Thưa Thượng tướng, trong văn kiện Đại hội XI, lần đầu tiên chúng ta đă nhắc đến chiến lược đối ngoại quốc pḥng. Trong bối cảnh địa chính trị mới như thế này, khi thế giới đang có sự phân chia quyền lực quân sự một cách rất phức tạp, Việt Nam sẽ tham gia thế nào vào quá tŕnh phân chia này và làm thế nào để định vị ḿnh trên bản đồ quân sự thế giới?
Những phát triển, biến động của quốc pḥng trong khu vực và trên thế giới những năm qua rất đáng chú ư, thậm chí đáng ngại. Điều khiến tôi cảm thấy đáng ngại nhất là cách hành xử của một số nước đang quay về kiểu “ngoại giao pháo hạm”, là “chính trị cường quyền” của mấy chục năm về trước. Bên cạnh đó là dấu hiệu của một cuộc chạy đua vũ trang mới, khi mà có một số nước đang phát triển quốc pḥng một cách bất thường. Đây là một xu thế mới xuất hiện và cần được ngăn chặn.
Những nước muốn áp đặt đang mở rộng quan hệ để can dự mạnh hơn vào các khu vực trên thế giới. Những nước c̣n lại, trong đó có chúng ta th́ lại muốn xây dựng những luật chơi, những định chế trong can dự quân sự để đảm bảo công bằng, không xảy ra xung đột và tuân thủ luật pháp quốc tế.
V́ thế hoạt động đối ngoại quốc pḥng song phương và đa phương của các quốc gia đang diễn ra hết sức nhộn nhịp. Nhiều nước quan điểm rằng muốn xây dựng đối tác chiến lược, đối tác toàn diện mà không có hợp tác quốc pḥng – không có ḷng tin th́ không bao giờ có thể trở thành đối tác chiến lược, đối tác toàn diện.
Với các vấn đề đối ngoại quốc pḥng của thế giới và khu vực như vậy, chúng ta phải lựa chọn – hoặc là đứng ngoài cuộc, hoặc là phải cùng tham gia để giành lấy quyền lợi, vị thế chính đáng của chúng ta phải có trong khu vực. Nhưng tham gia như thế nào cũng là một vấn đề quan trọng không kém! Và chúng ta đă lựa chọn một cách đi mà tôi cho là rất đúng đắn. Khi tham gia cuộc chơi này, chúng ta luôn xác định cái ǵ có lợi cho đất nước th́ chúng ta làm. Và cái lợi này cũng phải đóng góp cho hoà b́nh ổn định của khu vực và thế giới.
Làm thế nào một nước nhỏ như VN có thể đạt được hai mục tiêu đó: quan trọng nhất là anh phải giữ cho bằng được độc lập tự chủ trong quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ quốc tế về quốc pḥng nói riêng. Độc lập tự chủ ấy quyết định việc quan hệ ấy có đem lại lợi ích cho đất nước hay không, có phương hại đến nước khác hay không.
Trong những năm qua, dù những can dự quốc pḥng trong khu vực, đặc biệt là các nước lớn rất mạnh mẽ, nhưng chúng ta không hề bị cuốn vào cuộc chơi đó. Chúng ta đứng bên cạnh, tự giữ lấy lợi ích quốc gia dân tộc, đóng góp những ǵ có thể vào hoà b́nh trong khu vực và thế giới.

"Đừng chỉ nh́n thấy một vài hiện tượng mà đă vội vàng mất ḷng tin"- Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh. Ảnh: Đức Anh
Có ư kiến lo ngại rằng, việc Việt Nam không liên minh quân sự với bất cứ quốc gia nào - như đường lối đối ngoại quốc pḥng của ta từ trước đến nay - sẽ khiến ta trở nên yếu thế và không có đồng minh nếu đất nước rơi vào hoàn cảnh có những xung đột vũ trang với quốc gia khác?
Chúng ta cần phải hiểu nội hàm của liên minh quân sự thực chất là ǵ? Liên minh quân sự là liên minh mà bao giờ cũng có đối tượng rất cụ thể, liên minh đó nhất định phải đối phó, phải ngăn chặn hoặc chống lại một ai đấy? Chúng ta không liên minh với bất cứ nước nào để chống lại một nước thứ ba hoặc nhóm nước thứ ba, bất luận là ai.
Chúng ta tin vào hợp tác quốc tế, tin vào việc những nỗ lực đóng góp cho sự ổn định khu vực sẽ giúp chúng ta tranh thủ được sự ủng hộ của dư luận thế giới.
Nh́n vào sự ủng hộ mà chúng ta nhận được từ hai cuộc kháng chiến, rồi ngay cả trong vấn đề biển Đông gần đây, rơ ràng niềm tin đó là hoàn toàn có cơ sở, dù trong thời đại hiện nay, lợi ích quốc gia dân tộc của mỗi nước được đưa lên rất cao. Nếu anh chấp nhận cách hành xử sai trái, phi lư, anh chịu khuất phục trước sức mạnh và gây sức ép đối với một quốc gia nào đó, th́ hôm nay là tôi, c̣n ngày mai có thể sẽ đến lượt anh. Thiện chí của chúng ta sẽ được bạn bè thế giới đồng t́nh ủng hộ.
Trước áp lực của việc khu vực và thế giới dường như đang bước vào một cuộc chạy đua vũ trang mới, Việt Nam sẽ đưa ra giải pháp nào để phát triển quân đội lớn mạnh, hoàn thành nhiệm vụ Quốc pḥng – An ninh trong bối cảnh kinh tế đất nước đang khó khăn như hiện nay?
Một số người khi thấy chúng ta mua tàu ngầm và trang bị thêm những vũ khí hiện đại đă hỏi tôi quân đội ta đă hiện đại hay chưa? Tôi đă trả lời, so với chính chúng ta trước đây th́ đó là bước tiến lớn, nhưng so với mặt bằng chung thế giới cũng như so với nhu cầu chung của chúng ta th́ c̣n rất khiêm tốn.
Nhưng chúng ta không dựa vào vũ khí làm yếu tố căn bản để bảo vệ Tổ quốc. Yếu tố mà chúng ta đề cao nhất là con người. Chúng ta tập trung vào sức mạnh toàn dân, với nội hàm là ḷng yêu nước và ư thức bảo vệ tổ quốc. Không có yếu tố đó, sẽ không có quân đội nào đánh thắng.
Chúng ta dựa vào việc xây dựng tư tưởng chính trị của CBCS trong toàn quân, bởi một người lính mà không có lư tưởng chính trị sẽ là một người lính tồi. Việc giáo dục CBCS là điều mà Bộ Quốc pḥng đặc biệt quan tâm, cần để những CBCS trẻ hiểu đúng, hiểu đủ về tinh thần yêu nước, bảo vệ tổ quốc và tính tất yếu trong sự lănh đạo của Đảng đối với quân đội.
Chúng ta cũng không thể quên việc đào tạo CBCS trong thời đại bùng nổ khoa học, CNTT, để họ có tŕnh độ ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, ngang tầm với sự phát triển của xă hội và thế giới; để nhận thức đầy đủ các vấn đề của xă hội xung quanh nhiệm vụ quốc pḥng; để sử dụng nhuần nhuyễn các thành quả kỹ thuật của khoa học quân sự khi vũ khí được trang bị mỗi ngày một hiện đại.
Nhiều người vẫn cứ nghĩ rằng quân đội hiện đại là quân đội có vũ khí trang bị hiện đại. Nhưng tôi lại nghĩ con người hiện đại mới quyết định chất lượng của quân đội đó. Khi có chiến tranh, chúng ta có thể mua vũ khí, nhưng nếu lúc đó không có những con người có thể sử dụng được nó th́ đó sẽ là vấn đề.
Có bao giờ ông h́nh dung quân đội sẽ đóng góp thế nào cho việc xây dựng nguồn lực con người cho đất nước, kể cả cho môi trường dân sự trong giai đoạn này?
Đó luôn là chủ trương của QĐND Việt Nam trong suốt quá tŕnh trưởng thành và phát triển.
Trước hết có thể khẳng định rằng, các CBCS trong quân đội vốn đă được đào tạo bồi dưỡng để trở thành người tốt. Họ được dạy về chính trị, kinh tế, văn hoá, xă hội, để khi rời quân ngũ, họ trở thành những công dân tốt và có đủ khả năng tiếp thu kiến thức mới trong đoạn đời tiếp theo của ḿnh. Họ cũng là những người có ư thức kỷ luật rất tốt khi đă rời khỏi quân đội.
Thế nên vừa rồi khi Quốc hội thông qua Luật Sĩ quan quân đội nhân dân sửa đổi và Luật Nghĩa vụ quân sự, chúng ta cũng cân nhắc rất kỹ về thời gian tại ngũ trong quân đội từ 18 tăng lên 24 tháng, để đảm bảo được những phẩm chất của môi trường quân đội sẽ vẫn được duy tŕ khi họ rời khỏi quân ngũ.
Chúng ta cũng có một lực lượng dự bị động viên rất lớn, được tổ chức bồi dưỡng về kiến thức chính trị, quân sự, quốc pḥng theo định kỳ. Chúng ta c̣n có lực lượng dân quân tự vệ, những người là ṇng cốt để giữ ǵn ổn định an ninh của từng địa phương, đảm bảo nền tảng của sự phát triển.
Cái vấn đề của chúng ta là chủ trương th́ có, nhưng việc đầu tư vào phát triển nguồn lực th́ mỗi nơi một khác. Nếu chúng ta quan tâm đúng mức, đồng bộ… th́ sẽ đóng góp rất nhiều. Đó cũng là điều mà tôi trăn trở nhiều năm nay.

"Con người hiện đại mới quyết định chất lượng của quân đội". Ảnh: Đức Anh
Quân đội không thể trở thành gánh nặng cho ngân sách
Dù nói rằng con người là yếu tố quyết định, nhưng không thể phủ nhận vũ khí, khí tài là một phần sức mạnh không thể thiếu của Quốc pḥng. Dù muốn dù không, chúng ta không thể không dành những khoản chi tiêu lớn cho nó. Chỉ riêng việc mua 6 tàu ngầm kilo của Nga trong mấy năm qua đă tiêu tốn 2,1 tỷ USD, chưa kể chi phí bảo tŕ hàng năm và chi phí xây dựng nơi trú ẩn cho đội tàu ngầm này. Việc đầu tư cho quốc pḥng liệu có trở thành gánh nặng cho ngân sách quốc gia? Bên cạnh việc mua những thứ tối thiểu cần, th́ việc phát triển công nghiệp quốc pḥng trong nước có phải là mục tiêu lâu dài của quân đội trong giai đoạn phát triển sắp tới không thưa Thượng tướng?
Hiện đại hoá quân đội là mục tiêu lâu dài và tất yếu, bắt buộc để đáp ứng t́nh h́nh mới.
Và như tôi đă nói từ lúc đầu, hiện đại hoá quân đội là hiện đại hoá cả con người, cả trang bị, khoa học, cả nghệ thuật quân sự. Cái mà quân đội Việt Nam đang hướng tới là một lực lượng quân đội tinh gọn, nhưng chất lượng nhân lực cao, đủ sức bảo vệ Tổ quốc.
Quân đội phải mạnh nhưng không để trở thành gánh nặng cho ngân sách đất nước. Những ǵ chúng ta mua là những thứ tối thiểu cần để xây dựng quân đội, đảm bảo khả năng tự vệ cần thiết.
Từ khá lâu rồi, người Mỹ đă tiến hành tư nhân hoá quốc pḥng trong lĩnh vực sản xuất vũ khí, khí tài quân sự. Nó góp phần tăng đáng kể nguồn thu cho công nghiệp nội địa Mỹ nói chung và công nghiệp quốc pḥng nói riêng, cũng là một cách giảm bớt gánh nặng ngân sách cho quốc pḥng. Liệu chúng ta tính đến hướng đi đó?
Công nghiệp quốc pḥng Việt Nam c̣n rất hạn chế, v́ chúng ta là một nước c̣n nghèo, KHCN chưa phát triển. Nhưng mặt khác, mô h́nh ở các nước tư bản lại không phù hợp để áp dụng ở VN v́ chúng ta không đi buôn vũ khí. Nếu có sản xuất, vũ khí đó cũng chỉ đảm bảo đáp ứng cho ḿnh ta thôi. Nên việc phát triển công nghiệp quốc pḥng, tư nhân hoá lĩnh vực này là việc trong tương lai gần chưa khả thi ở Việt Nam.
Nhưng QĐVN cũng có một điểm rất đặc sắc là những bộ phận kinh tế quốc pḥng tham gia vào những lĩnh vực lưỡng dụng trong đời sống xă hội. Chúng ta có 23 đoàn kinh tế QP đóng ở những vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Quân đội cũng có những tập đoàn kinh tế rất mạnh vừa có nhiệm vụ đóng góp vào phát triển kinh tế quốc dân, đồng thời thực hiện nhiệm vụ quốc pḥng như Tập đoàn Viettel, Tân Cảng Tp.HCM…
Họ thực hiện nghiêm các quy định của luật pháp nhà nước, chịu chung những rủi ro của kinh tế thị trường, không có bất cứ đặc ân hay ngoại lệ nào. Tôi cho rằng tính kỷ luật của quân đội đă giúp họ làm nên thành công. Tất cả những bộ phận kinh tế quốc pḥng này khi thời b́nh họ làm kinh tế, đóng góp cho ngân sách, nhưng vẫn không quên nhiệm vụ của một người lính, sẵn sàng bất cứ lúc nào cho nhiệm vụ thời chiến.
Mọi quốc gia đều hiểu mối liên hệ mật thiết giữa an ninh – quốc pḥng với sự ổn định của kinh tế đất nước. Với điều kiện cụ thể của Việt Nam, quốc pḥng đă đủ sức trở thành “bảo hiểm” cho sự ổn định, hay chưa?
Nói đúng ra, th́ quân đội là đảm bảo sự bền vững của đất nước về mặt vĩ mô, bền vững về chủ quyền, bền vững về hoà b́nh. Chính sự bền vững ấy giúp đất nước có cơ hội đặt ra những kế hoạch về kinh tế - xă hội phù hợp với sự phát triển của đất nước, không bị động bởi những tác động từ bên ngoài.
Việc bảo vệ môi trường ổn định cho sự phát triển là nhiệm vụ của quân đội. Và nếu không làm được việc đó, nghĩa là quân đội chưa hoàn thành nhiệm vụ. Đến giờ tất cả mọi người đều nói quân đội ta hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Khi xưa, chúng ta huy động toàn dân đánh giặc, toàn quốc kháng chiến. Giả định nếu bây giờ đất nước có biến cố, mà xấu nhất là t́nh huống chiến tranh, ông h́nh dung chúng ta sẽ huy động nguồn lực trong điều kiện kinh tế thị trường như thế nào?
Chắc chắn khi mà đất nước bị uy hiếp, toàn dân sẽ đóng góp cho quân đội trong khả năng của ḿnh. Không chỉ trong thời chiến, ngay cả trong thời b́nh, đến bây giờ nhân dân vẫn rất chăm lo xây dựng quân đội lớn mạnh, càng ngày càng tiến lên hiện đại. Đơn cử là hầu như không có nước nào trên thế giới mà được dân ủng hộ như ở Việt Nam trong việc mua sắm vũ khí, khí tài. Người dân nước khác muốn Chính phủ ḿnh dùng tiền đó để lo cho an sinh xă hội. Nhưng người Việt Nam th́ ngược lại. Dù họ biết, tiền đó là tiền ngân sách, và nếu không dùng vào việc mua sắm vũ khí, nó sẽ dùng để chăm lo cho đời sống của chính họ.
Đă có thời, chúng ta có được ḷng tin tuyệt đối của nhân dân. Những câu chuyện về t́nh quân dân như cá với nước là những câu chuyện đă được kể măi cho đến giờ. C̣n hiện nay, có người nói ḷng tin đó đang dần bị mai một khi mà cơ chế của chúng ta đang ngày càng lộ ra nhiều bất cập. Vậy nếu đối mặt với những nguy cơ trong tương lai, người lính phải làm ǵ để duy tŕ, giữ ǵn được thứ ḷng tin kỳ diệu ấy của nhân dân với ḿnh?
Tôi có niềm tin rằng ḷng tin của dân với Đảng, với quân đội vẫn giữ nguyên vẹn như những ngày đầu. Nhưng nó thể hiện ở những dạng thức khác nhau, do bối cảnh lịch sử khác nhau.
Những lúc khó khăn nhất, sự gắn kết sẽ thể hiện một cách rơ rệt nhất, sâu sắc nhất. Và lúc đó, phẩm chất của con người nó phát triển mạnh mẽ nhất. Không phải vô cớ mà ta nói thời đại chống Mỹ, thời đại Hồ Chí Minh là đỉnh cao của lịch sử Việt Nam.
Nhưng nói vậy không có nghĩa là không c̣n khó khăn th́ không c̣n t́nh nghĩa. Giờ không c̣n là thời mà chiến sĩ và nhân dân cùng ăn, cùng ở, cùng đánh giặc, sự hiểu biết của người dân với quân đội không c̣n như xưa, nhưng mỗi người cán bộ chiến sĩ khi được giáo dục rồi đưa vào môi trường công tác và chiến đấu đều đảm bảo rằng t́nh cảm của người chiến sĩ với nhân dân vẫn không hề thay đổi. Chưa cần nói đến chiến tranh, chỉ khi khó khăn thôi, phẩm chất đó đă được thể hiện rất rơ.
Ngày hôm qua, trong vụ sập hầm thuỷ điện ở Lâm Đồng, những người đào hầm, chui vào giải cứu được công nhân là bộ đội công binh. Năm 2009, Hà Tĩnh gặp băo lũ lớn. Nước từ thượng nguồn ồ ạt đổ về, kéo theo hàng ngh́n m3 gỗ khiến công tŕnh Thuỷ điện Hố Hô gặp sự cố không thể mở được cống thoát lũ do bị tắc cống, nguy cơ vỡ đập cận kề, có thể khiến mấy huyện phía dưới sẽ bị xoá trắng. Trước nguy cơ vỡ đập, một đại đội công binh đă lao xuống đập để vớt gỗ, vớt rác, mở được cửa đập, cứu cho hàng vạn người dân không bị mất nhà mất cửa, đe doạ tính mạng.
Tôi đă được chứng kiến những người lính công binh âm thầm làm nhiệm vụ của ḿnh, không quản ngại nguy hiểm đến tính mạng. Những điều đó và c̣n rất nhiều ví dụ khác nữa khiến tôi tin rằng mối quan hệ quân dân trong thời b́nh có thể không có nhiều cơ hội để thể hiện một cách rơ ràng. Rồi ngay cả việc tuyên truyền của chúng ta cũng chưa thực đầy đủ để tăng mối gắn kết ấy, nhưng chắc chắn rằng, khi dân cần quân đội, quân đội chưa bao giờ từ chối bất cứ một nhiệm vụ nào, dù khó khăn đến mấy. Kể cả hi sinh.
Giữ ǵn ḷng tin của nhân dân dành cho quân đội như trong quá khứ, như những ǵ mà chúng ta đă luôn nói về thế hệ Bộ đội cụ Hồ có phải là mục tiêu của tất cả những người lính QĐND Việt Nam?
Chúng ta có ḷng tin mạnh mẽ về phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, nhưng chúng ta không được chủ quan, v́ không bao giờ được phép nghĩ rằng dân đă tin th́ sẽ tin măi. Nếu không nhận thức được sự thay đổi của xă hội, yêu cầu mới của thời đại, không luôn luôn tự rèn luyện ḿnh th́ việc mất niềm tin sẽ rất dễ xảy ra. Không thoả măn với ḿnh là điều mà những người lính chúng tôi sẽ phải luôn tự nhắc nhở.
Nhưng tôi tin rằng tuyệt đại đa số quân nhân, ư chí chung của quân đội là bảo vệ tổ quốc, phục vụ nhân dân, giữ ǵn niềm tin và t́nh yêu của người dân với bộ đội cụ Hồ.
Xin cảm ơn Thượng tướng.
Theo Lan Hương
VietNamnet