|
R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,174 Times in 13,137 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
|
Quảng Cáo Sai Sự Thật và Gian Lận
Trong Việc Kinh Doanh Buôn Bán Sản Phẩm Dinh Dưỡng Bổ Sung Như Thuốc
Trong Cộng Đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ
Tiến sĩ Y Khoa Bệnh Học Nguyễn Thượng Vũ là một nhà khoa học y sinh hoá đă nhận được học vị cao nhất trong lĩnh vực y sinh (Tiến sĩ Bệnh Học, Miễn nhiễm học, Tế bào và Sinh Học phân tử) tại Đại học California ở Davis. Ông là một học giả đă xuất bản hơn 20 công bố khám phá khoa học trên các tạp chí y sinh học quốc tế hàng đầu như Cell, Journal of Clinical Investigation, và Journal of American Medical Association. Ông cũng là một trong các sáng lập viên của La Belle Cosmeceuticals, Inc., một công ty nghiên cứu về chăm sóc da và dược mỹ phẩm. Tiến sĩ Nguyễn Thượng Vũ và công ty La Belle Cosmeceuticals không kinh doanh sản phẩm dinh dưỡng bổ sung. Ông cũng là tác giả của một loạt các ấn phẩm bằng tiếng Việt về chủ đề của tế bào gốc và sự thật về các quảng cáo thương măi sai sự thật và phi pháp về “thuốc tế bào gốc” và “liệu pháp tế bào gốc” đă được phổ biến vào cuối năm 2013. Ông cũng xuất hiện trong một số phỏng vấn về chủ đề này trên truyền h́nh và đài phát thanh địa phương ở vùng vịnh California như Quê Hương hoặc quốc gia và quốc tế như đài Á Châu Tự Do và SBTN tại Hoa Kỳ.
TÓM LƯỢC
Quảng cáo sai lạc thực phẩm chức năng hay dinh dưỡng bổ sung. Quảng cáo những thứ này như thuốc uống là phạm luật v́ có tác động tiêu cực đáng kể đến chất lượng cuộc sống của người dân cũng như nền kinh tế quốc gia. Bệnh nhân bị những căn bệnh măn tính như tiểu đường, cao huyết áp hoặc giai đoạn sớm của ung thư, v.v…, cần được chăm sóc liên tục một cách đúng đắn bởi các chuyên gia y tế để kiểm soát căn bệnh hoặc để điều trị bệnh kịp thời. Điều này không những cứu được bệnh nhân mà c̣n giúp giảm phí tổn chữa trị. Ngược lại, chữa trị chậm trể v́ tin tưởng các loại thuốc men quảng cáo thất thiệt và sai lạc sẽ đưa đến hệ quả nghiêm trọng cho tính mạng, sự tốn kém trong khi chạy chữa có thể lên gấp trăm lần.
Thí dụ khi xảy ra nạn dịch do nhiễm virus hay siêu vi, có nguy cơ chết người như HIV hay Ebola, để ngăn ngừa th́ phải thận trọng tránh cho ḿnh bị nhiễm khuẩn hơn là tin vào các loại thuốc dạo được quảng cáo sai lạc ngoài thị trường.
Thật không may, nhiều bệnh nhân đă tin vào quảng cáo gian dối thường xuyên gửi đến họ thông qua các phương tiện truyền thông mà quên đi việc theo đúng sự chăm sóc của các bác sĩ và nhân viên y tế thật sự. Bệnh nhân tin vào một số sản phẩm được các lang băm quảng cáo là thuốc nhưng thực sự không có dữ liệu khoa học nào hỗ trợ, cũng không có bằng chứng nào chứng tỏ ‘thuốc “ đó được sự chấp thuận của cơ quan Quản lư Thực phẩm và Dược phẩm (FDA).
Theo định nghĩa của FDA, thuốc là những sản phẩm được quảng cáo có thể cung cấp hoạt động dược lư hoặc các ảnh hưởng trực tiếp khác trong việc chẩn đoán, chữa bệnh, làm giảm nhẹ, điều trị hoặc pḥng ngừa bệnh tật. Luật pháp Hoa Kỳ qui định dược thảo (Herb) chỉ được coi như là chất dinh dưỡng bổ sung (dietary supplement) chứ không phải là thuốc (drug).
Trong cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ, tệ nạn quảng cáo phi luật pháp rất phổ biến, trong đó nhiều sản phẩm được đóng gói và dán nhăn là chất dinh dưỡng bổ sung nhưng lại được quảng cáo như thuốc bất kể đây là việc bị pháp luật ngăn cấm. Việc quảng cáo được lan truyền rộng răi bởi nhiều phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt đài phát thanh, đài truyền h́nh và báo chí Việt ngữ. V́ chỉ dùng tiếng Việt nên tránh được sự chú ư của các cơ quan thực thi pháp luật chỉ dùng tiếng Anh như ngôn ngữ chính thức.
Lư do mà các loại dinh dưỡng bổ sung, được quảng cáo như thuốc và có mức độ nguy hiểm hơn là các loại dinh dưỡng bổ sung b́nh thường, là bởi v́ chúng hoàn toàn có tính cách thương mại nhưng thực tế lại tạo những tác dụng có tính kích thích trên người tiêu thụ. Một số tác dụng kích thích như gây buồn ngủ, kích thích sự ngon miệng, thèm ăn, giảm đau, người dùng cảm thấy phấn chấn tràn đầy năng lực v.v… Mặc dầu hoàn toàn không có bằng chứng khoa học nhằm chứng minh là các thành phần hoạt chất liệt kê trên bao b́ của sản phẩm có thể tạo được các tác dụng đó. Ví dụ rơ ràng nhất là nhau thai cừu, hươu, nai, hoặc các loài vật khác được liệt kê như là thành phần hoạt chất trong các viên con nhộng được quảng cáo là thuốc có thể điều trị bệnh tiểu đường, cao huyết áp, hoặc suy thận v.v…
Giải thích hữu lư một cách khoa học cho hiệu ứng kích thích bất ngờ tạo ra bởi các “thành phần hoạt chất” vô dụng được liệt kê chính là sự có mặt của các kích thích tố được bỏ vào nhưng không thấy ghi trên nhăn. Hậu chứng của các kích thích tố này đối với người tiêu thụ là sự tích tụ theo thời gian nên khó nhận điện được ngay. Chính v́ thế các sản phẩm quảng cáo sai trái này được coi là nguy hiểm cho người tiêu dùng, đặc biệt những người đang có vấn đề về sức khoẻ như suy tim, cao huyết áp, tiểu đường v.v…
Thị trường cho những sản phẩm bất hợp pháp này không phải là nhỏ: Có hơn 1.7 triệu người Việt Nam tại Hoa Kỳ, trong đó trên 1.6 triệu sử dụng tiếng Việt là ngôn ngữ chính trong nhà, đang là mục tiêu của những quảng cáo thương mại sai lạc. Tại California, Santa Clara County có 10% dân số là người Mỹ gốc Việt hay khoảng 140.000, cao thứ hai sau Orange County và Los Angeles với hơn 300.000. Số lượng lớn người Việt hiện đang làm nhiều dịch vụ khác nhau cho xă hội. Như vậy những lời truyền miệng vô t́nh đưa các quảng cáo lừa dối vào ḍng chính. Người tiêu dùng Mỹ gốc Việt không biết họ đang bị lừa dối bởi những quảng cáo phi pháp. Thông qua vô số các cửa hàng bán lẻ và các cửa hàng dịch vụ thuộc sở hữu của đồng hương Mỹ gốc Việt, cũng như các nhà phân phối trên mạng như Amazon và EBay, các sản phẩm này cũng được đưa vào các thị trường ḍng chính.
Các sản phẩm này có an toàn không? Qui định tối thiểu của một sản phẩm dinh dưỡng bổ sung là bao b́ của nó phải ghi rơ nguồn gốc sản xuất cũng như nhà phân phối, và các thành phần thực sự chứa trong sản phẩm. Nhưng chuyện ǵ xảy ra nếu như cả tên của nhà sản xuất lẫn nhà phân phối đều không có thật v́ không thể nào t́m được trong các dữ liệu của chính phủ? Nói một cách khác, công ty sản xuất và công ty phân phối đề trên bao b́ đều là công ty ma.
Chuyện ǵ xảy ra khi sản phẩm tạo ra các tác dụng kích thích hoặc hiệu ứng y dược trên người tiêu dùng, trong khi các hiệu ứng đó không bao giờ được mô tả trong các tài liệu khoa học y tế cho các thành phần chứa trong sản phẩm được ghi trên bao b́. Đáng tiếc là vấn đề đă lan tràn rộng răi trong cộng đồng người Việt ở Mỹ. Những sản phẩm trôi nỗi, không rơ nguồn gốc, được bày bán không chỉ bởi một vài thầy lang địa phương mà c̣n trong cả nước bởi các tổ chức qui mô.
Chất kích thích phi pháp bị bỏ vào sản phẩm dinh dưỡng bổ sung ở Mỹ đă được đề cập trước đây và được công bố trên một trong các tạp chí y sinh hóa hàng đầu như New England Journal of Medicine. Tác dụng lâu dài của các chất kích thích phi pháp có thể gây tác hại đến sức khỏe, cũng như làm những căn bệnh hiện có trở nên tệ hơn và có thể dẫn đến tử vong.
Quảng cáo láo và sự pha trộn bậy trong các sản phẩm dinh dưỡng bổ sung đă xảy ra nhiều năm nay trong cộng đồng Việt tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên ngày nay nó đă trở nên nghiêm trọng hơn, phổ biến và có quy mô lớn hơn, chứng tỏ sự kinh doanh bất hợp pháp này được tổ chức một cách qui mô và ăn sâu vào trong cộng đồng Việt ở California, đặc biệt tại Santa Clara County và Orange County, và được bảo vệ bởi một số luật sư và đôi khi cả các thành viên chính của các hội đoàn trong cộng đồng. Tuy nhiên không có dấu hiệu ǵ là luật pháp đă được thi hành để ngăn cản việc này do đó có thể gây ra những rủi ro không thể chấp nhận được cho người dân.
Trong khi pháp luật chưa thực thi một cách quyết liệt tế để bảo vệ sức khỏe cộng đồng, từ vấn đề này, nhiều học giả có trách nhiệm trong cộng đồng Việt đă cố gắng đưa vấn đề ra để nhắc nhở, giáo dục công chúng, hy vọng giúp cộng đồng thấu hiểu và tránh được những sự lường gạt đáng tiếc mà đôi khi một cách trực tiếp hay gián tiếp có thể tổn hại đến sức khoẻ. Đáng tiếc nổ lực của họ nhanh chóng bị dập tắt bởi sự quấy rối, đe dọa, khủng bố của gian thương làm ăn phi pháp.
Hậu quả là thị trường “thuốc” bất hợp pháp này vẫn tự do và ngang nhiên thâu lượm lợi nhuận rất lớn từ những người cả tin trong cộng đồng người Việt ở Mỹ. Điển h́nh, một hộp thuốc viên con nhộng thực chất là vô dụng nhưng được quảng cáo là “tế bào gốc” từ nhau thai cừu, được tuyên bố giả dối là có thể trị một số bệnh kinh niên hiểm nghèo, được bán với giá không hề rẻ là 120 dollars. Một chai thuốc con nhộng có chứa tinh bột rong biển Fucoidan được quảng cáo láo là ngăn ngừa và trị ung thư đang được bán với giá 400 dollars hoặc hơn ngoài thị trường. Một b́nh thuốc con nhộng có chứa axit humeric được quảng cáo láo là ngăn chặn virus cúm xuất huyết, HIV và Ebola được bán với giá 50 dollars.
Để t́m hiểu tại sao tệ nạn này có thể lan tràn rộng răi trong cộng đồng người Việt ở Mỹ, bài viết này mong tŕnh bày tổng quan các điều luật trong luật pháp nước Mỹ về thuốc men và sản phẩm dinh dưỡng bổ sung, quảng cáo, và các ví dụ thực tế của các kinh doanh gian lận bằng cách sử dụng quảng cáo láo trong cộng đồng người Việt. Chúng tôi tŕnh bày vấn đề này trong một bối cảnh lớn hơn hiện nay về tệ nạn pha trộn bừa băi trong các sản phẩm dược thảo tại Hoa Kỳ.
I. VẤN ĐỀ PHA TRỘN BỪA BĂI TRONG DƯỢC THẢO DINH DƯỠNG BỔ SUNG TẠI HOA KỲ
Sự pha chế bậy bạ trong các sản phẩm thảo dược dinh dưỡng bổ sung hiện nay là một vấn đề lớn ở Mỹ. Gần đây nhất, ngày 2 tháng 2 năm 2015, văn pḥng Tổng Chưởng Lư tiểu bang New York Eric Schneiderman cáo buộc bốn công ty bán lẻ lớn đă bán thảo dược bổ sung lừa đảo và có khả năng gây nguy hiểm, yêu cầu họ loại bỏ các sản phẩm trên khỏi quầy hàng của họ. Các nhà chức trách cho biết đă tiến hành thử nghiệm những thương hiệu bán chạy nhất của thảo dược bổ sung tại bốn công ty – GNC, Target, Walgreens và Wal-Mart – và thấy rằng 80% tám mươi phần trăm các sản phẩm không thật sự chứa các loại dược thảo viết trên nhăn. Kết quả thử nghiệm cho thấy chất liệu chính chỉ là những chất độn rẻ tiền như bột gạo, măng tây và cỏ mà trong một số trường hợp các chất có thể gây nguy hiểm cho những người bị dị ứng.
Cuộc điều tra cũng cho thấy một vấn đề đương đại thực sự về chất lượng và mức độ an toàn của thực phẩm bổ sung, được miễn các quy định nghiêm ngặt áp dụng để kiểm soát thuốc tây. Ngày nay, khoảng một nửa số người Mỹ sử dụng thực phẩm bổ sung trong nhiều h́nh thức khác nhau. Năm 2014, doanh số bán hàng của tất cả các loại sản phẩm dinh dưỡng bổ sung tại Hoa Kỳ ước tính tổng cộng 36.7 tỉ dollars. Số tiền này bao gồm 14.3 tỉ dollars cho tất cả các chất dinh dưỡng bổ sung là vitamin và khoáng chất, 6 tỉ dollars cho thảo dược, và 16.4 tỉ cho tất cả các loại sản phẩm dinh dưỡng bổ sung khác bao gồm cả loại như nhau thai động vật, cordycep, và axit humic.
Trong khi có các điều luật có thể áp dụng để bắt các công ty sản xuất hoặc phân phối lớn và hợp pháp phải chịu trách nhiệm đối với các sản phẩm gian lận họ bán, việc thực thi luật pháp trên các tổ chức bán các sản phẩm tương tự nhưng nguy hiểm (v́ được quảng cáo là thuốc) trong cộng đồng Việt lại phức tạp hơn. Lư do là các nhà sản xuất trong nội địa Hoa Kỳ cho các sản phẩm này được ẩn danh. C̣n tên của nhà sản xuất được ghi trên nhăn của sản phẩm lại là các công ty nước ngoài không có thật. Các “công ty” phân phối chẳng qua chỉ là loại công ty chỉ có trên giấy tờ và cơ sở chỉ là một văn pḥng thuê có thể biến mất bất cứ lúc nào, hoặc không có tài sản do đó trên bề mặt tránh được sự quan tâm của các vụ kiện hàng loạt (Class Action Lawsuit). Dĩ nhiên sự thật này nằm ngoài sức tưởng tượng của đồng hương Việt tiêu thụ sản phẩm bởi v́ họ đă tin tưởng các quảng cáo tuy thiếu thành thật nhưng rầm rộ và qui mô như vậy.
Trái lại với các “công ty” phân phối, các công ty sản xuất đứng phía sau và có trách nhiệm trên các loại sản phẩm được bán vào cộng đồng người Việt, lại có tầm mức lớn mà ta có thể nhận diện được bởi số lượng của sản phẩm mà họ đă sản xuất và bán qua rất nhiều nhà phân phối lẻ tẻ, có thể ước tính bằng tầm cỡ của đội ngũ tiếp thị chung quanh chủ nhân của công ty phân phối, số lượng các cửa hàng phân phối bán lẻ, và số lượng của các quảng cáo đặc biệt là trên truyền h́nh, là lối quảng cáo đắt tiền hơn và có ảnh hưởng nhất đến người tiêu dùng.
Nội dung các trang web của các công ty phân phối thường không thực sự đại diện cho tầm cỡ của công ty; và quảng cáo bằng tiếng Anh trên các trang web thường không thật sự phô trương như sự quảng cáo sai lạc bằng Việt ngữ trực tiếp đến mắt đến tai người tiêu dùng nói tiếng Việt qua radio hoặc TV. Khi quy mô của quảng cáo láo về thuốc men trở nên quá lớn và có tác động quá tiêu cực trên cộng đồng người Việt, một số các học giả trong cộng đồng người Việt đă cảm thấy có trách nhiệm phải lên tiếng để cảnh báo đồng hương về sự gian lận. Những cảnh báo đó thường bị dập tắt ngay trong giai đoạn đầu v́ bị bắt nạt, đe dọa, phỉ báng, chế diểu trên mạng xă hội, thậm chí bị đe dọa pháp lư bởi những kẻ lừa đảo.
Trong khi các tổ chức kinh doanh lớn và các công ty sản xuất các sản phẩm thuốc phi pháp đứng sau được giấu kín, họ có thể lạm dụng luật pháp để bức chế các học giả đă can đảm lên tiếng nói lên sự thật, bằng các vụ kiện phủ đầu hay là vụ kiện chiến lược chống lại sự tham gia của quần chúng (Strategic Lawsuit Anti Public Participation, SLAPP). Người đứng kiện thường là chủ nhân của các công ty phân phối lẻ tẻ và đứng đơn với tư cách cá nhân, và thông thường nhất là họ vu khống bị đơn tội phỉ báng và mạ li (defamation) và cạnh tranh thương măi bất chính nếu như bị đơn cũng có kinh doanh thương măi.
V́ gánh nặng tài chính, hầu hết các học giả im lặng sau khi bị đe dọa hoặc bị kiện bởi các luật sư của bọn gian thương. Trong các trường hợp cương quyết chống lại các vụ kiện phi lư này dựa trên luật pháp, bọn gian thương có thể dùng tay sai thâm nhập để phá rối nổ lực kiện ngược. V́ vậy, miễn là pháp luật không thực thi được, các nhà sản xuất và phân phối có thể mặc sức tung hoành buôn bán sản phẩm dinh dưỡng bổ sung được quảng cáo một cách phi pháp là thuốc cho chính đồng hương trong cộng đồng Việt.
II. PHÁP LUẬT CỦA HOA KỲ VỀ SẢN PHẨM DINH DƯỠNG BỔ SUNG VÀ THUỐC, VÀ LUẬT PHÁP VỀ QUẢNG CÁO.
Có rất nhiều luật lệ và quy định về thuốc (drug) và sản phẩm dinh dưỡng bổ sung (dietary supplement) trong luật pháp Hoa Kỳ. Sau đây chỉ là một vài điều khoảng có thể chỉ điểm rơ ràng các vi phạm luật pháp trong các quảng cáo bất hợp pháp và các kinh doanh gian lận bán sản phẩm dinh dưỡng bổ sung như thuốc trong cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ. Vấn đề tập trung vào quảng cáo và ghi nhăn của sản phẩm.
Theo luật Mỹ, “ghi nhăn” của một sản phẩm bao gồm nhăn hiệu dán trên bao b́ cũng như tất cả các tài liệu quảng cáo đi kèm mà không nhất thiết phải dính liền với các sản phẩm, được sử dụng bởi một nhà sản xuất để quảng cáo và tiếp thị vào thị trường một sản phẩm. Trong sử luật “Kordel kiện Chính phủ Hoa Kỳ (335 US 345 (1948)”, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đă phán luật định “ghi nhăn” được định nghĩa một cách rộng răi, cho phép FDA có quyền ban hành một quy định xác định từ “ghi nhăn” bao gồm các tài liệu quảng cáo, sách báo, h́nh ảnh, phim ảnh, bản ghi âm, triển lăm, văn bản, ấn phẩm, âm thanh, hoặc trực quan mô tả của một loại thuốc, v.v… được phổ biến bởi chính nhà sản xuất hoặc đại diện cho nhà sản xuất, đóng gói, hoặc nhà phân phối. Do đó các thông tin mô tả một sản phẩm trong một show quảng cáo trên truyền h́nh thương mại hoặc đài phát thanh và các phương tiện khác, theo luật Mỹ, được coi như là “ghi nhăn” của sản phẩm đó.
Theo luật liên bang, CFR – Title 21, sản phẩm thuốc (drug) là một dạng sản phẩm đă được hoàn thành bào chế, ví dụ thuốc viên nén, thuốc con nhộng, thuốc nước v.v…, có chứa một thành phần hoạt chất thuốc nói chung. Hoạt chất có nghĩa là bất kỳ thành phần được chủ ư trong “ghi nhăn” là dùng để cung cấp hoạt động dược lư, hoặc hoạt động khác có hiệu quả trực tiếp trong việc chẩn đoán, chữa bệnh, làm thuyên giảm bệnh, điều trị hoặc pḥng ngừa bệnh. Không giống như sản phẩm dinh dưỡng bổ sung, thuốc phải được sự chấp thuận của FDA trước khi tiếp thị.
Ngược lại, sản phẩm dinh dưỡng bổ sung (dietary supplement) được xác định như là thực phẩm bổ sung có chứa một “thành phần dinh dưỡng” nhằm tăng thêm giá trị dinh dưỡng hơn nữa để bổ sung chế độ ăn uống. Một “thành phần dinh dưỡng” có thể là một, hoặc bất kỳ sự kết hợp, các vitamin, khoáng chất, một loại dược thảo hoặc thực vật khác, một loại axit amin, một chất dinh dưỡng dùng cho người để bổ sung chế độ ăn uống bằng cách tăng thêm tổng số chất dinh dưỡng, một chất cô đặc của chất dinh dưỡng, chất chuyển hóa, chất thành phần, hoặc chất chiết xuất.
Sản phẩm dinh dưỡng bổ sung có thể được t́m thấy trong nhiều h́nh thức như: viên nén, viên con nhộng, gel mềm, chất lỏng hoặc bột. Một số sản phẩm bổ sung có thể giúp chế độ ăn uống đầy đủ các chất dinh dưỡng thiết yếu, hoặc có thể giúp giảm nguy cơ mắc bệnh. Trường hợp giảm bệnh này chỉ giới hạn trong các bệnh gây ra bởi thiếu dinh dưỡng, thí dụ như bệnh scurvy gây ra bởi thiếu vitamin C.
Luật liên bang của Hoa Kỳ, 21 U.S.C. 343 (r) (6) buộc các nhà sản xuất dinh dưỡng bổ sung đă ghi nhăn rằng sản phẩm bồi bổ cho sự thiếu hụt chất dinh dưỡng, bồi bổ cấu trúc hoặc chức năng cho các cơ phận trong cơ thể, bồi bổ sức khỏe nói chung phải có sự chứng minh và ghi nhăn phải trung thực mà không được gây hiểu lầm. Các công ty có thể ghi nhăn với những tuyên bố đó nếu họ có các bằng chứng nghiên cứu khoa học hỗ trợ và phải thêm vào trên nhăn một cáo thị rằng “Tuyên bố chưa được FDA đánh giá”.
Bằng chứng nghiên cứu khoa học có nghĩa là phải có các công bố khoa học đă được công nhận đă được xuất bản trên các tạp chí khoa học được công nhận bới các hội đồng khoa học. Vào tháng Giêng năm 2014 tại toà án liên bang Bắc California, Cơ quan bảo vệ người tiêu thụ của liên bang, Ủy ban Thương Mại Liên Bang (FTC), đă thắng bốn vụ kiện các nhà tiếp thị các sản phẩm giảm cân lừa đảo: Sensa Products, L’Occitane Inc., HCG Diet Direct, and LeanSpa. Tất cả bốn công ty bị cấm đưa ra những tuyên bố thuốc giảm cân và thực phẩm bổ sung hay thực phẩm làm giảm cân trừ khi họ có hai thí nghiệm lâm sàng trên con người mà được kiểm soát đầy đủ. FTC cũng đă gửi một lá thư cho các nhà xuất bản và các đài truyền h́nh để giúp họ sử dụng các hướng dẫn, gạn lọc ra các quảng cáo thuốc lừa đảo, đồng thời khuyến khích họ đào tạo nhân viên các tài liệu hướng dẫn cập nhật về cách phát hiện các quảng cáo láo phi pháp, v́ theo luật pháp th́ các cơ sở quảng cáo như báo chí, đài truyền thanh hoặc truyền h́nh cũng phải chịu trách nhiệm liên đới với các quảng cáo phi pháp.
Sự kiện này nhắc nhở các nhà tiếp thị các sản phẩm dinh dưỡng bổ sung các điểm sau:
1) – Họ phải có sự chứng minh khoa học đầy đủ trong trữ liệu của họ trước khi đưa ra tuyên bố về tác dụng của sản phẩm.
2) – “Sự chứng minh khoa học đầy đủ” về sức khỏe có thể có nghĩa là hai thí nghiệm lâm sàng, được kiểm soát với sản phẩm và giả dược, nghiên cứu trên người không biết là đang được dùng sản phẩm hay giả dược nhằm so sánh, để đem tới kết quả đáng kể về mặt thống kê. Theo định nghĩa, thí nghiệm lâm sàng là thí nghiệm được chấp thuận bởi hội đồng giám định, Institutional Committee của các học viện và dẫn tới công bố y học trên các tạp chí y sinh hóa được công nhận.
3) – Việc xem xét và phê duyệt các tài liệu quảng cáo và ghi nhăn phải là một quá tŕnh tiêu chuẩn hóa chính thức.
Và 4) – Các nhân viên ở tất cả các cấp, các đại lư tham gia vào tiếp thị của công ty cần phải biết về luật và được chỉ đạo về tầm quan trọng của những nguyên tắc này.
Các nhà sản xuất và tiếp thị các chất dinh dưỡng bổ sung nhắm vào một cộng đồng đặc biệt riêng biệt với các sản phẩm của họ phải thận trọng trong việc bảo đảm rằng các tuyên bố về công dụng của sản phẩm phải được hỗ trợ với các nghiên cứu khoa học đáng tin cậy, nhất là trong việc kích thị sản phẩm của ḿnh thông qua các phương tiện truyền thông có uy tín, đặc biệt khi chính các phương tiện truyền thông là cơ sở tiếp thị các sản phẩm dinh dưỡng bổ sung.
Cơ quan FTC và toà án tiếp tục báo hiệu các nhà tiếp thị phải theo các tiêu chuẩn này khi quảng cáo các sản phẩm về sức khỏe, đ̣i hỏi phải có thí nghiệm lâm sàng nghiêm ngặt, với kết quả trung thực để truyền thông tin tức một cách đúng đắn đến người tiêu dùng.
Tiêu chuẩn của bằng chứng khoa học có thẩm quyền và đáng tin cậy đă được xác định bởi cơ quan FTC qua các sử luật là “kiểm tra, phân tích, nghiên cứu, hoặc các bằng chứng khác dựa trên chuyên môn của các chuyên gia trong các lĩnh vực có liên quan, đă được tiến hành và đánh giá một cách khách quan bởi các chuyên gia có đủ thẩm quyền, và sử dụng các phương pháp được chấp nhận chung trong lĩnh vực chuyên môn để mang lại kết quả chính xác và đáng tin cậy (“xem luật sử, e.g. Vital Basics, Inc., C-4107 (Consent April 26, 2004); Re Schering Corp., 118 F.T.C. 1030, 1123 (1994)). Các bằng chứng khoa học nói chung được chấp nhận là những công bố đă được xem xét và đánh giá bởi các ban giám khảo khoa học và chấp thuận cho đăng tải trên các tạp chí khoa học y sinh hóa chuyên nghiệp. Lưu trữ của các tài liệu này có thể được t́m kiếm từ Thư viện Y Khoa Quốc Gia của Hoa Kỳ (PubMed).
Sản phẩm dinh dưỡng bổ sung không được quảng cáo như là thuốc cho các căn bệnh. Theo điều luật 21 U.S.C. 343(r)(6), một “căn bệnh” (disease) được định nghĩa là hư hại cho một cơ quan, một phần, cấu trúc, hoặc hệ thống của cơ thể và do đó làm cho cơ thể không hoạt động được tốt (ví dụ như bệnh tim mạch, tiểu đường, suy thận, bệnh gút, viêm khớp, bệnh vẩy nến, v.v…), hoặc một t́nh trạng sức khỏe dẫn đến các hoạt động bất thường đó (ví dụ, tăng hoặc gảm huyết áp); ngoại trừ các bệnh do thiếu dinh dưỡng cần thiết, ví dụ, bệnh scurvy (thiếu vitamin C) hoặc bịnh pellagra (do thiếu acid nicotinic hoặc chất acid amin tryptophan trong chế độ ăn uống được cơ thể chuyển hóa thành acid nicotinic) th́ không được bao gồm trong định nghĩa này.
Theo điều luật 21 U.S.C. 343(r)(2), FDA sẽ nhận định một sản phẩm tuyên bố trong “ghi nhăn” để chẩn đoán, giảm nhẹ, điều trị, chữa bệnh, hoặc ngăn chặn bệnh (khác hơn là một bệnh thiếu dinh dưỡng) dưới điều luật 21 USC 343(r)(6) là thuốc (drug) nếu nó hội đủ một hoặc nhiều tiêu chí được liệt kê dưới đây:
Một tuyên bố khẳng định để chẩn đoán, giảm nhẹ, điều trị, chữa bệnh, hoặc ngăn chặn bệnh nếu nó tuyên bố một cách rơ ràng hoặc ngầm tuyên bố là sản phẩm:
(i) Có ảnh hưởng đến một căn bệnh cụ thể (thí dụ, ung thư gan) hoặc một loại bệnh (thí dụ, ung thư);
(ii) sử dụng thuật ngữ khoa học y sinh hóa hay ngôn ngữ b́nh dân để tuyên bố sản phẩm có hiệu quả trên các dấu hiệu đặc trưng hoặc các triệu chứng đặc trưng của một căn bệnh cụ thể hoặc một loại bệnh (thí dụ, đau nhức v́ bệnh thấp khớp, lượng đường trong máu bị cao do bệnh tiểu đường; tăng các loại chất điển h́nh do thận suy hoặc suy gan v.v…);
(iii) Có hiệu quả đến một t́nh trạng bất thường liên quan đến một trạng thái tự nhiên của cơ thể, nếu các t́nh trạng bất thường không phải thông thường hoặc có thể gây ra thiệt hại hư hại đáng kể hoặc vĩnh viễn cho cơ thể (thí dụ bệnh cao huyết áp trong người lớn tuổi);
(iv) Có hiệu quả trên một căn bệnh hoặc các căn bệnh thông qua một hoặc nhiều trong các phương cách sau: (a) Sử dụng các thuật ngữ “bệnh” hay “bị bệnh”, ngoại trừ trong các công bố chung chung về pḥng chống bệnh mà không đề cập rơ ràng hoặc ngầm về một căn bệnh hoặc loại bệnh cụ thể, hoặc do một sản phẩm hoặc thành phần cụ thể tạo hiệu quả đó (thí dụ “humeric acid pḥng chống nhiểm vi khuẩn Ebola và bệng cúm”, thay v́ “thuốc bổ ngừa bệnh”); hoặc (b) Sử dụng h́nh ảnh, minh họa, biểu tượng, hoặc các phương tiện khác gợi ư người tiêu dùng sản phẩm có hiệu quả.
(v) Hổ trợ cho một phương pháp trị liệu hoặc thuốc chủ ư được dùng để chẩn đoán, giảm nhẹ, điều trị, chữa bệnh, hoặc ngăn chặn một căn bệnh hoặc loại bệnh (thí dụ; làm tăng hiệu quả của hóa trị và xạ trị ung thư).
(vi) Có một vai tṛ trong phản ứng của cơ thể chống lại một bệnh hoặc một nguyên căn của bệnh (thí dụ, tăng hệ miễn nhiểm để chống sự thâm nhập và lan tràn của vi khuẩn, làm các tế bào ung thư chết dần v.v…),
(vii) Trị, ngăn ngừa, hoặc giảm nhẹ các tác dụng phụ liên quan đến một điều trị cho một bệnh, nếu các tác dụng phụ tạo thành bệnh (thí dụ; làm giảm phản ứng phụ của hóa trị và xạ trị ung thư);
Sản phẩm được bán như là một sản phẩm dinh dưỡng bổ sung (dietary supplement) và được quảng bá trên nhăn hoặc dán nhăn như một sản phẩm để điều trị, pḥng ngừa hoặc chữa bệnh cho một căn bệnh cụ thể hoặc t́nh trạng bệnh sẽ được coi là một loại thuốc không được chấp thuận, và do đó bất hợp pháp. Để duy tŕ tính pháp lư của sản phẩm như là một sản phẩm dinh dưỡng bổ sung, các nhăn và ghi nhăn phải phù hợp với các quy định của Đạo luật liên bang Dinh Dưỡng Bổ Sung và Giáo dục Y tế (DSHEA) năm 1994.
Công bố về sản phẩm trên ghi nhăn phải tuân thủ theo luật 21 U.S.C. 343 (r) (6) và bị coi như phi luật pháp nếu lừa dối với tin tức không có chứng minh. Các tin tức lừa dối và vi phạm luật 21 USC 343 (r) (6) không thể được bào chữa bởi một câu cáo thị nói rằng công bố thiếu hỗ trợ (xem luật sử Central Hudson Gas & Electric Corp. v. Public Service Commission of New York, 447 U.S. 557 (1980)). Tương tự như vậy, bản chất lừa dối của sản phẩm dinh dưỡng bổ sung với tin tức không có chứng minh và quảng cáo như một loại thuốc không thể được bào chữa bởi một câu cáo thị nói rằng sản phẩm chỉ dành cho mục đích thực phẩm chức năng.
Việc sử dụng các lời giới thiệu để thừa nhận (endorsements) trong quảng cáo và lời chứng thực (testimony) trong quảng cáo được quy định theo điều luật 16 CFR CFR § 255.0. Theo 16 CFR § 255.0 (b) và (e), lời giới thiệu để thừa nhận có nghĩa là bất kỳ thông điệp quảng cáo (kể cả báo cáo bằng lời nói, trưng bày thuyết minh, hoặc miêu tả của tên, chữ kư, chân dung hoặc các đặc điểm khác của cá nhân, hoặc tên hoặc dấu hiệu của một tổ chức) mà làm người tiêu dùng có nhiều khả năng tin rằng đă phản ánh những ư kiến, niềm tin, các khám phá hoặc phát hiện, hoặc kinh nghiệm của nhân chứng khác hơn là các nhà tài trợ quảng cáo, ngay cả khi các quan điểm đó là giống hệt với quan điểm của các nhà tài trợ quảng cáo. Người giới thiệu để thừa nhận sản phẩm quảng cáo thể là một chuyên gia, một cá nhân, nhóm, hoặc tổ chức.
Một chuyên gia là một cá nhân, nhóm, hoặc tổ chức, với kiến thức chuyên môn là kết quả của kinh nghiệm, học tập, hay được đào tạo với kiến thức về một vấn đề cụ thể vượt trội so với những người b́nh thường nói chung có được.
Theo điều luật 16 CFR § 255.1(a), các lời giới thiệu để thừa nhận sản phẩm phải phản ánh trung thực những ư kiến, niềm tin, các khám phá hoặc phát hiện, hoặc kinh nghiệm của người chứng thực. Hơn nữa, một sự chứng thực không được chuyển tải bất kỳ thông tin có tính lừa dối, nhất là được thực hiện trực tiếp bởi các nhà quảng cáo. Các nhà quảng cáo phải chịu trách nhiệm đối với các quảng cáo sai lạc hoặc vô căn cứ được thực hiện thông qua hợp đồng quảng cáo, hoặc do không tiết lộ các liên hệ giữa họ và người chứng thực cho họ. Người chứng thực cũng phải chịu trách nhiệm đối với các quảng cáo được thực hiện trong quá tŕnh giới thiệu để thừa nhận sản phẩm được quảng cáo của họ.
Đối với quảng cáo bởi chứng nhân là người tiêu dùng, điều luật 16 CFR §255.2 (a) được áp dụng. Một quảng cáo sử dụng lời xác nhận do một hoặc nhiều người tiêu dùng về hiệu suất của một sản phẩm hoặc dịch vụ như là nhân chứng đă sử dụng sản phẩm th́ sẽ được hiểu như là lời quảng cáo cho các sản phẩm hoặc dịch vụ là có hiệu quả cho mục đích mô tả trong quảng cáo. V́ vậy, các nhà quảng cáo phải có và phải dựa vào sự chứng minh đầy đủ, bao gồm cả bằng chứng khoa học thích hợp, có thẩm quyền và đáng tin cậy, để hỗ trợ các tuyên bố của nhân chứng trong quảng cáo, cùng một cách thức mà các nhà quảng cáo phải làm trực tiếp mà không sử dụng người chứng nhân. C̣n bản thân chứng nhân người tiêu dùng xác nhận hiệu quả của sản phẩm trên họ th́ không phải là bằng chứng khoa học có thẩm quyền và đáng tin cậy.
III. PHÁP LUẬT HOA KỲ ĐỐI VỚI NHÀ SẢN XUẤT VÀ PHÂN PHỐI SẢN PHẨM DINH DƯỠNG BỔ SUNG.
Sản phẩm dinh dưỡng bổ sung được quy định bởi các điều luật của FDA. Những quy định này đảm bảo rằng sản phẩm dinh dưỡng bổ sung đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng nhất định và do đó FDA có thể can thiệp để loại bỏ các sản phẩm nguy hiểm từ thị trường.
Các quy định này tuy nhiên không đảm bảo rằng sản phẩm dinh dưỡng bổ sung an toàn cho bất cứ ai sử dụng. Bởi v́ nhiều chất dinh dưỡng bổ sung chứa các thành phần hoạt chất có hiệu ứng mạnh mẽ trên cơ thể. Các sản phẩm này có thể gây ra những rủi ro bất ngờ. Ví dụ, lấy một sự kết hợp của các chất dinh dưỡng bổ sung cùng với các thuốc tây có thể dẫn đến các hệ quả có hại thậm chí đe dọa tính mạng.
FDA bắt buộc các thông tin như tên của các sản phẩm dinh dưỡng bổ sung, tên và địa chỉ của nhà sản xuất hoặc nhà phân phối, và một danh sách đầy đủ của các thành phần được liệt kê, phải được đưa vào nhăn của sản phẩm.
Mục 413 (d) của Đạo luật FD & C, 21 U.S.C. 350B (d) bắt buộc các nhà sản xuất và nhà phân phối sản phẩm dinh dưỡng bổ sung có chứa “thành phần dinh dưỡng bổ sung mới” phải thông báo cho FDA về những thành phần này. Nói chung, các thông báo phải bao gồm các thông tin căn bản làm cơ sở để các nhà sản xuất hoặc nhà phân phối đă kết luận rằng chất dinh dưỡng bổ sung mới sẽ an toàn khi được dùng như hướng dẫn trên ghi nhăn.
Một “thành phần dinh dưỡng mới” theo định nghĩa là “thành phần dinh dưỡng” không được bán ở Mỹ trong sản phẩm dinh dưỡng bổ sung trước ngày 15 tháng 10, năm 1994. Thành phần dinh dưỡng bổ sung mới hoặc các chất bất hợp pháp có thể được nhận diện bằng cách so sánh với các thành phần dinh dưỡng bổ sung đă có trong Cơ sở dữ liệu thành phần dinh dưỡng bổ sung đă có sẵn trên trang web của Viện Y Tế Quốc Gia Hoa Kỳ. Ví dụ, chất axit humeric, tế bào gốc, và chiết xuất nhau thai không có trong danh sách. Riêng nhau thai cừu th́ không được phép sử dụng trong thực phẩm bổ sung v́ nó có chứa hormone prostaglandin.
Luật pháp cho phép người tiêu dùng có quyền được biết danh tính thực sự và nơi chốn của các nhà sản xuất và nhà phân phối của sản phẩm mà họ tiêu thụ. Sau sự kiện khủng bố 911, ngày 11 tháng 9 năm 2001, nhằm tăng cường sự cần thiết phải tăng cường an ninh của các nguồn cung cấp thực phẩm Hoa Kỳ, năm 2002 quốc hội đă chấp thuận đạo luật An Toàn Sức Khoẻ Công Chúng và Chuẩn Bị Sẵn Sàng và Ứng Phó Chống Khủng Bố Bằng Sinh Hóa “the Bioterrorism Act“). Đạo luật được áp dụng cho tất cả các cơ sở thực phẩm và sản phẩm dinh dưỡng bổ sung theo quy định của FDA, bắt buộc tất cả các chủ sở hữu, điều hành, hoặc đại lư phụ trách một cơ sở trong nước hoặc nước ngoài phải đăng kư với FDA.
Theo điều luật 21 CFR§101.93(a)(1), không quá 30 ngày sau khi tiếp thị đầu tiên của một sản phẩm dinh dưỡng bổ sung, các nhà sản xuất, đóng gói, hoặc nhà phân phối của sản phẩm phải thông báo cho Văn Pḥng Sản Phẩm Dinh Dưỡng, Ghi Nhăn Mác và Sản Phẩm Dinh Dưỡng Bổ Sung (HFS-810), Trung Tâm An Toàn Thực Phẩm và Ứng Dụng Dinh Dưỡng, thực phẩm và FDA. Thông báo phải có tên và địa chỉ của nhà sản xuất, đóng gói, hoặc nhà phân phối của các sản phẩm dinh dưỡng bổ sung.
Rơ ràng là tất cả các luật pháp trên chỉ có ư nghĩa nếu các sản phẩm được sản xuất và phân phối bởi công ty hợp pháp, không phải là một công ty ẩn danh. Do đó một khi tên của nhà sản xuất hoặc phân phối được liệt kê trên nhăn của sản phẩm, người tiêu dùng tin rằng danh tính của nhà sản xuất hoặc đại lư được liệt kê là hợp pháp và được biết đến bởi FDA. V́ vậy, một sản phẩm dinh dưỡng bổ sung đă tung ra thị trường hơn cả năm trong cộng đồng Việt mà tên của nhà sản xuất và phân phối đều không có thật và không không được nhận diện bởi FDA hay bất cứ một trữ liệu nào của chính phủ th́ đó là kinh doanh lường gạt và phi pháp; do đó ngay lập tức cảnh báo cho người tiêu dùng của các hoạt động kinhg doanh phi pháp cần phải báo cáo cho chính quyền.
IV. PHÁP LUẬT HOA KỲ VỀ VẤN ĐỀ QUẢNG CÁO LÁO (FALSE ADVERTISEMENT).
Quảng cáo được quy định bởi Ủy Ban Thương Mại Liên bang (FTC), một cơ quan hành chính Hoa Kỳ để ngăn cấm các hành vi hoặc hoạt động thương mại không công bằng và lừa đảo, và giúp cho phép tư nhân kiện tụng thông qua các đạo luật khác nhau, đáng kể nhất là Đạo luật Lanham. Chính quyền tiểu bang cũng có một loạt các đạo luật cho vấn đề cạnh tranh không lành mạnh, quảng cáo sai lệch, quy định ghi nhăn hiệu, và các vấn đề liên quan. Tại California, là đạo luật về vấn đề cạnh tranh không lành mạnh, luật về kinh doanh và Nghề Nghiệp “Unfair Competition Law, Business and Professions Code §§ 17200 et seq”.
Theo điều luật 15 US Code § 52 về phổ biến quảng cáo sai sự thật, phổ biến quảng cáo sai sự thật là bất hợp pháp cho bất kỳ cá nhân, quan hệ đối tác, hoặc công ty để phổ biến hoặc thể cho phổ biến, bất kỳ quảng cáo sai bởi bất kỳ phương tiện ǵ, với mục đích lôi kéo, hoặc là có khả năng gây ra, trực tiếp hoặc gián tiếp, việc mua vào hoặc có tác dụng thương mại thực phẩm, thuốc, hoặc sản phẩm dinh dưỡng bổ sung.
Theo định nghĩa của điều luật 21 U.S. Code § 343 (a) và (e), và 21 CFR 101.5, ghi nhăn sai hoặc gây nhầm lẫn nếu bất kỳ tin tức được ghi nhăn và quảng cáo là sai hoặc nhầm lẫn trong bất kỳ phương cách nào, kể cả tên và địa điểm kinh doanh của nhà sản xuất, đóng gói, hoặc nhà phân phối.
Các quy tắc về ghi nhăn sản phẩm không những được áp dụng đối với ghi nhăn bằng tiếng Anh mà c̣n các ngôn ngữ khác khi các nhà tiếp thị nhắm vào người tiêu dùng nói tiếng nước ngoài, thí dụ tiếng Việt. Điều luật 16 CFR 14.9 bắt buộc các thông tin phải tiết lộ một cách rơ ràng và dễ thấy, nhất là trong các tài liệu quảng cáo bằng phim ảnh, báo chí, tạp chí định kỳ, hoặc các ấn phẩm khác mà ngôn ngữ không phải là tiếng Anh.
Trong thực tế, chúng tôi đă thấy nhiều trường hợp luật pháp được thực thi cho một số quảng cáo sai sự thật của sản phẩm dinh dưỡng bổ sung bằng tiếng Anh. Nhưng điều này chưa được thấy nhiều trong trường hợp quảng cáo bằng tiếng nước ngoài như Trung Quốc và Việt Nam trong khi quảng cáo trong các ngôn ngữ này rất phổ biến ở các tiểu bang lớn như California và Texas.
|