Thread: Your's Health
View Single Post
Old 04-12-2019   #160
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,174 Times in 13,137 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
Default SỬ DỤNG ASPIRINE

lly (Lynn Ly)


Rank: Advanced Member



Groups: Y Học Đời Sống, Registered
Joined: 4/5/2011(UTC)
Posts: 5,338



Thanks: 2457 times
Was thanked: 2381 time(s) in 1228 post(s)





THÔNG TIN Y HỌC VỀ SỬ DỤNG ASPIRINE

Lynn Ly tổng hợp thông tin về sử dụng Aspirine
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
(Tiếp Theo ... )



THỜI SỰ Y HỌC SỐ 168 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 5/4/2010 )

6/ NGĂN NGỪA CÁC HUYẾT KHỐI TRÊN STENT : ĐIỀU TRỊ MỚI.

GS Michel Desnos, trưởng khoa tim bệnh viện châu Âu Georges-Pompidou, giải thích tiến bộ quan trọng với sự thương măi hóa mới đây ở Pháp thuốc prasugrel.

Hỏi : Trong những trường hợp nào khiến ta phải thực hiện một angioplastie đồng thời đặt stent và protocol là ǵ ?
GS Michel Desnos : Angioplastie là thủ thuật nhằm đưa một quả bóng nhỏ (baloonet) vào trong các động mạch của tim (các động mạch vành), để mở lỗ bị hẹp. Trong đại đa số các trường hợp, để tránh sự hẹp tái phát, người ta thiết đặt một loại lưới sắt nhỏ, được gọi là stent. Có hai chỉ định chính đối với thủ thuật này. 1. Nhồi máu cơ tim khi động mạch vành bị bít bởi một cục máu đông. 2. Những cơn đau ngực không kiểm soát được bằng điều trị ngoại khoa, bởi v́ cơn đau xảy ra do động mạch bị hẹp. Ở Pháp, người ta thực hiện khoảng 120.000 angioplastie với đặt stent mỗi năm. Và con số này không ngừng gia tăng.

Hỏi : Những kết quả thu được là ǵ ? Những biến chứng là những biến chứng nào ?
GS Michel Desnos : Về nhồi máu cơ tim, từ 10 năm qua, kỹ thuật này đă cho phép một sự thu giảm một nửa tỷ lệ tử vong. Nhưng cũng như mọi sự can thiệp, có những nguy cơ có thể xảy ra trong khi làm thủ thuật hay xuất hiện thứ phát. Người ta quan sát thấy 2 biến chứng muộn. 1. Một sự hẹp trở lại (resténose) : sau 3 đến 6 tháng động mạch lại bị hẹp lại ở cùng vị trí trước đây. 2. Một sự tắc (occlusion) : động mạch bị trít lại hoàn toàn với huyết khối (thrombose) trên stent (2 đến 3%), một tai biến trầm trọng có thể dẫn đến tử vong (trong 40% các trường hợp).

Hỏi : Măi đến nay, làm sao ta có thể ngăn ngừa những biến chứng này ?
GS Michel Desnos : Khi sự hẹp trở lại xuất hiện ở cùng một chỗ, ta có thể thực hiện một sự nong giăn mới. Để ngăn ngừa sự xuất hiện một huyết khối (thrombose), ta kê đơn một điều trị chống kết tụ tiểu cầu (traitement antiagrégant plaquettaire), sẽ ngăn cản sự tạo thành một cục máu đông (caillot) trong máu. Trong ít nhất năm đầu sau khi đặt stent, ta kê đơn hai thuốc chống ngưng kết tiểu cầu (antiagrégant) là aspirin kết hợp với clopidogrel (Plavix) và sau đó nói chung chỉ c̣n một thứ thuốc.

Hỏi : Những thất bại nơi các bệnh nhân được điều trị pḥng ngừa này là do đâu ?
GS Michel Desnos : Chủ yếu do 3 nguyên nhân. 1. Một sự tuân thủ điều trị kém của các bệnh nhân, quên uống thuốc hay ngừng điều trị không được biện minh (ví dụ để chữa răng hay nội soi tiêu hóa). 2. Sự hiện hữu của vài loại bệnh liên kết, đặc biệt là bệnh đái đường. 3. Một sự đề kháng đối với clopidogrel do những bất thường di truyền được biểu hiện nơi gan : nơi 25% các bệnh nhân, chất chống ngưng kết này tỏ ra không có hiệu quả.

Hỏi : Liệu pháp mới nhất dành cho các trường hợp đề kháng với điều trị cổ điển là ǵ ?
GS Michel Desnos : Đó là prasugrel, một chất chống ngưng kết tiểu cầu mới được thương măi hóa ở Pháp. Đối với những bệnh nhân đề kháng này, thuốc prasugrel có hiệu quả hơn và tác dụng của nó ít được liên kết với chuyển hóa gan hơn và do đó ít nhạy cảm hơn với những bất thường di truyền. Người ta kê đơn thuốc này với liều lượng 10 milligramme mỗi ngày, liên kết với 75 đến 325 mg aspirin.

Hỏi : Những thử nghiệm nào đă chứng tỏ hiệu quả của prasugrel ?
GS Michel Desnos : Công tŕnh nghiên cứu lớn “ Triton ” (được công bố trong “ New England Journal of Medicine ”) đă được thực hiện trên hơn 13.000 bệnh nhân đă bị một nhồi máu cơ tim và mang stent (trong 700 bệnh viện của 30 nước). Các nhà nghiên cứu đă so sánh trong ṿng một năm những bệnh nhân được điều trị cổ điển (aspirin +clopidogrel) với những bệnh nhân được điều trị bởi aspirin và prasugrel. Kết quả : thuốc mới đă tỏ ra có hiệu quả hơn do làm giảm 52% các huyết khối trên stent.

Hỏi : Điều trị mới này có gây nên những phản ứng phụ hay không ?
GS Michel Desnos : Điều trị với prasugrel có một nguy cơ gây xuất huyết, nhất là nơi năo bộ, ít xảy ra hơn (2,4% các xuất huyết với clopidogrel so với 1,8% với prasugrel).

Hỏi : Người ta có thể giảm mối nguy hiểm này không ?
GS Michel Desnos : Có, bằng cách không cho thuốc này nơi các bệnh nhân có nguy cơ cao hơn : những người trên 75 tuổi, những người đă bị một tai biến mạch máu năo, những người cân nặng dưới 60kg.
(PARIS MATCH 1/3-17/3/2010)


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 185 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 02/8/2010 )

8/LOÉT DẠ DÀY : CÁC THUỐC KHÁNG SINH CÓ NGĂN CẢN TÁI PHÁT ?

Docteur Anne Courillon-Mallet
Hépato-gastroentérologue
CHU Villeneuve-Saint-Georges

Nhiễm trùng do vi khuẩn Helicobacter pylori là nguyên nhân của 70% các loét dạ dày hay của tá tràng (tá tràng là phần đầu của ruột ngay sau dạ dày). Chừng nào nhiễm trùng c̣n tồn tại, loét sẽ tái phát trong 60% các trường hợp trong năm. Sự loại bỏ nhiễm trùng vi khuẩn khiến nguy cơ chuyển từ 60% xuống c̣n 6%.

Điều trị kháng sinh nhiễm trùng do Helicobacter pylori do đó ngăn ngừa một cách hiệu quả loét tái phát tuy nhiên với điều kiện đảm bảo rằng vi trùng đúng là đă được loại bỏ sau điều trị. Thật vậy, tỷ lệ loại bỏ nhiễm trùng sau một đợt điều trị kháng sinh đầu tiên chỉ là 70%, bởi v́ những đề kháng đối với các kháng sinh, được phát triển bởi vi khuẩn. Vậy cần phải kiểm tra tính hiệu quả của điều trị.

Trong trường hợp loét tá tràng (ulcère du duodénum), người ta sử dụng một trắc nghiệm hô hấp (test respiratoire). Trắc nghiệm này phát hiện sự hiện diện của một enzyme, uréase, đặc trưng của vi khuẩn Helicobacter pylori. Trắc nghiệm đơn giản và không gây đau đớn : sau 8 giờ nhịn đói, cho bệnh nhân uống urée được đánh đầu với carbone 13 (không phóng xạ) rồi thu lại khí thở ra 30 phút sau. Trắc nghiệm rất đáng tin cậy với điều kiện đă không dùng kháng sinh trong 4 tuần trước khi xét nghiệm và không sử dụng các thuốc ức chế sự tiết axít trong hai tuần trước khi trắc nghiệm.

Trong trường hợp loét dạ dày, người ta khuyến nghị thực hiện một soi dạ dày sau vài tuần để kiểm tra sự lành sẹo của vết loét (và đừng bỏ qua một ung thư có dạng vẻ của một loét thông thường) và soi dạ dày cho phép kiểm tra đồng thời sự biến mất của nhiễm trùng. Nếu nhiễm trùng vẫn tồn tại, người ta đề nghị một đợt điều trị thứ hai và, có thể, một đợt điều trị kháng sinh thứ ba. Một khi nhiễm trùng đă biến mất, ta có thể xem như rằng sự loại bỏ vi khuẩn là dứt điểm bởi v́ nguy cơ tái nhiễm trùng nơi những người trưởng thành hầu như là số không.

Nguyên nhân chính khác của loét là sử dụng thuốc kháng viêm không phải stéroide (AINS) hay uống aspirin. Khi người ta dự kiến một điều trị kéo dài bởi loại thuốc này, tốt hơn là t́m kiếm và điều trị một nhiễm trùng bởi Helicobacter pylori để không kiêm nhiệm hai yếu tố nguy cơ. Nhưng việc loại bỏ nhiễm trùng bởi Helicobacter pylori không đủ để hủy bỏ nguy cơ loét do các thứ thuốc.

Để tránh những loét trong lúc điều trị bởi AINS hay aspirin, người ta khuyến nghị, trong vài trường hợp, ví dụ sau 65 tuổi hay trong trường hợp điều trị kháng đông, sử dụng một loại thuốc ức chế sự sản xuất axít.
(LE FIGARO 29/3/2010)


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 196 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 18/10/2010 )

4/ UNG THƯ ĐẠI TRÀNG : ASPIRIN CÓ TÁC DỤNG BẢO VỆ ?

Vào năm 2007, những kết quả của những công tŕnh nghiên cứu của Anh và Mỹ, được thực hiện trên hàng ngàn bệnh nhân, đă xác nhận rằng aspirin có thể có một tác dụng bảo vệ chống ung thư đại tràng. aspirin ức chế một enzyme tai hại, cyclo-oxygénase 2 : men này đóng một vai tṛ quan trọng trong quá tŕnh viêm và biến hóa của một polype hiền tính thành ung thư. Trung b́nh sự giảm nguy cơ là 33% nơi những người dùng 325 mg aspirin hai lần mỗi tuần trong ít nhất 5 năm ; 40% nơi những người dùng 300 mg mỗi ngày trong 5 năm và 70% khi sự tiêu thụ vượt quá 5 năm. Mặc dầu với những kết quả này, vẫn c̣n thiếu sự xác định liều lượng tối thiểu có thể mang lại một tác dụng bảo vệ, bởi v́ 300 mg mỗi ngày là một liều lượng cao. Một công tŕnh nghiên cứu của Anh mới đây (Drs Faraht Din et Malcolm Dunlop) đă so sánh 2.279 người bị ung thư đại tràng với 2900 người chứng lành mạnh, và đă có thể xác định rằng một tác dụng bảo vệ (với giảm 22% nguy cơ) xuất hiện ngay năm đầu tiên, bắt đầu từ 75mg aspirin, 4 lần mỗi tuần.
(PARIS MATCH 7/10-13/10/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 200 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 15/11/2010 )

6/ SINH SẢN NAM GIỚI : NGUY CƠ CỦA CÁC THUỐC GIẢM ĐAU TRONG THỜI KỲ THAI NGHÉN.

Vài loại thuốc, như aspirine hay ibuprofène, được sử dụng bởi một phụ nữ có thai, ảnh hưởng lên khả năng sinh sản của đứa bé sẽ sinh ra đời.

PROCREATION. Từ nhiều năm nay, một sự hạ thấp của các tinh trùng được phát hiện trong vài nước, đặc biệt là ở Phần Lan, nhưng cũng xảy ra trong vài thành phố của Pháp, đặc biệt là ở Paris. Một số hơi cao hơn các dị dạng sinh dục (malformations génitales) như tinh hoàn ẩn (cryptorchidie) (tinh hoàn không đi xuống b́u dái của cháu trai, toàn bộ hay một phần) cũng đă được mô tả khắp nơi trong những nước công nghiệp hóa. Sau cùng, ung thư tinh hoàn gia tăng trong các vùng nói trên. Nguyên nhân chính xác của những hiện tượng này vẫn không được biết đến. Hôm nay tạp chí Human reproduction công bố những kết quả của những công tŕnh, được thực hiện ở Đan mạch, Phần lan và Pháp, cho phép nghi ngờ vai tṛ của các thuốc giảm đau được sử dụng bởi bà mẹ trong thời kỳ thai nghén.

Như thế, theo những nghiên cứu này, sự việc đă sử dụng aspirine hay ibuprofène trong hơn hai tuần trong tam cá nguyệt thứ nhất hay thứ hai của thai kỳ, đă làm gia tăng gấp hai nguy cơ sinh ra đời một đứa bé trai bị chứng tinh hoàn ẩn (cryptorchidie). Cùng khuynh hướng được quan sát với paracétamol. Và đối với những bà mẹ tương lai đă sử dụng cùng lúc, trong hơn 15 ngày, hai loại thuốc giảm đau, nguy cơ có một đứa bé trai bị bệnh tinh hoàn ẩn 22 lần cao hơn nguy cơ của những phụ nữ không sử dụng ǵ hết. Thế mà, người ta biết rằng bệnh tinh hoàn ẩn là một yếu tố nguy cơ đồng thời của chứng vô sinh nam giới (infertilité masculine) và của ung thư tinh hoàn.

Trong những năm 1980, các nhà nghiên cứu vốn đă nghi ngờ những thuốc giảm đau này dùng nơi động vật đực gây nên những rối loạn sinh sản. Nhưng đă phải đợi công tŕnh nghiên cứu được công bố hôm nay để có được những dữ kiện chính xác hơn nơi người. Công tŕnh nghiên cứu này được thực hiện trên hơn 400 phụ nữ có thai người Đan Mạch, đă chấp nhận trả lời một bảng câu hỏi về các thói quen trong cuộc sống và nhất là việc sử dụng các thuốc giảm đau. Sau khi sinh, các trẻ em giới tính nam, được sinh ra từ những phụ nữ này, đă được thăm khám để đặc biệt t́m kiếm một bệnh tinh hoàn ẩn. Chính như vậy mà các tác giả của công tŕnh nghiên cứu lần đầu tiên đă có thể nhận thức rằng các đứa trẻ của những phụ nữ vốn đă dùng một hay nhiều trong số 3 thuốc giảm đau được khảo sát, trong hơn 15 ngày, suốt trong 6 tháng đầu của thai nghén, có nguy cơ gia tăng một cách đáng kể bị chứng tinh hoàn ẩn.

Để hiểu hiện tượng này, các thầy thuốc Đan Mạch và Phần lan đă tiếp xúc Bernard Jégou, giám đốc nghiên cứu ở Inserm đơn vị 625 và ở đại học Rennes-I và chuyên gia quốc tế về những vấn đề môi trường và khả năng sinh sản nam giới. Nhà chuyên môn này khảo sát các canh cấy tế bào tinh hoàn của phôi thai chuột, nhằm trắc nghiệm các loại thuốc hay phân tử hóa học và đánh giá tác dụng của chúng lên chức năng sinh sản của phôi thai. Như thế trên mô h́nh chuột này ông đă có thể phát hiện một sự giảm tiết testostérone (kích thích tố nam) của những tế bào tinh hoàn phôi thai trước sự hiện diện của các thuốc giảm đau này (paracétamol, ibuprofène hay aspirine).

Sau hết, các nhà nghiên cứu Đan mạch đă tiến hành một thí nghiệm thứ ba. Họ đă cho các con chuột cái mang thai một trong những thuốc giảm đau này với liều lượng lớn. Và sau đó họ cũng đă có thể quan sát thấy trong hậu duệ nam vài bất thường thể hiện một sự nhạy cảm ít hơn đối với testostérone. “ Những công tŕnh nghiên cứu này là những dấu hiệu chỉ rơ rằng phải đặc biệt chú ư đến việc sử dụng các thuốc giảm đau trong thời kỳ thai nghén. Tuy nhiên vẫn phải thận trọng : chúng tôi phát hiện một sự liên kết chứ không phải là một mối liên hệ nhân quả, Bernard Jégou, đồng tác giả của bài báo được đăng tải trong Human Reproduction đă giải thích như vậy. Nhưng những lư lẽ gián tiếp khác cũng đi theo chiều hướng này. Chính ở Đan mạch là nơi sự tiêu thụ cao nhất paracétamol được quan sát và cũng chính là nước có tỷ lệ tinh hoàn ẩn cao nhất. Hôm nay, những tín hiệu này chỉ cho chúng ta rằng phải tiến hành những nghiên cứu dịch tễ và thí nghiệm mới.” Kể từ nay chính giới hữu trách y tế có trách nhiệm tuyên bố về tính thích đáng trong việc hạn chế sử dụng các thuốc giảm đau trong thời kỳ thai nghén.
(LE FIGARO 9/11/2010)


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 202 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 29/11/2010 )

9/ MỘT ÍT ASPIRIN CHỐNG LẠI UNG THƯ ĐẠI TRỰC TRÀNG.

Sử dụng aspirin 75 mg mỗi ngày làm giảm tỷ lệ mắc phải và tỷ lệ tử vong của các khối u này. Nhưng việc uống thuốc không toa vẫn không được khuyến nghị.

PREVENTION. Được sử dụng một cách đều đặn trong nhiều năm, một liều lượng tối thiểu aspirin (75mg mỗi ngày) có thể làm giảm 24% nguy cơ ung thư đại-trực tràng và làm giảm 1/3 tỷ lệ tử vong của nó nơi những bệnh nhân bị bệnh. Đó là điều được đánh giá bởi các thầy thuốc người Anh, có công tŕnh nghiên cứu đă được công bố trong tạp chí y học The Lancet. Đối với Peter Rothwell, thuộc đại học Oxford, tác giả đầu tiên của bài báo, một điều trị với những liều lượng nhỏ aspirin có thể được kê đơn để pḥng ngừa cho những người có nguy cơ cao bị ung thư đại• trực tràng, thí dụ do thể địa gia đ́nh.

Nhưng dường như c̣n sớm để đề nghị mộ cách rộng răi hơn chiến lược “ hóa học-pḥng ngừa ” này trong dân chúng, nhất là do những tác dụng phụ của aspirin ở đường tiêu hóa (kích thích, chảy máu).

Các ung thư đại-trực tràng là trong số những khối u ác t́nh thường xảy ra nhất trong các nước phát triển. Ở Pháp, khoảng 37.000 trường hợp mới được ghi nhận hàng năm, điều này đặt những ung thư này vào hàng thứ ba về mặt tỷ lệ xuất hiện bệnh và hàng thứ hai đối với tỷ lệ tử vong. Người ta chứng thực một tố bẩm gia đ́nh (prédisposition familiale) trong 17% các trường hợp.

Trong những năm qua, nhiều công tŕnh nghiên cứu đă gợi ư những tính chất bảo vệ của aspirin (với những liều lượng hàng ngày vài trăm milligramme), nơi những người có nguy cơ cao bị những ung thư này hay nơi những người đă bị bệnh. Lợi ích của công tŕnh của Peter Rothwell và các đồng nghiệp là đă tổng hợp các dữ kiện của 5 công tŕnh nghiên cứu rộng lớn về chủ đề này, được tiến hành ở Vương Quốc Anh, ở Ḥa Lan và Thụy Điển. Như thế các tác giả đă có thể phân tích một quần thể 14.000 bệnh nhân, được cung cấp aspirin mỗi ngày hay không (để pḥng ngừa tim mạch) trong 6 năm. Trong 18 tháng theo dơi, 2,8% những người tham dự đă phát triển một ung thư đại-trực tràng.

“ TÔI SẼ TỰ CHO PHÉP CHIẾN LƯỢC PH̉NG NGỪA NÀY ”

Toàn bộ, trong thời kỳ này, nguy cơ xuất hiện các khối u đại trực-tràng được giảm 24% nơi những người sử dụng aspirin. Và tỷ lệ tử vong của những ung thư này giảm 35%. Lợi ích được quan sát đối với những liều lượng hàng ngày 75mg, và những liều lượng cao hơn không cho những lợi ích bổ sung, các nhà nghiên cứu đă xác nhận như vậy. Họ cũng ghi nhận rằng tác dụng bảo vệ của aspirin liên hệ chủ yếu những khối u nằm trong phần đầu (được gọi là gần) của đại tràng, vùng khó thấy được bằng những thăm khám nội sọi. aspirin không có vai tṛ bảo vệ đối với những ung thư của phần xa đại tràng và ở trực tràng.

Đối với các nhà nghiên cứu người Anh, các kết quả này có những hàm ư đối với thực hành hàng ngày. Nơi những bệnh nhân phải được điều trị chống ngưng kết (traitement antiagrégant) để làm giảm nguy cơ tai biến tim mạch, lư lẽ pḥng ngừa các ung thư đại trực tràng phải làm lệch cán cân về phía aspirin hơn là dành cho một loại thuốc khác. Ngay từ bây giời tôi sẽ tự cho phép chiến lượt này nơi những người có nguy cơ cao bị ung thư gia đ́nh, được đả thông về những lợi ích và nguy cơ của aspirin ”, GS Robert Benamouzig thuộc bệnh viện Avicenne (Bobigny, Pháp) đă b́nh luận như vậy. Công tŕnh nghiên cứu này hẳn là một giọt nước làm tràn đầy ly, và khiến các chuyên gia phai họp nhau lại để quyết định ai sẽ được hưởng biện pháp ngăn ngừa bằng aspirin này ”, thầy thuốc chuyên khoa tiêu hóa nói thêm như vậy. Nhưng trong khi chờ đợi một hội nghị nhất trí như vậy, ông khuyên không nên tự dùng thuốc để thực hiện sự pḥng ngừa.
(LE FIGARO 24/10/2010)


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 204 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 13/12/2010 )

4/ ASPIRIN VỚI NHỮNG LIỀU LƯỢNG NHỎ CHỐNG LẠI TẤT CẢ HOẶC HẦU NHƯ TẤT CẢ CÁC LOẠI UNG THƯ.

Một cuộc điều tra được công bố hôm nay tiết lộ rằng sử dụng aspirin 75 mg mỗi ngày làm giảm 20% tỷ lệ tử vong do ung thư.

CANCEROLOGIE. Hơn 100 năm sau khi được thương măi hóa, aspirin vẫn không ngừng tiết lộ các bí mật và nhất là những lợi ích của nó. Lợi ích mới nhất : một tác dụng pḥng ngừa hầu như vạn ứng đối với các ung thư, khi aspirin được sử dụng với những liều lượng nhỏ trong nhiều năm. Măi cho đến nay, tính chất này chủ yếu đă được nghiên cứu và xác lập một cách vững chắc đối với các ung thư đại trực tràng. Cách nay vài tuần, một công tŕnh của nhóm nghiên cứu Anh của GS Peter Rothwell, thuộc đại học Oxford, đă đánh giá rằng một sự tiêu thụ tối thiểu aspirin (75 mg mỗi ngày), trong một thời gian dài lâu, làm giảm 24% nguy cơ mắc phải ung thư đại trực tràng, và làm giảm 1/3 tỷ lệ tử vong của nó nơi những người đă bị ung thư này.

NHỮNG TÁC DỤNG PHỤ CỦA ĐƯỜNG TIÊU HÓA.

Cùng nhóm nghiên cứu này công bố hôm nay, vẫn trong tạp chí Anh The Lancet, những dữ kiện mới, theo đó acide acétylsalycilique (aspirin) tác dụng lên nhiều khối u ác tính khác, làm giảm ít nhất 20% tỷ lệ tử vong của chúng. Để nghiên cứu những mối liên hệ mật thiết giữa việc dùng aspirin và các ung thư, Peter Rothwell và các đồng nghiệp đă xem xét lại những công tŕnh nghiên cứu lớn, so sánh aspirin với một placebo hay với một loại thuốc khác như thuốc chống ngưng kết tiểu cầu (antiagrégant) hay thuốc kháng đông (anticoagulant) nhằm ngăn ngừa những bệnh tim mạch. Thật vậy, aspirin là một trong những điều trị nền (traitement de fond) cổ điển để làm loăng máu nơi những người có nguy cơ cao bị các tai biến tim. Tổng cộng, 7 thử nghiệm đă được phân tích lại, bao gồm 25.570 bệnh nhân. Trong số những bệnh nhân này, 674 đă chết v́ các ung thư. Nh́n toàn bộ, nơi những bệnh nhân dùng aspirin, tỷ lệ tử vong bởi khối u ác tính đă giảm 21% trong thời gian thực hiện các nghiên cứu. Các lợi ích lại c̣n rơ rệt hơn sau 5 năm, với một sự giảm 34%, nếu tính đổ đồng các ung thư, và ngay cả giảm 54% nếu đó là những ung thư dạ dày-ruột.

Các tác dụng của aspirin xuất hiện sau khoảng 5 năm đối với các ung thư thực quản, tụy tạng, năo và phổi ; và sau khoảng 10 năm đối với các ung thư dạ dày và đại tràng và 15 năm đối với các ung thư của tuyến tiền liệt. Trong những thử nghiệm với sự theo dơi rất lâu dài, các lợi ích được duy tŕ trong hơn 20 năm, Peter Rothwell đă nhấn mạnh như vậy, đồng thời cũng xác nhận rằng những lợi ích này chỉ được giới hạn đối với vài loại ung thư, nhất là những ung thư thuộc loại adénocarcinome ”.

“ Đó là một công tŕnh được thực hiện rất tốt, vững chắc trên phương diện phương pháp học, và mở đường cho một phương pháp pḥng ngừa các ung thư có hiệu quả và có thể thực hiện được, BS Catherine Hill, chuyên gia dịch tễ học thuộc Viện Gustave-Roussy (Villejuif) đă lấy làm phấn khởi. Cho măi đến nay, trong lănh vực này, sự pḥng ngừa chủ yếu dựa trên việc chống lại các yếu tố nguy cơ, như thuốc lá, rượu..Nhưng c̣n về thuốc men, th́ chẳng có bao nhiêu. Nhiều hướng đă được nghĩ đến, như hướng của tamoxifène để pḥng ngừa ung thư vú hay hướng của các anticox (thuốc chống viêm) nhưng những phương pháp này đều thất bại bởi v́ có nhiều nguy cơ hơn là lợi ích.” Một cách cụ thể, ta có thể khuyến nghị mỗi người dùng vào mỗi buổi sáng một liều lượng nhỏ aspirin hay không ?

Về các ung thư đại trực tràng, điều đó không c̣n xa vời lắm. Trong bài báo được đăng tải hôm tháng 10, Peter Rothwell đă gợi ư như vậy đối với những người có nguy cơ cao bị những ung thư này. Nhưng một “ hóa học pḥng ngừa ” (chimioprévention) thực hiện rộng răi trong dân chúng dường như c̣n quá sớm, đặc biệt do những tác dụng phụ tiêu hóa của aspirin. “ Phải cần đến những công tŕnh nghiên cứu khác ” các nhà nghiên cứu người Anh đă chấp nhận như vậy, đồng thời đặc biệt nhấn mạnh việc thiếu những dữ kiện về các ung thư phụ nữ, đặc biệt là ung thư vú.

Trong lúc chờ đợi, các nhà nghiên cứu cho rằng nơi những người đang được điều trị chống ngưng kết (traitement antiagrégant), th́ những kết quả của công tŕnh nghiên cứu của họ làm lệch cán cân về phía aspirin.
(LE FIGARO 7/12/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 232 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (27/6/2011)

3/ ASPIRINE LÀM GIẢM TỶ LỆ TỬ VONG DO UNG THƯ.

Sự tiêu thụ đều đặn aspirine làm giảm ít nhất 20% tỷ lệ tử vong trong trường hợp của các ung thư thực quản, tụy tạng, năo và phổi, theo các nhà nghiên cứu của đại học Oxford. Kết quả quan sát này dựa trên nhiều công tŕnh so sánh giữa việc tiêu thụ aspirine và việc sử dụng một placebo, trong ít nhất 4 năm bởi hơn 25.000 người. Vào tháng mười năm qua, các nhà nghiên cứu này đă ước tính rằng những liều lượng thấp aspirine (khoảng 75 mg) cho phép làm giảm 35% nguy cơ tử vong do ung thư đại trực tràng. Nhưng họ đánh giá là c̣n sớm để có thể kê đơn aspirine mỗi ngày : c̣n phải đo cán cân giữa các lợi ích và nguy cơ, nhất là xuất huyết.
(SCIENCE ET VIE 2/2011)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 238 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (10/8/2011)

3/ ASPIRINE ĐỀ PH̉NG NGỪA UNG THƯ ?

Robert Benamouzig là trưởng khoa dạ dày ruột thuộc bệnh viện Avicenne, Bobigny

Hỏi : Một công tŕnh nghiên cứu dịch tễ học về mối liên hệ giữa việc sử dụng aspirine và ung thư vừa được công bố. Công tŕnh này cho thấy điều ǵ ?
Robert Benamouzig :Công tŕnh nghiên cứu này cho thấy rằng một liều thấp aspirine (75mg mỗi ngày) trong ít nhất 5 năm, làm giảm 20% tỷ lệ tử vong, tất cả các ung thư cộng lại. Để đạt đến kết luận này, nhóm của Peter Rothwell, thuộc đại học Anh Oxford đă thực hiện một phân tích méta từ 8 thử nghiệm lâm sàng, nguyên thủy được tiến hành để đánh giá tác dụng của loại thuốc này lên những bệnh tim mạch. Toàn bộ, 25.570 bệnh nhân đă nhận hoặc là aspirine, hoặc là một placebo. Theo quá tŕnh theo dơi trong 20 năm, những trường hợp tử vong bởi ung thư (nhất là những ung thư đại trực tràng và của thực quản) là ít quan trọng hơn đối với những người đă sử dụng aspirine.

Hỏi : Ta đă có thể mong chờ một tác dụng bảo vệ của aspirine ?
Robert Benamouzig : Vâng, ta đă nghi ngờ điều đó : từ hai chục năm nay ta quan sát thấy rằng ung thư đại trực tràng ít thường xảy ra hơn ở những người sử dụng đều đặn aspirine. Ta cũng biết rằng aspirine cũng như những thuốc kháng viêm khác, ức chế các enzyme có liên quan trong sự tăng sinh của các khối u. Nhưng nhờ những thử nghiệm trên một số lớn các bệnh nhân, Peter Rothwell và nhóm nghiên cứu của ông mới đây đă mang lại những luận cứ mới về tác dụng bảo vệ của aspirine chống lại ung thư đại trực tràng, rồi bây giờ đây tác dụng của nó chống lại hầu hết các ung thư.

Hỏi : Những kết quả này sẽ mang lại những áp dụng đối với thực hành hàng ngày không ?
Robert Benamouzig : Theo ư kiến của tôi, aspirine phải được kê đơn để pḥng ngừa ung thư đại trực tràng, đặc biệt đối với những người có một nguy cơ cao, nhất là có yếu tố gia đ́nh. Nhưng không có vấn đề kê đơn để pḥng ngừa cho tất cả mọi người hay tự dùng thuốc lấy. Thật vậy, ngay cả với liều thấp, aspirine vẫn có thể gây nên xuất huyết dạ dày ruột trong khoảng 1% các trường hợp. Vậy không nên tạo một cách sai lầm nguy cơ cho những người có nguy cơ thấp, bởi v́, đối với họ, lợi ích của việc sử dụng aspirine sẽ thấp hơn nguy cơ gặp phải. Cũng không nên bắt bệnh nhân sử dụng aspirine quá lâu một cách vô ích : tác dụng bảo vệ xuất hiện sau 5 đến 10 năm, vậy aspirine chỉ có thể bắt đầu được sử dụng khoảng 50 tuổi mà thôi, trừ trường hợp những người có một nguy cơ cao bị ung thư sớm. Vậy vấn đề hiện nay là tính tỷ suất lợi ích đối với nguy cơ của việc sử dụng hàng ngày aspirine để xác định phương pháp ngăn ngừa này sẽ hữu ích đối với những ai.

Hỏi : Những khuyến nghị phải chăng chẳng bao lâu nữa sẽ được soạn thảo ?
Robert Benamouzig : Xác định một cách chính xác giới hạn mà lợi ích của aspirine vượt quá nguy cơ không phải dễ dàng. Phải cần thời gian để các chuyên gia tổ chức và hội họp để soạn thảo những khuyến nghị. Do đó tôi e ngại rằng điều đó c̣n cần đến vài năm trước khi phương pháp này được áp dụng trong thực tiễn.
(LA RECHERCHE 2/2011)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 246 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (29/10/2011)

4/ PH̉NG NGỪA TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO

Một công tŕnh nghiên cứu của Hoa Kỳ cho thấy rằng sự điều trị tích cực sau báo động đầu tiên cho phép làm giảm các tái phát. Điều trị cao huyết áp là cơ bản.

NEUROLOGIE. Với 120.000 đến 150.000 trường hợp mỗi năm ở Pháp, trong đó một nửa ở những người trên 70 tuổi, tai biến mạch máu năo mỗi năm gây nên 32.000 trường hợp tử vong và bấy nhiêu những tàn tật nặng. Đó là nguyên nhân thứ ba gây tử vong sau các bệnh tim-mạch và các ung thư, nguyên nhân thứ hai gây sa sút trí tuệ sau bệnh Alzheimer. Vậy pḥng ngừa tai biến mạch máu năo, thường nhất do một động mạch tưới máu năo bị tắc, là điều chủ yếu : pḥng ngừa trước khi xảy ra tai biến mạch máu năo hay tai biến thiếu máu cục bộ thoáng qua (accident ischémique transitoire) báo trước tai biến, bằng cách làm giảm những yếu tố nguy cơ mạch máu. Nhưng cũng ở những bệnh nhân sau một tai biến mạch máu năo đầu tiên, khi đó có một nguy cơ quan trọng bị một tai biến mới. Gần 80% các tai biến mạch máu năo là do một nhồi máu năo (infarctus cérébral) được gây nên bởi một huyết khối (thrombus), một trường hợp trên bốn là do những mảng xơ mỡ động mạch (plaques d’athérome) làm hẹp đường kính của các động mạch năo, nhưng đôi khi do một rung nhĩ (fibrillation auriculaire), một rối loạn nhịp tim hay một thương tổn những mạch máu nhỏ (microangiopathie). Làm sao tránh tái phát ?

Mối đe dọa này được giảm nhiều (50 đến 75%) nhờ một điều trị triệt để những yếu tố nguy cơ quan trọng như cao huyết áp, LDL-cholestérol (nho statines) và triglycérides, bệnh đái đường, t́nh trạng nhàn rỗi không hoạt động (sédentarité), chứng nghiện thuốc lá, bệnh béo ph́...và một điều trị chống tiểu cầu bằng aspirine và clopidrogel (Plavix) để làm loăng máu. Khi động mạch cảnh trong (carotide interne), có nhiệm vụ mang máu từ tim lên năo, bị tắc ở cổ, ngoại khoa cho phép lấy mảng xơ mỡ đi và làm giảm 60% nguy cơ tái phát. Bắt chước kỹ thuật được sử dụng trong cardiologie, angioplastie par ballonnet với stent được đặt trong động mạch cảnh để duy tŕ sự thông thương mạch máu, cũng đă được trắc nghiệm, bởi v́ thủ thuật này ít xâm nhập hơn ngoại khoa. Nhưng kỹ thuật này nhiên hậu gây nhiều nguy cơ hơn ngoại khoa và chỉ được sử dụng en seconde intention.

CÔNG TR̀NH NGHIÊN CỨU HOA KỲ.

Một sự làm giăn các động mạch năo như thế có cho phép làm giảm các nguy cơ không ? Công tŕnh nghiên cứu Hoa Kỳ SAMMPRIS, được công bố tuần qua trong New England Journal of Medicine, cho thấy rằng không phải là như vậy : sau một tai biến thiếu máu cục bộ thoáng qua (AIT : accident ischémique transitoire) hay một tai biến mạch máu năo đầu tiên, 451 trong số những bệnh nhân này đă nhận điều trị nội khoa chuẩn “ tích cực ”. Một nửa trong số những bệnh nhân này cũng đă được làm angioplastie với stent được đặt trong động mạch nội sọ bị teo hẹp nhất. Trong tháng sau khi angioplastie được thực hiện, 14,7% các bệnh nhân của nhóm thứ hai này đă bị một tai biến mạch máu năo mới hay bị chết, so với chỉ 5,8% trong nhóm được điều trị nội khoa đơn độc. Một năm sau, có hai lần số trường hợp tử vong nhiều hơn trong nhóm với stent so với nhóm kia. “Angioplastie đôi khi được thực hiện trong chỉ định này ở những bệnh nhân không đáp ứng với điều trị nội khoa, nhưng không chắc chắn về lợi ích của thủ thuật này. Từ nay chúng ta có bằng cớ chứng tỏ rằng angioplastie không được sử dụng, ít nhất tức thời, cũng như sau một tai biến mạch máu năo đầu tiên, GS Emmanuel Touzé, thầy thuốc chuyên khoa thần kinh (unité neuro-vasculaire, Bệnh viện Sainte-Anne, Paris), đă giải thích như vậy. Nhưng dầu cho điều trị nội khoa đă đạt được những tiến bộ to lớn, vẫn c̣n một marge de progression quan trọng.” Đối với GS Jean-Marc Orgogozo (pôle neurologie, CHU Pellegrin, Bordeaux), “ những kết quả này chắc chắn sẽ đánh dấu một coup d’arrêt đối với kỹ thuật này.”

Sự thất vọng này, dầu cho những tiến bộ thật sự của pḥng ngừa thứ cấp (prévention secondaire), lại c̣n làm nổi bật hơn tầm quan trọng phải làm tất cả để tránh một tai biến mạch máu năo đầu tiên. “ Tai biến thiếu máu cục bộ thoáng qua (AIT), với những dấu hiệu như những rối loạn đột ngột về ngôn ngữ, thị giác, vận động, một sự mất cân bằng..., ngay cả khi chỉ kéo dài vài phút, phải khiến bệnh nhân phải đi khám bệnh ngay, dầu cho những dấu hiệu này đă thoái lui sau đó, bởi v́ 3% trong số những bệnh nhân này sẽ tiến triển thành một tai biến mạch máu năo thật sự trong 48 giờ, và 9% trong tháng tiếp theo, trong khi đó một điều trị nhanh chóng ở unité neuro-vasculaire làm giảm 80% nguy cơ này ”, GS Touzé đă nhấn mạnh như vậy. Mặt khác, sự tích lũy trong chất trắng năo bộ nhiều thương tổn mạch máu nhỏ không gây triệu chứng, hoàn toàn không được nhận biết, nhiên hậu gây nên những hậu quả, nhất là về mặt nhận thức, ở những người già cả nhất.Việc chống lại những yếu tố nguy cơ tim mạch, mà trước hết là chống lại cao huyết áp, có tính chất quyết định trong sự pḥng ngừa những thương tổn này. Sự khám phá t́nh cờ chúng ở một bệnh nhân chắc chắn phải xem bệnh nhân này có nguy cơ bị tai biến mạch máu năo.” Việc pḥng ngừa nguy cơ năo-mạch máu (risque cérébro-vasculaire) ở những người già chắc chắn là một trong những enjeu lớn về y tế trong những năm đến.
(FIGARO 20/9/2011)

5/ PH̉NG NGỪA TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO BẰNG TỪ TRƯỜNG

Rongjia Tao, trưởng bộ môn vật lư của đại học Temple de Philadelphie (Hoa Kỳ)
Ư tưởng : Khi ta cho máu tiếp xúc với một từ trường (champ magnétique), độ nhớt (viscosité) của máu giảm. Và do đó nguy cơ tạo các cục máu đông giảm. Do đó cho các cánh tay ḿnh tiếp xúc đều đặn với từ trường phát sinh từ các bobine nam châm cho phép làm giảm nguy cơ tai biến mạch máu năo và nhồi máu cơ tim ở những người có nguy cơ.

Hỏi : Ông đă đến ư nghĩ này như thế nào ?
Rongjia Tao : Vào năm 2006, tôi đă khám phá rằng ta có thể làm giảm độ nhớt (viscosité) của dầu thô (pétrole brut) bằng cách cho nó chịu tác dụng của một từ trường song song với chiều tuần hoàn của nó trong một ống. Từ trường này, do làm phân cực các hạt treo lơ lửng trong dầu hỏa, khiến chúng bị kết dính lại. Các hạt khi đó tập hợp lại để tạo thành những chuỗi nhỏ sau đó chảy một cách dễ dàng hơn. Tôi đă nghĩ đến việc sử dụng kỹ thuật này trên máu, vốn chứa nhiều tế bào trôi lơ lửng, nhất là những tế bào hồng cầu. Bởi v́ độ nhớt của máu khi tăng cao làm dễ sự tạo thành các cục máu đông, và do đó sự xuất hiện những tai biến mạch máu năo và tim. Hiện nay giải pháp duy nhất để làm loăng máu ở những người đă bị một tai biến mạch máu năo là dùng những thuốc như aspirine nhưng loại thuốc này có thể gây nên những tác dụng phụ như xuất huyết dạ dày, loét dạ dày-ruột hay ù tai (acouphène). Các từ trường loại bỏ những tác dụng không được mong muốn này. Mặt khác, chụp h́nh ảnh bằng cộng hưởng từ hạt nhân (IRM), được sử dụng rộng răi từ nhiều năm nay, đă chứng minh tính vô hại của các từ trường.

Hỏi : Những kết quả ông đă thu được là ǵ ?
Rongjia Tao : Với nhóm nghiên cứu của tôi, chúng tôi vừa cho thấy rằng, trên những mẫu nghiệm máu chảy xuyên qua những ống có đường kính 1 mm (kích thước tương tự với kích thước của vài mao mạch), một sự tiếp xúc trong 1 phút với một từ trường làm giảm độ nhớt hơn 20%. Chủ yếu các hồng cầu kết dính với nhau thành những chuỗi nhỏ nhưng chức năng của chúng không bị biến đổi.Tuy nhiên, sau đó, khi không c̣n tiếp xúc với từ trường nữa, độ nhớtcàng dần dần tăng lên khi các chuỗi hồng cầu càng bị tan vỡ. Trung b́nh sau hai giờ, máu phục hồi lại độ nhớt lúc đầu : vậy hiệu quả chỉ có tính chất tạm thời.

Hỏi : Kỹ thuật này có thể được sử dụng như thế nào ?
Rongjia Tao : Kỹ thuật này có thể cho phép làm giảm huyết áp của những bệnh nhân bị cao huyết áp. Các bệnh nhân đặt các cánh tay của ḿnh trong những bobine nam châm sinh ra một từ trường mạnh, song song với động mạch của mỗi cánh tay. Bằng cách này, toàn bộ máu sẽ được xử lư trong ṿng 15 đến 20 phút. Ta có thể tưởng tượng một thiết bị mang theo người (un dispositif portable), dùng ở nhà. Vấn đề c̣n lại là thời gian tác dụng. Những kết quả thí nghiệm của chúng tôi cho thấy rằng thời gian tác dụng có thể tăng gấp đôi nếu độ nhớt lúc đầu tăng cao. Vậy chúng tôi có thể tưởng tượng những thử nghiệm lâm sàng với hai buổi điều trị mỗi ngày, một vào buổi sáng và một vào buổi chiều. Kết quả tiếp theo sẽ tùy thuộc vào những thử nghiệm này !
(SCIENCE ET VIE 10/2011)


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 247 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (7/11/2011)

4/ ASPIRINE PH̉NG NGỪA UNG THƯ ĐẠI TRỰC TRÀNG.

Những bệnh nhân có nguy cơ di truyền rất cao (patients à très haut risque génétique) có thể hưởng lợi nhờ điều trị này.

PREVENTION. Hy vọng có được một điều trị pḥng ngừa ung thư làm sôi nỗi không những các nhà nghiên cứu mà c̣n cả những người có những nguy cơ cao. Đó là trường hợp những người bị hội chứng Lynch, một bất thường di truyền làm gia tăng một cách đáng kể nguy cơ ung thư, nhất là ung thư đại-trực tràng nhưng cũng những cơ quan khác như nội mạc tử cung. Trong hội chứng hiếm hoi này, nhưng vẫn là nguyên nhân thường gặp nhất của các ung thư đại
trực tràng di truyền (cancers colo-rectaux héréditaires), các bệnh nhân đặc biệt phải chịu những nội soi đại tràng (colonoscopie) tối đa mỗi 2 năm ngay ở lứa tuổi 20. Dĩ nhiên mục tiêu là phát hiện sớm ung thư đại-trực tràng mà ta biết gây bệnh cho hơn một trường hợp đối với 3 trong số những bệnh nhân này.

Công tŕnh nghiên cứu, được công bố hôm nay trong tạp chí quốc tế The Lancet, hẳn sẽ mang lại một ít hy vọng cho những bệnh nhân mà tuổi trung b́nh lúc được khám phá một ung thư đại-trực tràng là 42 tuổi (đôi khi ngay cả trước 25 tuổi). Thật vậy công tŕnh này cho thấy vai tṛ pḥng ngừa của aspirine. Trên hơn 850 người, một nửa dùng aspirine c̣n nửa kia dùng một placebo (thuốc không có tác dụng), kết quả cho thấy rằng những bệnh nhân đă uống mỗi ngày 600 mg aspirine trong hai năm đă có nguy cơ ung thư đại-trực tràng giảm 1/3 so với những người dùng placebo. Và có được kết quả này nhưng không chịu những tác dụng phụ đặc biệt nào. Các tác giả đă quan sát thấy 18 ung thư đối với 427 bệnh nhân trong nhóm sử dụng aspirine, so với 30 trên 434 bệnh nhân dùng placebo.

Vào năm 2008, cũng chính những nhà nghiên cứu này đă không phát hiện tính hiệu quả của aspirine trong nghiên cứu này. Chính nhờ kéo dài thời gian theo dơi những bệnh nhân đă dùng aspirine trong hơn 2 năm mà họ đă nhận thức được tác dụng pḥng ngừa của aspirine. Sau hai năm, sự dị biệt giữa hai nhóm bắt đầu xuất hiện nhưng vẫn c̣n chưa đủ về mặt thống kê để rút ra những kết luận.

BS David Malka, thầy thuốc chuyên về ung thư tiêu hóa thuộc Viện Gustave-Roussy (Villejuif) tỏ ra lạc quan thận trọng : “ Đó là một công tŕnh nghiên cứu có thể cho phép thêm vào một vũ khí mới (aspirine) bên cạnh sự theo dơi các bệnh nhân nhờ soi đại tràng ”, ông đă giải thích như vậy. Lần này, GS John Burn (Viện y học di truyền, đại học Newcastle) và các đồng nghiệp tỏ ra dứt khoát hơn : “ Những kết quả của chúng tôi, đặt trong mối liên hệ với những nghiên cứu khác mới đây, mang lại một cơ sở chắc chắn để khuyến nghị dùng aspirine để pḥng ngừa một cách hệ thống trong hội chứng Lynch ”, ông đă viết như vậy trong The Lancet. Theo họ, vấn đề c̣n lại là phải xác định liều lượng tốt và thời gian điều trị tốt.

Tuy nhiên các chuyên gia ngạc nhiên khi có được kết quả này mặc dầu số các polype được phát hiện bằng soi đại tràng đều y hệt dầu bệnh nhân uống aspirine hay không. Thật vậy lư thuyết muốn rằng các polype là giai đoạn đầu tiên trước khi biến đổi thành ung thư. Những kết quả thu được này ở những bệnh nhân với nguy cơ rất cao, do là bệnh di truyền (hội chứng Lynch), phải chăng có thể áp dụng cho những loại khác ? Đâu là tỷ suất lợi ích/nguy cơ của điều trị bằng aspirine trong những trường hợp này, nếu xét đến nguy cơ xuất huyết do aspirine ? Hiện nay những kết quả thu được với những liều lượng thấp aspirine (dưới 100 mg mỗi ngày), được sử dụng trong pḥng ngừa những tái phát của các tai biến tim mạch nói chung, đă không cho thấy lợi ích để làm giảm nguy cơ ung thư đại-trực tràng. Ngược lại, đối với những bệnh nhân đă có một ung thư đại-trực tràng được điều trị, những công tŕnh nghiên cứu lại cho thấy một tác dụng pḥng ngừa nhưng mức độ vừa phải của aspirine. Vẫn c̣n quá sớm để có thể dám đưa ra một khuyến nghị chung, ngoài trường hợp hội chứng Lynch.
(LE FIGARO 28/10/2011)


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 265 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (7/4/2012)

7/ UNG THƯ : TÁC DỤNG CÓ LỢI CỦA ASPIRINE ĐƯỢC XÁC NHẬN

3 công tŕnh nghiên cứu phát hiện lợi ích của aspirine trong pḥng ngừa và điều trị các ung thư.

SANTE PUBLIQUE. Điều đó càng ngày càng rơ ràng : aspirine đóng một cách rơ ràng một vai tṛ dương tính không những trong sự pḥng ngừa, mà c̣n trong tiến triển của ung thư. Ba công tŕnh nghiên cứu mới, được công bố hôm thứ tư trong Lancet và Lancet Oncology củng cố những kết quả đă thu được bởi nhóm nghiên cứu của GS Peter Rothwell (đại học Oxford). Ngay năm 2007, những công tŕnh nghiên cứu của ông đă chỉ rơ rằng aspirine đưa đến một sự giảm toàn bộ nguy cơ về lâu về dài tử vong bởi ung thư. Vào năm 2010, trước hết ông đă chứng minh tác dụng có lợi này đối với ung thư đại trực tràng, rồi đối với những ung thư khác như tiền liệt tuyến, dạ dày, phổi, tụy tạng … Sự giảm toàn bộ này của tỷ lệ tử vong bởi ung thư, từ 20 đến 25% tùy theo các khối u ung thư, lại c̣n cao hơn (34%) khi thời gian dùng aspirine mỗi ngày vượt quá 5 năm.

Vấn đề c̣n phải biết là tác dụng có lợi này có được nhận thấy sau một thời gian dùng aspirine ngắn hơn hay không. Đó là điều mà Peter Rothwell và John Radcliffe (bệnh viện Oxford) đă t́m cách xác lập trong loạt các công tŕnh nghiên cứu mới này. Để được như thế, họ đă sử dụng như trước đây nhiều thử nghiệm lâm sàng đă từng đánh giá tác dụng của aspirine, được sử dụng với liều lượng hàng ngày nhằm pḥng ngừa lâu dài những tai biến mạch máu năo nhờ tác dụng chống ngưng kết tiểu cầu (effet anti-agrégant plaquettaire) và làm loăng máu.

Trong công tŕnh nghiên cứu thứ nhất được công bố hôm thứ tư bởi Lancet, phân tích các hồ sơ y khoa của 77.549 bệnh nhân được đưa vào trong 51 thử nghiệm pḥng ngừa tim mạch, cho thấy rằng, xét toàn bộ, aspirine làm giảm 15% nguy cơ tử vong bởi ung thư ở những bệnh nhân được điều trị so với những người chứng. Nguy cơ này ngay cả giảm 37% nếu ta chỉ xét đến 5 năm đầu tiên điều trị. Ngoài ra, trong 6 thử nghiệm pḥng ngừa nguyên phát những tai biến tim mạch bằng những liều thấp aspirine mỗi ngày (hoặc 35.535 người tham dự), sự xuất hiện một ung thư được làm giảm khoảng ¼ suốt trong 3 năm đầu điều trị, với kết quả gần như y hệt ở đàn ông (23%) và phụ nữ (25%). Nguy cơ xuất huyết do sử dụng aspirine có khuynh hướng thu giảm với thời gian điều trị.

Công tŕnh nghiên cứu thứ hai hướng về sự xuất hiện các di căn sau khi ung thư được chẩn đoán, trong 5 thử nghiệm về pḥng ngừa các tai biến tim mạch bởi aspirine với liều 75 mg mỗi ngày, hoặc 17.285 người. Thời gian theo dơi trung b́nh là 6,5 năm. Ở đây nguy cơ ung thư với di căn xa đă được thu giảm 36% trong nhóm được điều trị bởi aspirine, so sánh với nhóm chứng được điều trị với placebo. Sự thu giảm này đặc biệt (46%) đối với các adénocarcinome, những dạng thường gặp nhất của các khối u rắn (tumeur solide) (nhất là đại tràng, phổi, tiền liệt tuyến...), thấp hơn đối với những dạng ung thư khác. Đối với các adénocarcinome này, nguy cơ được giảm 31% nếu đó là chẩn đoán ung thư di căn tức thời, và 55% khi đó là những di căn xuất hiện sau chẩn đoán. Hiệu quả này độc lập với tuổi tác và giới tính.

Công tŕnh nghiên cứu thứ ba, được công bố bởi Lancet Oncology, công tŕnh này cũng quan tâm đến tác dụng pḥng ngừa của aspirine lên các di căn, nhưng lần này so sánh những kết quả của các thử nghiệm với những kết quả được tiến hành theo những phương pháp học khác. Công tŕnh này xác nhận sự làm giảm các di căn đối với nhiều loại ung thư được khảo sát (đại trực tràng, thực quản, dạ dày, vú...).

Đối với GS François Chast (Hôtel-Dieu, Paris), “ Sau khi đă lần lượt công nhận những tính chất của aspirine trong rhumatologie rồi trong cardiologie, ta sẽ hướng về một cách không thể tránh được sự công nhận lợi ích của aspirine trong pḥng ngừa các ung thư. Những kết quả trở nên có ư nghĩa bắt đầu từ năm thứ ba đối với liều cao, từ năm thứ 5 đối với những liều thấp, điều này khá nhanh, và công tŕnh nghiên cứu xác nhận sự cần thiết của sử dụng thuốc mỗi ngày.”Nhưng cũng phải cần ghi nhớ vài hạn chế của những công tŕnh nghiên cứu này, nhà dược học đă đánh giá như vậy : “ Các công tŕnh nghiên cứu này đă được thực hiện từ những công tŕnh nghiên cứu về pḥng ngừa tim mạch, vậy không phải được thai nghén bởi các chuyên gia về ung thư học. Ngoài ra, không nên xem thường nguy cơ xuất huyết tiêu hóa với aspirine, mặc dầu ta có thể làm giảm nó một cách đáng kể bằng cách điều trị những bệnh nhân này để trừ khử vi khuẩn Helicobacter pylori khỏi dạ dày của họ, hay bằng cách thêm vào điều trị một inhibiteur de la pompe à protons để hạn chế nguy cơ loét.” Nhưng, GS Chast đă đánh giá như vậy, “ những kết quả này có vẻ như báo hiệu mùa xuân của một phương thức mới trong ung thư học. ”
(LE FIGARO 21/3/2012)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 294 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (26/1/2013)

7/ METFORMINE : MỘT TÁC DỤNG CHỐNG UNG THƯ ?

Người ta đă đưa ra hai giả thuyết nói rằng hai loại thuốc, aspirine và các statines (statines được sử dụng chống xơ vữa động mạch), có những tác dụng pḥng ngừa chống lại nhiều ung thư.

Một dược phẩm được kê đơn rộng răi như là thuốc hạ đường huyết ở những người bị bệnh đái đường loại 2, metformine có cùng những tác dụng pḥng ngừa ; vào năm 2005, một công tŕnh nghiên cứu đă báo cáo một sự hạ tỷ lệ mắc phải ung thư ở những người đái đường được điều trị. Những thử nghiệm thí nghiệm sau đó đă xác nhận tác dụng chống khối u của dược phẩm này (trên những ḍng khác nhau những tế bào ung thư người và trên một mô h́nh động vật ung thư phổi) cũng như một sự gia tăng tính nhạy cảm đối với hóa học trị liệu của những tế bào ung thư của vú, tuyến tiền liệt và phổi. 3 công tŕnh nghiên cứu trên người mới đây cho thấy rằng, ở những người không bị đái đường, một sự hạ 40% nguy cơ ung thư đại trực tràng, một sự giảm trong ṿng 6 tuần thể tích khối u của tuyến tiền liệt ở 22 bệnh nhân, một tỷ lệ sống sót được nhân lên 3,7 lần ở 178 phụ nữ bị ung thư buồng trứng so với 239 người khác không sử dụng metformone. Cơ chế tác dụng vẫn c̣n chưa được hiểu rơ.
(PARIS MATCH 10/1 – 16/1/2012)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 296 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (14/2/2013)

7/ ĐỂ LÀM GIĂN CÁC ĐỘNG MẠCH : NHỮNG STENTS BIORESORBABLE.

GS Antoine Lafont, cardiologue interventionnel thuộc bệnh viện châu Âu Georges-Pompidou, trưởng kíp sửa chữa động mạch Inserm U970, giáo sư của đại học Paris-Descartes, đồng sáng lập của société française ART (đă hiệu chính stent biorésorbable châu Âu và đă được Agence nationale de sécurité du médicament (NSM) cho phép đánh giá trên vào năm 2012), giải thích những thiết bị mới này tránh những biến chứng lâu dài như thế nào.

Hỏi : Ông hay mô tả cho chúng tôi système implantable nhằm làm giăn rộng một động mạch bị hẹp.
GS Antoine Lafont : Đó là một ḷ xo nhỏ (petit ressort), bằng kim loại, được chế tạo để khai tắc một động mạch. Protocole gồm có đưa một cathéter được trang bị ở đầu mút bởi một stent, qua động mạch quay (cổ tay) hay động mạch đùi (của bẹn) và đưa nó đến tận vùng bị hẹp, ở đó stent triển khai, đẩy lùi các thành động mạch và mở lỗ của huyết quản. Khi đó máu có thể lưu thông một cách b́nh thường và mang đến tim oxy mà nó cần.

Hỏi : Ta đặt một stent trong những trường hợp nào ?
GS Antoine Lafont : ở những bệnh nhân bị cơn đau thắt ngực (đau tim do oxy mang đến tim không đủ) hay khi một xơ vữa động mạch nghiêm trọng làm hẹp những động mạch của các cẳng chân, gây đau trong các bắp chân khi bước. Chứng xơ vữa động mạch cũng có thể làm thương tổn các động mạch cảnh, khi đó gây nên một nguy cơ đột qụy.

Hỏi : Tính hiệu quả của những stent kim loại này là ǵ ?
GS Antoine Lafont : Mặc dầu stent đă có phép thay thế một số lớn các pontage, tuy nhiên chỉ định của chúng có những giới hạn. Để sử dụng các stent kim loại, chiều dài của hẹp động mạch không được quá quan trọng và những tắc động mạch (obstruction artérielle) không được quá nhiều. Các kết quả tỏ ra thỏa măn, ngay cả 25 năm sau khi đặt. Nhất là nhờ sử dụng các thuốc chống ngưng kết tiểu cầu (trong đó có aspirine), trong khoảng 12 tháng, để ngăn cản sự tạo thành các cục máu đông. Mặc dầu đó là một g̣ bó nhưng cần thiết. Cũng như ở tất cả những bệnh nhân bị bệnh động mạch vành, aspirine sẽ vẫn là một điều trị suốt đời. Các stent không chữa nguyên nhân của bệnh, nếu ta không điều trị những yếu tố nguy cơ (thuốc lá, tăng cholestérol-huyết, cao huyết áp, bệnh đái đường), những hẹp động mạch khác sẽ có thể xuất hiện.

Hỏi : Ta có thể lấy stent đi không ?
GS Antoine Lafont : Không, bởi v́ chúng được xếp lợp trong thành động mạch (sau một phản ứng sẹo), thành động mạch dày lên và có thể phát khởi một phản ứng viêm, có nguy cơ dần dần gây tắc lần nữa động mạch (resténose). Trong những trường hợp hiếm, sự tắc này xảy ra ngay cả một cách đột ngột. Do đó cần theo dơi đều đặn.

Hỏi : Làm sao, qua thời gian, ta đă t́m cách làm giảm những nguy cơ này ?
GS Antoine Lafont : Vào đầu những năm 2000, ta đă hiệu chính một kỹ thuật để bọc những stent kim loại này bằng một loại thuốc được phân tán tại chỗ để làm giảm phản ứng hóa sẹo. Kết quả : ta đă cải thiện mức độ dung nạp của các stent nhưng bệnh nhân buộc phải kéo dài sự sử dụng hai loại thuốc chống ngưng kết (đôi khi suốt đời) để tránh mối nguy cơ huyết khối.

Hỏi : Thành phần của những stent mới có thể tiêu đi (stents résorbables) này là ǵ ?
GS Antoine Lafont : Chúng không c̣n bằng kim loại nữa mà bằng polymère biorésorbable. Sau khi đă khai thông động mạch, chúng giữ động mạch mở cho đến khi các thành hóa sẹo. Rồi chúng tự phá hủy dần dần để biến mất trong khoảng 18 tháng.

Hỏi : Những công tŕnh nghiên cứu nào đă chứng tỏ tính hiệu quả của những stents biorésorbables nhất này ?
GS Antoine Lafont : Đă có nhiều công tŕnh quốc tế, trong đó công tŕnh mới nhất đang được tiến hành trên 1000 bệnh nhân. Những thử nghiệm này đă cho thấy một độ dung nạp tốt.

Hỏi : Ta có thể đặt bao nhiêu stent trên một bệnh nhân ?
GS Antoine Lafont : Đối với các stent biorésorbable, không có giới hạn. Đối với các stent kim loại, ở tại chỗ, ta cố giới hạn số lượng đặt.

Hỏi : Nói tóm lại những ưu điểm của các stent biorésorbable là ǵ ?
GS Antoine Lafont : 1. V́ chúng biến mất (như các chỉ tiêu) trong 18 tháng, nên chúng tránh những biến chứng về lâu về dài. 2. Trái với những stent kim loại, ta có thể đặt bao nhiêu stent biorésorbable nếu cần. 3. Chúng cho phép thu giảm 1 tháng thời gian điều trị bởi hai thuốc chống tiếu cầu. 4. Trong vài tháng, thành động mạnh lấy lại tính mềm dẻo của nó, bởi và thành không bị xếp lợp vào trong lồng kim loại của stent.
(PARIS MATCH 10/1-16/1/2013)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 297 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (23/2/2013)

9/ MÁY BAY : BƯỚC ĐỂ TRÁNH VIÊM TĨNH MẠCH

Những chuyến bay đường dài làm dễ nguy cơ viêm tĩnh mạch (phlébite), thậm chí nghẽn tắc động mạch phổi (embolie pulmonaire).

PNEUMOLOGIE. “ Đối với chúng tôi, đó là syndrome de malaise sur la passerelle au petit matin ” (hội chứng khó ở vào sáng sớm trên cầu thang máy bay), BS Philippe Bargain, thầy thuốc của phi trường Roissy đă kể lại như vậy. Sau một chuyến bay hơn 10 giờ, người hành khách trước đó đă uống một viên thuốc ngủ để ngủ, đứng dậy để bước xuống máy bay và cảm thấy khó ở. “ Trong số 60 triệu hành khách mỗi năm của phi trường Roissy, chúng tôi chứng thực khoảng một chục trường hợp mỗi năm, trong đó 2 hoặc 3 trường hợp tử vong ”, Philippe Bargain đă giải thích như vậy. Nguyên nhân của những triệu chứng khó ở này ? Nghẽn tắc động mạch phổi tiếp theo sau một huyết khối tĩnh mạch sâu (thrombose veineuse profonde) (hay viêm tĩnh mạch) do sự tạo thành của một cục máu đông trong các tĩnh mạch chi dưới. Lúc đứng dậy sau nhiều giờ không động đậy, người hành khách huy động cục máu đông và gởi nó vào trong tuần hoàn phổi.

Những tai biến cực kỳ nghiêm trọng này may mắn thay khá hiếm. Vào năm 2001, Samu 93 đă quan sát 56 trường hợp nghẽn tắc động mạch phổi nghiêm trọng trên hơn 135 triệu hành khách. “ Hoặc một tần số 0,4 trường hợp đối với một triệu hành khách và 4,8 trường hợp đối với những chuyến bay trên 10.000 km. Nhưng tỷ lệ thật sự của những biến cố bị đánh giá thấp bởi v́ những bệnh nhân với một huyết khối tĩnh mạch sâu hay một nghẽn tắc động mạch phổi không trầm trọng, một biến cố xảy ra thứ phát hay một ngừng tim đă không được tính đến ”, BS Frédéric Lapostolle, tác giả của công tŕnh nghiên cứu đă giải thích như vậy.

Tại sao nguy cơ viêm tĩnh mạch gia tăng lúc đi máy bay ? Huyết khối tĩnh mạch sâu (thrombose veineuse profonde) phát triển khi có sự hiện diện của một thương tổn của thành các huyết quản, do sự ứ đọng máu trong tĩnh mạch (satse veineuse), và những biến đổi của máu : đó là tam chứng Virschow. Tư thế ngồi, do làm dễ sự đè ép kéo dài các đùi chân lên cạnh của ghế ngồi, là nguồn gốc của các thương tổn của thành các mạch máu. Sư đè ép này cũng làm dễ sự ứ máu trong tĩnh mạch (stase veineuse), gây nên một sự gia tăng độ nhớt của máu (viscosité sanguine). Từ lâu được mệnh danh là hội chứng hạng kinh tế (syndrome de la classe économique), bệnh huyết khối nghẽn mạch (maladie thromboembolique) gây bệnh cho tất cả các hành khách, như hiệp hội của các thầy thuốc chuyên khoa phổi Hoa Kỳ vừa nhắc lại điều đó ngày 7/2 đồng thời công bố những khuyến nghị trong tạp chí Chest.

“ Toàn bộ, lúc đi máy bay, nguy cơ mắc phải một bệnh huyết khối nghẽn mạch, không nhất thiết trầm trọng, là 1 đối với 5000 chuyến bay ”, GS Joseph Emmerich, thầy thuốc chuyên khoa tim, chuyên gia các bệnh mạch máu ở Bệnh viện châu Âu Georges Pompidou (Paris) đă tương đối hóa như vậy. Tuy nhiên hiệp hội Hoa Kỳ nhắc lại rằng vài yếu tố làm gia tăng khả năng bị một viêm tĩnh mạch lúc đi máy bay. Đó là trường hợp của những tiền sử bị bệnh huyết khối nghẽn mạch, ung thư, phẫu thuật gần đây, tuổi tác, ngừa thai, thai nghén, béo ph́, bất động và do sự việc ngồi trên một chiếc ghế cạnh cửa sổ. “ Mặc dầu nguy cơ liên kết với thời gian hành tŕnh được xác lập một cách rơ ràng (bắt đầu từ 5 hay 7 giờ bay), vai tṛ của những yếu tố khác vẫn không chắc chắn. Nguy cơ dường như gia tăng ở các phụ nữ ”, BS Frédéric Lapostolle đă phát biểu như vậy.

Sau khi đă nhận diện những hành khách có nguy cơ, các thầy thuốc người Mỹ đă đưa ra một loạt những lời khuyên dành cho những kẻ đi những chuyến bay trên 6 giờ. Các thầy thuốc này chủ trương đi lại thường xuyên, kéo giăn các cơ của bắp chân, nên dùng những ghế ngồi cạnh hành lang và dùng tất và chausette de contention. “ Tôi khuyên uống nhiều. Điều này bắt buộc phải đứng dậy để đi tiểu. Để làm tốt, phải đi lại trong máy bay mỗi giờ, GS Isabelle Quéré, thầy thuốc mạch máu của CHU de Montpellier đă giải thích như vậy. Đối với contention, chú ư đừng bó chặt đầu gối cũng như đáy của đùi, điều đó có thể gây nên một viêm tĩnh mạch ”. Sau cùng Isabelle Quéré hết sức khuyên không nên dùng thuốc ngủ và uống rượu trên những chuyến bay dài tạo nên sự bất động,“ sự ứ đọng máu tĩnh mạch gây nên bởi tư thế khi đó giống hệt với sự ứ đọng của một gây mê, yếu tố của bệnh huyết khối nghẽn mạch ”.

PH̉NG NGỪA.

Ngược lại hiệp hội Hoa Kỳ vẫn rất thận trọng về sự pḥng ngừa bằng các thuốc kháng đông như aspirine hay các héparine. Một thực hành rất phổ biến ở Pháp. “ Không có lư do để mở rộng một dự pḥng bằng aspirine hay héparine”, GS Joel Constans, thay thuốc chuyên khoa mạch máu (Bordeaux) đă nhấn mạnh như vậy. “ Những người có nguy cơ cao đă được điều trị. Không có ǵ phải làm khác ngoài việc khuyên họ đứng dậy mỗi hai hay ba giờ và bước trong máy bay”, GS Joseph Emmerich đă nhấn mạnh như vậy. Đối với những hành khách đă bị một viêm tĩnh mạch nhưng không được điều tri kháng đông, quyết định sẽ tùy thuộc từng trường hợp.
(LE FIGARO 13/2/2012)
florida80_is_offline  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.10638 seconds with 10 queries