt th́ khen nhưng sau lưng th́ bĩu môi, nhăn mặt, nhíu mày, nháy nháy con mắt, nói lén chê bai tới tấp... thật đúng là hạng đạo đức giả, xoay theo chiều gió.
Khi phán xét người khác là ḿnh tự phán xét chính ḿnh (Juger l’autre, c’est porter un jugement sur soi. Norbert Chatillon, Psychanalyste)
Xin đúc kết lại vấn đề phán xét theo cái nh́n của khoa tâm lư học và khoa phân tâm học (psychanalyse) đăng trong tạp chí: Psychologie Magazine no 27 Nov 2008
Khi chúng ta phán xét bất cứ việc ǵ của người khác chúng ta sẽ tự ḿnh làm tiêu ṃn năng lực một cách vô ích thay v́ có thể giữ chúng lại để tô điểm cho cuộc sống tinh thần của ḿnh được thêm phần tươi đẹp và phong phú hơn.
Vậy tại sao chúng ta có tật hay phán xét kẻ khác? Theo nhà phân tâm học N. Chatillon th́ chính sự tương đồng hoặc sự khác biệt với người khác làm ḿnh bối rối khó chịu và ḿnh không thể xác định được căn tánh (identité) của chính ḿnh. Vậy cách tự vệ tốt nhất là ḿnh phải tấn công người ta qua việc phán xét họ thẳng thừng không thương tiếc.
Trước khi phán xét người khác th́ nên tự hỏi ḿnh có trong sạch hơn người kia không?
(Người nào tự cho rằng ḿnh là trong sạch, hăy ném cục đá đầu tiên vào người đàn bà)
"Let the person among you who is without sin be the first to throw a stone at her." John 8:7
Trong Kinh Thánh St Luc có viết: “Tại sao các ông để ư tới hạt bụi trong mắt người ta nhưng lại bỏ qua khúc gỗ nơi mắt của ḿnh?”
Chỉ trích ít nhưng phải chỉ trích cho đúng.
Từ việc chỉ trích để xây dựng dến việc kết tội th́ cũng không mấy xa nhau, chỉ cần có thêm đôi ba chữ mà thôi.
Phán xét được xem là có ích khi nó giúp ḿnh cải thiện và xây dựng căn tánh của ḿnh. Trong trường hợp nầy sự phán xét sẽ giúp chúng ta có được cái nh́n chính chắn về xă hội quanh ta.
Phán xét trở nên độc hại khi nó rơi vào cực đoan, khinh mạn, để hạ và để chà đạp người khác, để che lấp bớt cái dở, cái yếu kém của ḿnh hầu có được cảm giác thượng tôn hơn người.
Loại phán xét đả phá rất có hại v́ nó có thể dẫn dắt chúng ta rơi vào sự chối từ người khác.
Phán xét rất chủ quan và chịu ảnh hưởng của định kiến.
Tuy vậy, phán xét cũng rất cần thiết. Nó giúp chúng ta có “ư kiến” nhưng đôi khi nó có thể trở thành một lối khinh miệt đưa đến sự kết tội người khác.
Mặc dù thành kiến là cội nguồn của sai lầm và bất công, nhưng triết gia Đức Immanuel Kant (1724- 1804) cũng đă nhắc nhở chúng ta cần phải có bổn phận phán xét. Đó là trường hợp phải phán xét kẻ sát nhân và những kẻ phạm tội t́nh dục, hiếp dâm, v.v... Đây là những trọng tội trong xă hội.
Theo các nhà phân tâm học th́ chúng ta thường có khuynh hướng hay phán xét những hành động vô luân (immorale) nếu trong tiềm thức chúng ta cũng có tư tưởng tương tợ như thế. Có thể nói rằng đây cũng là một cách để ḿnh tự trừng phạt lấy ḿnh.
“Anh kia say sưa tối ngày”, câu phán xét nầy có mục đích giúp chúng ta quên đi ḿnh cũng là dân ghiền, nghiện ngập nicotine, thuốc lá, chocolat v.v...
“cha nội đó lái xe ẩu tả quá...”
So sánh ḿnh khác người. “Anh kia sao làm biếng quá”, khi phán xét như thế ḿnh muốn chứng tỏ là ḿnh siêng hơn họ. Người ta nghĩ sai, làm trật, họ khác ḿnh. Vậy là ḿnh là người nghĩ đúng làm đúng.
Cũng có thể ḿnh so sánh điểm tương đồng và sự giống nhau với họ. “Ông giám đốc cùng tuổi với tôi và cũng là bạn học của ḿnh hồi trung học.”
“Bác sĩ kia quá tài ba quá. Hồi nhỏ, tôi và ổng ở cùng chung một xóm bên Phú Nhuận đó.”
Đây là một sự so sánh, một lối lư luận quá đơn giản và có lợi.
Chúng ta thường phán xét những ǵ ở người khác?
- Bề ngoài, sự giàu sang:
Phán xét bề ngoài của một người có nghĩa là ḿnh nghi ngờ về h́nh ảnh của chính ḿnh. Tôi có khá hơn họ, đẹp hơn họ không? Tôi có thua kém họ không? Qua việc phán xét, ḿnh quên đi trong chốc lát những yếu điểm của chính ḿnh. Ḿnh chỉ chú tâm vào kẽ hở của người khác.
Phán xét có thể bắt nguồn từ sự ganh tị: con nhỏ đó tuy đẹp nhưng nó có vẻ không mấy thông minh, không có nết, lẳng lơ quá…
Người đó rất giàu có nhưng lại hết sức keo kiệt và bủn xỉn. Không bao giờ chịu giúp đở ai hết...
- Sự thông minh:
Tính thông minh đồng nghĩa với cường tráng (virilité) ở người đàn ông.
Phán xét sự thông minh của một người đàn ông th́ cũng như đem hoạn (hay thiến) anh ta.
Đề cao trí thông minh của một người đồng nghĩa là ḿnh có đủ tư cách để xác nhận sự thông minh của họ. Đây là thái độ chịu thua của ḿnh.
- Cách hành xử:
Tấn công vào lối cư xử lố bịch của một người là một cách gián tiếp để ḿnh tự xác định là lúc nào ḿnh cũng đàng hoàng, ngon lành hơn họ và đồng thời ḿnh thuộc vào nhóm người có tư cách.
Thái độ nầy cho thấy chúng ta có một tâm địa hẹp ḥi hoặc là chúng ta sợ bị thải trừ ra khỏi xă hội.
Đứng về mặt giao tế, một người tốt, có giáo dục là một người mà chúng ta có thể giao tiếp được.
Ư niệm nhờ giáo dục (gia đ́nh và học đường) mà một người trở nên tốt là những ư niệm chúng ta hấp thu được từ lúc nhỏ và cũng là điều mà chúng ta thường hay truyền đạt lại cho lớp con cháu.
- Ư kiến:
Phán xét về ư kiến cũng là một loại phán xét rất phổ biến. Trong các sách dạy cách xử thế chúng ta đều thấy lời khuyên bảo nên tôn trọng ư kiến của người khác mặc dù ḿnh không đồng ư với họ.
Văn hào Pháp Voltaire (1694-1778) đă nói một câu để đời “Tôi có thể không đồng ư với những ǵ anh nói ra, nhưng tôi sẽ bảo vệ quyền phát biểu của anh cho đến cùng.” (I do not agree with what you have to say, but I'll defend to the death your right to say it.)
Bá nhơn bá tánh hay trăm người trăm ư và xin đừng quên hiện nay có 7 tỉ người đang sống trên thế giới.
Ngoài ra cũng có thể có một hạng người có thái độ ba phải, nay nói thế nầy mai nói thế khác... ư kiến họ thường có khuynh hướng xoay theo chiều gió.
Tại sao họ phải nghĩ xấu về người khác?
1) Bằng mọi giá, hắn ta không từ khước bất cứ cách ǵ miễn được thành công
Thí dụ: “Bạn có biết không, nghe nói ông A có thời đă ngồi tù về tội lường gạt.”
Theo nhà xă hội học Jean Bruno Renard th́ người nói xấu cố t́nh gieo rắc những t́n không tốt về một người nào đó và họ cho rằng đó là tin có cơ sở đáng tin cậy.
Cho dù nguồn tin có đúng hay sai đi nữa th́ người nói xấu vẫn có thể chứng minh thái độ ngay t́nh, ư tốt của anh ta (hay chị ta) muốn thông tin, cảnh báo thiên hạ về một mối hiểm nguy.
2) Để tạo mối giao tiếp xă hội
Kẻ nói xấu cố tạo cho họ một cái vỏ thiện cảm: các lời chỉ trích của hắn ta đều có vẻ có ích lợi. Nó chứng tỏ hắn ta cũng biết được một cái ǵ đó ở nạn nhân với ngụ ư là hắn ta khá hơn người đó rất nhiều.
Chỉ trích người khác, có nghĩa gián tiếp là ḿnh nói điều tốt về ḿnh và cả cho những người chịu nghe ḿnh kể.
Sau những câu nói xấu đều có tiềm ẩn cái ư sau đây: Tôi kể cho bạn nghe chuyện đó v́ tôi không phải là hạng người như thế và cũng tại v́ tôi biết các bạn cũng không phải như vậy.
3) V́ họ thiếu ḷng tự trọng
Tại sao không tạo mối giao tiếp xă hội bằng cách kể những chuyện có tính cách tốt và xây dựng? Theo nhà tâm lư học Isabelle Filliozat: «kẻ nói xấu người khác có cảm giác là hắn ta chẳng có cái ǵ riêng tư để kể hết.» Hắn ta nói chuyện về một người bạn láng giềng, về một người đồng nghiệp v́ không c̣n chuyện nào khác để kể, v́ hắn nghĩ rằng nếu đem chuyện ḿnh ra kể th́ chả có ǵ hấp dẫn hết.
Những lời nói xấu nhắm vào người khác là một báo hiệu của một t́nh trạng tuyệt vọng (détresse) của một người không c̣n ḷng tự tin và tự trọng nữa (confiance et estime de soi).
4) V́ họ thích nói xấu người khác
Thiếu ḷng tự tin vào chính ḿnh sẽ kéo theo t́nh trạng họ không dám tự khẳng định (s’affirmer).
Trong đời sống, họ luôn luôn mang tâm sân hận, tức giận, bực bội và từ đó tạo nên sự giận dữ.
Nếu họ nh́n nhận là họ tức giận th́ đó chẳng khác nào họ xác nhận sự yếu hèn của họ hay sao?
Ngựi đời thường nói sự tức giận là vũ khí của kẻ hèn yếu đó sao.
V́ vậy, từ vô thức họ chĩa mũi dùi vào người khác, đặc biệt là vào những người tài giỏi, những người thành công và may mắn hơn họ.« Con đó có tài nghệ ǵ đâu, chẳng qua là do chạy chọt đút lót, nhờ phe đảng, nhờ quen lớn mà thôi… »
5) V́ phóng chiếu (par projection)
Trong nhiều trường hợp khác, họ nói những ǵ mà họ ghét và kinh tỡm nhất trong chiều sâu của họ. Thí dụ: Bà đó tham lam quá, thằng đó có tính quy kỷ (égocentrique). Nó tưởng nó là trung tâm của vũ trụ.
Theo nhà phân tâm học Philippe Grimbert: «Ḿnh sẽ phịa ra hay chỉ đích danh cho mọi người biết những nét mà ḿnh không ưa, ḿnh không chịu đựng được v́ đó chẳng qua là những khía cạnh ḿnh đang mang trong người mà chính ḿnh cũng không có thể nào chấp nhận được.»
Sự nói xấu dựa trên hiện tượng tâm lư học gọi là phóng chiếu: ḿnh gán cho người khác một phần của chính ḿnh mà ḿnh từ chối không chấp nhận hay ḿnh ư thức rằng không thể nào nhận biết nó được.
Các tôn giáo nghĩ ǵ về vấn đề phán xét
Thiên Chúa giáo:
Chỉ có Chúa mới có quyền phán xét con người.
Matthew 7:1 (NIV)
“Do not judge, or you too will be judged
Matthew 7:2–5 (NIV)
For in the same way you judge others, you will be judged, and with the measure you use, it will be measured to you.
Đức Giáo Hoàng nói: Đừng phán xét - anh chị em không phải là Thiên Chúa đâu!
http://www.vietcatholic.net/News/Html/125686.htm
Trong thánh lễ sáng thứ Hai 23 tháng 6 tại nhà nguyện Santa Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô khuyên các tín hữu hăy từ bỏ thái độ xăm xoi, phán xét người khác. Ngài gọi đó là thái độ của những kẻ giả h́nh đang bị Satan xúi giục.
Đức Thánh Cha giải thích rằng:
“Khi phán xét người khác, ta đặt ḿnh vào vị trí của Thiên Chúa, là Vị thẩm phán duy nhất. Nếu ai hy vọng một ngày nào đó những hành vi phạm tội của ḿnh được tha thứ, th́ đừng phán xét người khác.”
Phật giáo
Phải có một cái nh́n đúng đắn và trong sáng (vision juste et nette).
Theo như cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải cho biết:
“Đức Phật không hề nói đừng bao giờ phán xét người khác. Câu đó là của Chúa Jesus trong Kinh Thánh.
Ngược lại, Đức Phật yêu cầu đánh giá người khác, để t́m bạn tốt, và tránh xa bạn xấu. Có hai chỗ có thể đọc về Thiện Tri Thức:
TĂNG NHẤT A-HÀM
Hán dịch: Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bà, người Kế Tân, thời Đông Tấn
Việt dịch: Thích Đức Thắng; Hiệu chú: Tuệ Sỹ
20. PHẨM THIỆN TRI THỨC
http://www.phatviet.com/dichthuat/ki...t/tang_020.htm
Tự Điển Phật Giáo - Đại Tạng Kinh:
Thiện tri thức
http://tudien.daitangkinhvietnam.org...i_th%E1%BB%A9c
“Mặt khác, Đức Phật yêu cầu tự do trạch vấn, nghi ngờ (nghĩa là đánh giá -- judging) ngay cả đạo sư. Trong Kinh Kalama: "Này các Kalama, chớ có tin v́ nghe truyền thuyết, chớ có tin v́ theo truyền thống, chớ có tin v́ nghe người ta nói, chớ có tin v́ được Kinh Tạng truyền tụng, chớ có tin v́ nhân lư luận, chớ có tin v́ nhân suy luận, chớ có tin sau khi suy tư về những dữ kiện, điều kiện, chớ có tin theo thiên kiến, định kiến, chớ có tin v́ thấy thích hợp với khả năng, chớ có tin v́ vị Sa môn là bậc Đạo Sư của ḿnh.(
http://www.thuvienhoasen.org/haytuminhthapduoc.htm)
...tự ḿnh là ngọn đèn cho chính ḿnh, tự ḿnh y tựa chính ḿnh, không y tựa một cái ǵ khác, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một cái ǵ khác”. (Ngưng trích)
Kết Luận
Tây phương có câu: Nếu không nói ra được những điều ǵ tốt đẹp th́ tốt hơn hết là đừng nên nói ǵ hết. (If you can’t say something nice, don’t say anything at all).
Theo Phật giáo, người biết đạo phải giữ tâm trong Bát chánh đạo, không nghĩ xấu, nói xấu, nói lén người khác.
Phê phán người khác th́ dễ, xét lỗi lầm của ḿnh th́ khó. Chung quy cũng từ cái Tâm của ḿnh mà ra.
Nếu chúng ta biết mở rộng cơi ḷng, th́ bất cứ ai, kể cả người đă làm ḿnh bực ḿnh điên dại, đều có thể là bậc thầy của ḿnh. (Sư nữ Pema Chodron)./.
If we learn to open our hearts, anyone, including the people who drive us crazy, can be our teacher.” ~Pema Chodron